Ghép tế bào gốc tự thân điều trị đa u tủy xương là phương pháp điều trị có hiệu quả. Tuy nhiên, tại Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu. Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm đưa ra một số đặc điểm khối tế bào gốc và diễn biến sau ghép tự thân của 4 bệnh nhân đa u tủy xương tại Bệnh viện Bạch Mai từ 12/2012 đến 5/2013. Phương pháp: Tiến cứu, mô tả từng trường hợp. Kết quả: Bốn bệnh nhân nữ đa u tủy xương đã ghép tự thân tế bào gốc máu ngoại vi, tuổi từ 50 ‐59, được hóa trị liệu tấn công bằng 1 trong các phác đồ VAD, TD, VD, điều kiện hóa bằng Melphalan liều cao 200 mg/m2. Truyền tế bào gốc sau 24 giờ điều kiện hóa với thể tích trung bình khối tế bào gốc là 402 ml, liều tế bào đơn nhân, CD34+ lần lượt là 10,47 x 108/kg (7,08 ‐ 13,4) và 6 x 106/ kg (5,3 ‐ 6,69). Thời gian mọc bạch cầu đoạn trung tính (> 0,5 G/l) khoảng 9‐10 ngày, mọc tiểu cầu (trên 50 G/l) là 10‐13 ngày. Biến chứng chủ yếu là: nôn‐ buồn nôn, tiêu chảy, ít hơn là sốt nhiễm trùng, loét miệng. Kết luận: Kết quả bước đầu ghép tự thân tế bào gốc máu ngoại vi của 4 bệnh nhân đa u tủy xương cho thấy có hiệu quả, vì vậy nên tiếp tục nghiên cứu áp dụng phương pháp điều trị này để tiến tới có những kết quả rõ ràng hơn.
6 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 265 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số đặc điểm khối tế bào gốc và diễn biến sau ghép tế bào gốc tự thân 4 bệnh nhân đau tủy xương tại Bệnh viện Bạch Mai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 220
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM KHỐI TẾ BÀO GỐC VÀ DIỄN BIẾN
SAU GHÉP TẾ BÀO GỐC TỰ THÂN 4 BỆNH NHÂN ĐA U TỦY XƯƠNG
TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Phạm Quang Vinh**, Đỗ Mạnh Tuấn*, Vũ Văn Trường*, Nguyễn Tuấn Tùng*, Vũ Hoàng*,
Hàn Viết Trung*, Nguyễn Thị Lan*, Vũ Minh Phương**, Nguyễn Thị Lan Hương*
TÓM TẮT
Ghép tế bào gốc tự thân điều trị đa u tủy xương là phương pháp điều trị có hiệu quả. Tuy nhiên, tại Việt
Nam chưa có nhiều nghiên cứu.
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm đưa ra một số đặc điểm khối tế bào gốc và diễn biến sau ghép tự thân của 4
bệnh nhân đa u tủy xương tại Bệnh viện Bạch Mai từ 12/2012 đến 5/2013.
Phương pháp: Tiến cứu, mô tả từng trường hợp.
Kết quả: Bốn bệnh nhân nữ đa u tủy xương đã ghép tự thân tế bào gốc máu ngoại vi, tuổi từ 50 ‐59, được
hóa trị liệu tấn công bằng 1 trong các phác đồ VAD, TD, VD, điều kiện hóa bằng Melphalan liều cao 200 mg/m2.
Truyền tế bào gốc sau 24 giờ điều kiện hóa với thể tích trung bình khối tế bào gốc là 402 ml, liều tế bào đơn nhân,
CD34+ lần lượt là 10,47 x 108/kg (7,08 ‐ 13,4) và 6 x 106/ kg (5,3 ‐ 6,69). Thời gian mọc bạch cầu đoạn trung tính
(> 0,5 G/l) khoảng 9‐10 ngày, mọc tiểu cầu (trên 50 G/l) là 10‐13 ngày. Biến chứng chủ yếu là: nôn‐ buồn nôn,
tiêu chảy, ít hơn là sốt nhiễm trùng, loét miệng.
Kết luận: Kết quả bước đầu ghép tự thân tế bào gốc máu ngoại vi của 4 bệnh nhân đa u tủy xương cho thấy
có hiệu quả, vì vậy nên tiếp tục nghiên cứu áp dụng phương pháp điều trị này để tiến tới có những kết quả rõ
ràng hơn.
Từ khóa: Ghép tế bào gốc tự than, Đa u tủy xương.
ABSTRACT
SOME CHARACTERISTICS OF THE STEM CELL MASS AND CHANGES FOLLOWING
AUTOLOGOUS STEM CELL TRANSPLANTATION IN FOUR PATIENTS
WITH MULTIPLE MYELOMA AT BACH MAI HOSPITAL
Pham Quang Vinh, Do Manh Tuan, Vu Van Truong, Nguyen Tuan Tung, Vu Hoang, Han Viet Trung,
Nguyen Thi Lan, Vu Minh Phuong, Nguyen Thi Lan Huong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 5 ‐ 2013: 220 ‐ 225
Treatment of multiple myeloma by autologous peripheral stem cell transplantation after high doses of
chemicals is effective. However, in Vietnam there were not many studies.
Objective: This study aims to provide some characteristics of the stem cell mass and changes following
autologous peripheral stem cell transplantation in four patients with multiple myeloma at Bach Mai hospital from
12/2012 to 5/2013.
Methods: A prospective, descriptive case.
Results: Four female patients with multiple myeloma with autologous peripheral stem cell transplantation
from 50 to 59 years old, was attacked by chemotherapy regimen 1 in: VAD, TD, VD and conditioned with high‐
* Bệnh Viện Bạch Mai. ** Đại Học Y Hà Nội
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Tuấn Tùng ĐT: 0912 110 905 Email: tunghhbm@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 221
dose Melphalan 200 mg/m2. Stem cell infusion after 24 hours of a dose conditions with The average volume of the
stem cell mass: 402 ml, mononuclear cells: 10.47 x 108/kg (7.08 to 13.4) and CD34+: 6 x 106/ kg (5.3 to 6.69).
Time for engraftment the neutrophils and platelets about 9‐10 days and 10‐13 days. Major complications were:
nausea‐vomiting, diarrhea, less than that is fever infection, mouth ulcers.
Conclusion: The initial results of autologous peripheral stem cell transplantation 4 multiple myeloma
patients showed can continue to apply this method to obtain more precise conclusions.
Key word: Autologus peripheral stem cell transplantation, Multiple myeloma.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đa u tuỷ xương là bệnh máu ác tính đặc
trưng là sự tăng sinh, tích lũy các tương bào và
các tế bào này sản xuất ra một loại globulin đơn
dòng, gây tổn thương các cơ quan, thường gặp
là xương và thận.
Đã có nhiều nghiên cứu điều trị đa u tủy
xương. Hiện nay phương pháp điều trị khá
thống nhất trên thế giới là xây dựng các phác đồ
căn cứ theo tuổi người bệnh. Với lứa tuổi dưới
65 thì các trung tâm nghiên cứu phổ biến sử
dụng phác đồ điều trị hóa chất có thể có
bortezomib và ghép tế bào gốc tự thân(1,2).
Để thực hiện ghéo tế bào gốc tự thân cần
các bước thu nhận tế bào gốc, điều kiện hóa
bằng phác đồ hóa chất liều cao, ghép lại tế bào
gốc và sau đó chăm sóc sau ghép. Quá trình
chăm sóc sau ghép khá quan trọng nhất là giai
đoạn giảm bạch cầu do tủy xương bệnh nhân
bị diệt bằng hóa chất mà tế bào gốc mới ghép
chưa kịp mọc(7).
Ở Việt Nam phương pháp ghép tế bào gốc
tự thân đã được sử dụng tại một số trung tâm và
chủ yếu để điều trị đa u tủy xương(5). Để góp
phần thực hiện thành công ghép tế bào gốc tạo
máu tự thân, chúng tôi nghiên cứu quá trình
diễn biến lâm sàng và tế bào máu sau ghép, mục
tiêu là:
1. Mô tả một số đặc điểm khối tế bào gốc tự thân
2. Theo dõi diễn biến lâm sàng và xét nghiệm tế
bào máu ngoại vi sau ghép.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Bốn bệnh nhân được chẩn đoán đa u tủy
xương sau hóa trị liệu tấn công (TD, VD VAD)
đạt tiêu chuẩn để ghép tự thân:
‐ Bệnh nhân dưới 65 tuổi,
‐ Ít nhất đạt được đáp ứng một phần sau
điều trị tấn công (theo IMWG).
‐ Không mắc các bệnh lý mạn tính ảnh
hưởng đến quá trình ghép.
Phương pháp nghiên cứu
Tiến cứu, mô tả các ca bệnh đa u tủy xương
được ghép tế bào gốc tự thân tại khoa Huyết học
truyền máu, Bệnh viện Bạch Mai từ 12/2012 đến
5/2013:
Thu thập tế bào gốc
Bốn bệnh nhân được huy động tế bào gốc
ngoại vi bằng G‐CSF liều 10 μg/kg/ ngày, tiến
hành thu thập tế bào gốc sau 72 giờ bằng máy
chiết tách tự động khi đếm số lượng CD 34+
trước thu hoạch trên 10 tế bào/ μl. Sau đó, các túi
tế bào gốc đều được chúng tôi tiến hành bảo
quản ở 4 độ C, không có túi tế bào gốc nào bảo
quản ở ‐ 196 độ C.
Điều kiện hóa và truyền tế bào gốc
Chúng tôi tiến hành điều kiện hóa ngay
sau khi tách tế bào gốc, phác đồ điều kiện hóa
diệt tủy Melphalan liều cao (200mg/m2) ở ngày
‐1 trước ghép. Tế bào gốc được truyền trở lại
sau 24 giờ điều kiện hóa qua catheter tĩnh
mạch trung tâm.
Điều trị hỗ trợ
‐ G‐CSF: 2 bệnh nhân đầu chúng tôi điều
trị G‐CSF khi số lượng bạch cầu đoạn trung
tính dưới 0,5 G/l thấy sau dùng lần đầu tiên
thấy số lượng BC tăng nhanh sau đó giảm lại
thấp hơn thời điển bắt đầu điều trị mặc dù vẫn
đang dùng G‐CSF nên 2 bệnh nhân sau chúng
tôi bắt đầu điều trị G‐CSF khi số lượng bạch
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 222
cầu đoạn trung tính xuống thấp nhất cho đến
khi mọc mảnh ghép.
‐ Dự phòng nhiễm trùng: Bệnh nhân nằm
phòng vô trùng và sử dụng kháng sinh dự
phòng chống nấm, vi rút và vi khuẩn (Quinolon,
Flucorazol, Acyclovir).
‐ Dinh dưỡng: Do trung tâm dinh dưỡng
cung cấp xuất ăn vô trùng và/hoặc dinh dưỡng
qua đường tĩnh mạch đảm bảo năng lượng
30Kcal/Kg/ ngày.
‐ Truyền máu và tiểu cầu: Truyền KHC duy
trì Hb > 80 g/l, truyền KTC duy trì số lượng tiểu
cầu > 20 G/l.
Tiêu chuẩn đánh giá
Đánh giá đáp ứng: Theo tiêu chuẩn của tổ
chức đa u tủy xương thế giới (International
Myeloma Working Group ‐ IMWG): đáp ứng
hoàn toàn (Complete response ‐ CR), đáp ứng 1
phần rất tốt (very good partial response ‐ VGPR),
đáp ứng một phần (partial response ‐ PR).
Đánh giá nhiễm trùng và sốt không nhiễm trùng:
theo tiêu chuẩn năm 2003 của hội Hồi sức và
Lồng ngực Mỹ (American Colleague of Chest
Physicans and Society of Critical Care Medicine‐
ACCP/SCCM).
KẾT QUẢ
Đặc điểm của 4 bệnh nhân trước ghép
Bốn bệnh nhân đa u tủy xương được tiến
hành ghép tự thân từ 12/2012 đến 5/2013 đều là
nữ, tuổi trung bình là 54,9 ± 3,7 (50 ‐59).
Bảng 1: Một số đặc điểm bệnh nhân trước ghép
Đặc điểm Bệnh nhân
Thể bệnh IgG: 3 bệnh nhân Chuỗi nhẹ: 1 bệnh nhân
Giai đoạn bệnh theo ISS GĐII: 2 bệnh nhân GĐIII: 2 bệnh nhân
Phác đồ điều trị tấn công
VAD: 1 BN (8 đợt)
VD: 1 BN (5 đợt)
TD: 2 BN (4 đợt và 6 đợt)
Đáp ứng hóa chất tấn công trước ghép 3/4 BN đáp ứng hoàn toàn, 1/4 bệnh nhân đáp ứng một phần.
Thời gian từ lúc chẩn đoán đến khi ghép 1 BN đầu tiên: 20 tháng 3 BN: 5-7 tháng
Đặc điểm 4 bệnh nhân trong quá trình ghép
Đặc điểm của khối tế bào gốc
Bảng 2: Một số đặc điểm khối tế bào gốc
Khối tế bào gốc Đặc điểm
Thể tích khối tế bào gốc 402,25 ± 149, 15 (216 -581)
Ghép tươi (không lưu trữ -1960C) 4 bệnh nhân
Liều tế bào đơn nhân trung bình 10,47 ± 2,69 x 108/kg (7,08 - 13,4)
Liều tế bào CD34+ trung bình 6 ± 0,623 x 106/ kg (5,3 - 6,69)
Số lần tách khối tế bào gốc 1/4 bệnh nhân tách 2 lần, 3/4 bệnh nhân tách 1 lần
Một số biến chứng trong quá trình ghép
Bảng 3: Một số biến chứng trong quá trình ghép
Đặc điểm Bệnh nhân
Sốt nhiễm trùng 1/4 bệnh nhân
Sốt không do
nhiễm trùng
3/4 bệnh nhân (xuất hiện ngày 0 và ngày 1
sau ghép, nhiệt độ cao nhất 38,5 độ C)
Nôn- buồn nôn 4/4 bệnh nhân
Tiêu chảy 3/4 bệnh nhân
Loét miệng 1/4 Bệnh nhân
Đặc điểm huyết sắc tố, bạch cầu đoạn trung
tính và tiểu cầu của 4 bệnh nhân trong quá
trình ghép
Trong quá trình theo dõi sau ghép chúng tôi
thấy nồng độ huyết sắc tố, số lượng bạch cầu, số
lượng tiểu cầu đều giảm, trong đó nồng độ
huyết sắc tố (Hb) giảm xuống thấp nhất là 78 g/l,
nhưng không phải truyền máu, số lượng bạch
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 223
cầu đoạn trung tính (BCĐTT) thấp nhất là 0 g/l,
số lượng tiểu cầu (TC) giảm thấp nhất là 18 g/l,
diễn biến cụ thể như sau:
0
20
40
60
80
100
120
140
160
Hb vao 1 5 8 11 15 20
BN1
BN2
BN3
BN4
Biểu đồ 1: Diễn biến nồng độ huyết sắc tố trong quá trình ghép
0
10
20
30
40
50
60
70
1 4 7 10 13 16 19
BN1
BN2
BN3
BN4
Biểu đồ 2: Diễn biến số lượng bạch cầu đoạn trung tính trong quá trình ghép
0
50
100
150
200
250
300
350
TCvao 1 4 7 10 13 16 19 TCra
BN1
BN2
BN3
BN4
Biểu đồ 3: Diễn biến số lượng tiểu cầu trong quá trình ghép
Một số đặc điểm trong quá trình điều trị sau ghép
Bảng 4: Một số đặc điểm trong quá trình điều trị sau ghép
Đặc điểm Bệnh nhân
Ngày trung bình sử dụng G-CFS 7,5 ± 1,29 (6 - 9)
Kháng sinh dự phòng (Quinolon, acyclovir, fluconazol) 4/4 bệnh nhân
Kháng sinh điều trị nhiễm khuẩn 1/4 bệnh nhân
Dinh dưỡng tĩnh mạch 3/4 bệnh nhân
g/l
Ngày
G/l
Ngày
G/l
Ngày
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 224
Đặc điểm Bệnh nhân
Số đơn vị tiểu cầu từ 1 người cho trung bình 2 đơn vị
Số đơn vị hồng cầu trung bình 0 đơn vị
Ngày hồi phục bạch cầu đoạn trung tính ≥ 0,5 G/l 9,5 ± 0,58 (9 - 10)
Ngày phục hồi tiểu cầu ≥ 50 G/l 11,5 ± 1,73 (10 - 13)
Ngày nằm viện trung bình 33 ± 4,54 (29 -39)
BÀN LUẬN
Ghép tế bào gốc tự thân điều trị đa u tủy
xương cho bệnh nhân dưới 65 tuổi đến nay vẫn
là phương pháp điều trị có hiệu quả(8). Bốn bệnh
nhân đa u tủy xương được tiến hành ghép tế bào
gốc máu ngoại vi tự thân tại khoa Huyết học ‐
Truyền máu, Bệnh viện Bạch Mai từ 12/2012 đến
5/2013 đều là nữ, tuổi trung bình là 54,9 ± 3,7 (50
‐59). Đây là những bệnh nhân đầu tiên được
ghép tế bào gốc tự thân tại bệnh viện chúng tôi,
theo thể bệnh có 3 bệnh nhân IgG và 1 bênh
nhân chuỗi nhẹ; theo giai đoạn bệnh có 2 bệnh
nhân giai đoạn 2 và 2 bệnh nhân giai đoạn 3;
theo mức độ lui bệnh có 3 bệnh nhân lui bệnh
hoàn toàn và 1 bệnh nhân lui bệnh 1 phần.
Trong 4 bệnh nhân này có 1 bệnh nhân điều trị
tấn công phác đồ VAD 8 đợt và từ thời điểm
chẩn đoán đến thời điểm ghép tế bào gốc là 20
tháng, đây là bệnh nhân đầu tiên chúng tôi ghép
nên thời gian chờ đợi lâu. Ba bệnh nhân còn lại
điều trị phác đồ VD và TD 4‐6 đợt và ghép sau
chẩn đoán 5‐7 tháng.
Tại bệnh viện chúng tôi do chưa có hệ thống
lưu trữ lạnh sâu ‐ 196 độ C, nên tất cả 4 bệnh
nhân đều ghép tế bào gốc 1 lần, khối tế bào gốc
được bảo quản ở nhiệt độ 4 độ C, không qua xử
lý và bảo quản ở ‐ 196 độ C. Số lượng tế bào có
nhân trung bình là 10,47 ± 2,69 x 108/kg, số lượng
tế bào CD34+ trung bình là 6 ± 0,623 x 106/ kg (5,3
‐ 6,69), số lượng tế bào gốc như vậy là phù hợp
và cũng tượng tự như một số nghiên cứu(6,9).
Truyền tế bào gốc sau điều kiện hóa 24 giờ,
trong đó bệnh nhân đầu tiên phải truyền 2 túi tế
bào gốc (tách tế bào gốc 2 lần), còn lại 3 bệnh
nhân chỉ phải truyền 1 túi tế bào gốc (tách tế bào
gốc 1 lần). Xu hướng hiện nay túi tế bào gốc máu
ngoại vi sau khi được chiết tách đều được xử lý
và bảo quản ở nhiệt độ ‐ 196 độ C sẽ chủ động
được bệnh nhân và quá trình ghép, tuy nhiên
ghép tế bào gốc không qua xử lý và bảo quản
lạnh sâu vẫn là phương pháp phù hợp điều trị
đa u tủy xương ở những cơ sở không có hệ
thống lưu trữ này(3,7).
Với liều tế bào CD34+ phù hợp, 4 bệnh nhân
trong báo cáo này đều mọc ghép tốt. Thời gian
mọc mảnh ghép khoảng 9‐ 10 ngày đối với bạch
cầu đoạn trung tính (> 0,5 G/l), khoảng 10 ‐13
ngày đối với tiểu cầu (> 50 g/l). Kết quả này cũng
tương đồng với nghiên cứu của Huỳnh Đức
Vĩnh Phú và CS tại viện Truyền máu huyết học
Thành phố Hồ Chí Minh năm 2013(5) và nhiều
nghiên cứu trên thế giới(3,4). 4 bệnh nhân này
trong quá trình ghép thì chỉ phải truyền tiểu cầu,
không truyền đơn vị hồng cầu nào, mặc dù có 1
bệnh nhân có lượng huyết sắc tố thấp sau ghép
(78 g/l) nhưng cũng phục hồi nhanh sau đó. Các
nghiên cứu trên thế giới cho thấy ở nhóm bệnh
nhân đa u tủy xương khi ghép tự thân cũng
truyền máu và các chế phẩm không nhiều(4,7).
Nghiên cứu tác dụng phụ sau điều kiện hóa
bằng Alkeran liều cao (200 mg/m2 da) ở 4 bệnh
nhân, chúng tôi thấy 4/4 bệnh nhân nôn‐ buồn
nôn, 3/4 bệnh nhân tiêu chảy, 3/4 bệnh nhân sốt
không do nhiễm trùng xuất hiện ở ngày 0 và 1
sau ghép, chỉ có 1/4 bệnh nhân có sốt nhiễm
trùng và loét miệng. Các biến chứng này hầu hết
ở mức độ nhẹ và trung bình, cải thiện nhanh
chóng khi bạch cầu hồi phục. Trong đó chỉ có 1
bệnh nhân chúng tôi điều trị kháng sinh mạnh
khi phát hiện có nhiễm khuẩn. Đồng thời, bệnh
nhân này cũng bị tiêu chảy kéo dài sau ghép, sau
đó chúng tôi phát hiện bệnh nhân nhiễm giun
lươn và được điều trị Ivermectin trong 5 ngày,
bệnh nhân ổn định.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 225
Trong quá trình ghép, chế độ dinh dưỡng
của 4 bệnh nhân đều được bác sỹ dinh dưỡng
chỉ định và xuất ăn vô trùng được cung cấp bởi
trung tâm dinh dưỡng, đảm bảo năng lượng 30
Kcalo/ kg/ 24 giờ, có 3/4 bệnh nhân được dinh
dưỡng thêm bằng đường tĩnh mạch. Vì vậy
trong quá trình ghép các bệnh nhân đều được
đảm bảo dinh dưỡng tối đa.
Theo phân loại tiêu chuẩn của tổ chức đa u
tủy xương thế giới (International Myeloma
Working Group ‐ IMWG) 4 bệnh nhân sau ghép
đều đạt lui bệnh hoàn toàn, tuy nhiên trước
ghép trong các bệnh nhân này chỉ có 1 bệnh
nhân lui bệnh 1 phần, còn lại là lui bệnh hoàn
toàn. Trong nghiên cứu này không thể đưa ra
được tỉ lệ đáp ứng sau ghép vì số lượng bệnh
nhân còn quá ít và chưa theo dõi được dài hạn.
Tuy nhiên qua kết quả thu được chúng tôi thấy
đây vẫn là phương pháp điều trị có hiệu quả ở
nhóm bệnh nhân này, cần được tiếp tục triển
khai với số lượng bệnh nhân lớn hơn để có được
những kết luận tốt hơn.
KẾT LUẬN
Đặc điểm khối tế bào gốc tự thân thu nhận
ngày thứ 4 sau huy động: thể tích trung bình là
402 ml, số lượng tế bào có nhân trung bình là:
10,47 ± 2,69 x 108/kg (7,08‐13,4), số lượng tế bào
CD34+ trung bình là 6 ± 0,623 x 106 tế bào/ kg
(5,3‐6,69).
Diễn biến sau ghép:
‐ 4/4 bệnh nhân nôn‐ buồn nôn, 3/4 bệnh
nhân có tiêu chảy và sốt không nhiễm trùng, chỉ
có 1/4 bệnh nhân có nhiễm trùng và loét miệng.
‐ Diễn biến hồi phục tế bào máu: Ngày hồi
phục bạch cầu đoạn trung tính (≥ 0,5 G/l) sau
ghép là 9,5 ± 0,58 ngày (9‐10 ngày); Ngày phục
hồi tiểu cầu (≥ 50 G/l) sau ghép là 11,5 ± 1,73
ngày (10‐13 ngày).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aetna Inc (2013), “Clinical Policy Bulletin: High Dose
Chemotherapy with Bone Marrow or Peripheral Stem Cell
Transplant for Multiple Myeloma”,
www.aetna.com/cpb/medical/data/400_499/0497.html.
2. Cavo M., Baccarani M., et al. (2008), “Prospective,
Randomized Study of Single Compared With Double
Autologous Stem‐Cell Transplantation for Multiple Myeloma:
Bologna 96 Clinical Study”, Journal of clinical oncology, 26(14):
2434‐2441.
3. Gertz M.A., Kumar S., Hogan W.J., et al. (2010), “Stem cell
transplantation in multiple myeloma: impact of response
failure with”, Blood, 115(12): 2348‐2353.
4. Harousseau J.L., Moreau P. (2009), “Autologous
hematopoietic stem‐cell transplantation for multiple
myeloma”, NEJM, 360(25): 2645‐2654.
5. Huỳnh Đức Vĩnh Phú, Đặng Quốc Nhi, Huỳnh Văn Mẫn,
Phù Chí Dũng, Nguyễn Tấn Bỉnh (2013), “Bước đầu đánh giá
hiệu quả phương pháp tự ghép tế bào gốc máu ngoại vi ở
bệnh nhân đa u tủy xương tại bệnh viện Truyền máu huyết
học TP.HCM”, Y học Việt Nam, 405: 118‐125.
6. Kumar S.K., Gertz M.A., et al. (2008), “Outcome after
autologous stem cell transplantation for multiple myeloma in
patients with preceding plasma cell disorders”, British Journal
of Haematology, 141: 205–211.
7. Lazarus H.M., Herzig G.P., et al. (2008), “High‐dose
melphalan and the development of hematopoietic stem‐cell
transplantation: 25 years later”, Journal of Clinical Oncology, l 26
(14): 2240‐2243.
8. Martinez‐Lopez J., et al (2011), “Long‐term prognostic
significance of response in multiple myeloma after stem cell
transplantation”, Blood, 118(3): 529‐34.
9. Trần Ngọc Quế, Hoàng Thị Huế, Võ Thị Thanh Bình, Bạch
Quốc Khánh, Nguyễn Anh Trí (2013), “Nghiên cứu kết quả
thu thập khối tế bào gốc máu ngoại vi dùng điều trị một số
bệnh máu tại viện Huyết học truyền máu trung ương”, Y học
Việt Nam, 405: 138‐144.
Ngày nhận bài báo: 20 tháng 8 năm 2013
Ngày phản biện: 04 tháng 9 năm 2013
Ngày bài báo được đăng: 22 tháng 10 năm 2013