Mục tiêu: Điều tra tỷ lệ bệnh nhân lọc máu định kỳ có nhiễm virus viêm gan siêu vi B, C. Tìm hiểu tỷ lệ
mới mắc và các đặc điểm lâm sàng của các bệnh nhân mắc phải virus viêm gan siêu vi B, C trong quá trình lọc
máu. Đánh giá tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân lọc máu định kỳ có nhiễm virus viêm gan siêu vi B, C tại khoa ThậnLọc máu bệnh viện Thống Nhất, Tp HCM.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng: 161 bệnh nhân (BN) lọc máu định kỳ tại khoa ThậnLọc máu Bệnh Viện Thống Nhất trong khoảng thời gian 06 năm (2006-2011). Tiêu chuẩn chọn bệnh: tất cả các
BN suy thận mạn (STM) giai đoạn cuối được điều trị dài ngày tại khoa Thận-Lọc máu với thời gian lọc máu ≥
6 tháng. Tiêu chuẩn loại trừ: BN lọc máu cấp cứu, lọc máu ngắn ngày < 6 tháng. Phương pháp nghiên cứu: tiến
cứu, mô tả, cắt ngang và theo dõi dọc. Xử lý số liệu thống kê: phần mềm SPSS. 13.0 với các thuật toán thông
thường.
Kết quả: Tỷ lệ BN lọc máu định kỳ có nhiễm virus VGSV B thay đổi trong khoảng 2,17-7,21%, tính chung
trong 6 năm là 4,89%. Nhiễm virus VGSV C là 12,37-15,22%, tính chung trong 6 năm là 19,58%. Nhiễm virus
VGSV B và C là 1,03-3,08%, tính chung trong 6 năm là 2,09%. Không ghi nhận trường hợp nào mắc mới
VGSV B trong quá trình lọc máu. Tỷ lệ mắc mới VGSV C: 0-4,23%. Trong số này, có 3/7 (42,86%) BN có biểu
hiện vàng da, tăng men gan, tăng bilirubin máu. Tỷ lệ tử vong ở BN lọc máu định kỳ có nhiễm virus VGSV B
và hoặc C là 60,53% cao hơn so với nhóm không nhiễm virus VGSV 34,26% (p<0,05).
Kết luận: Qua nghiên cứu dịch tễ học về nhiễm virus viêm gan siêu vi B, C tại khoa Thận-Lọc máu bệnh
viện Thống Nhất, Tp HCM trong thời gian 06 năm (2006-2011), chúng tôi rút ra một số kết luận sau: Bệnh
nhân lọc máu định kỳ nhiễm virus VGSV C chiếm tỷ lệ cao (19,58%). Đứng hàng thứ 2 là nhiễm virus VGSV B
(4,89%) và 2,09% đồng nhiễm virus VGSV B và C. Lây nhiễm trong quá trình lọc máu chỉ gặp virus VGSV C
với tỷ lệ mắc phải hằng năm là 0-4,23%. Ở các bệnh nhân này, chỉ có 42,86% có biểu hiện vàng da hoặc tăng
men gan, tăng bilirubin máu. Tỷ lệ tử vong do tất cả các nguyên nhân sau 06 năm ở các bệnh nhân lọc máu
định kỳ có nhiễm virus VGSV B và hoặc C cao hơn so với bệnh nhân không nhiễm virus VGSV.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 365 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số đặc điểm về dịch tể học của nhiễm virus viêm gan siêu vi B, C ở bệnh nhân lọc máu định kỳ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 77
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ DỊCH TỂ HỌC CỦA NHIỄM VIRUS VIÊM GAN
SIÊU VI B, C Ở BỆNH NHÂN LỌC MÁU ĐỊNH KỲ
Nguyễn Bách*, Nguyễn Văn Tỉnh*, Bùi Văn Thuỷ*, Lê Ngọc Trân*, Bùi Trọng Hưng*,
Trần Huỳnh Ngọc Diễm*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Điều tra tỷ lệ bệnh nhân lọc máu định kỳ có nhiễm virus viêm gan siêu vi B, C. Tìm hiểu tỷ lệ
mới mắc và các đặc điểm lâm sàng của các bệnh nhân mắc phải virus viêm gan siêu vi B, C trong quá trình lọc
máu. Đánh giá tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân lọc máu định kỳ có nhiễm virus viêm gan siêu vi B, C tại khoa Thận-
Lọc máu bệnh viện Thống Nhất, Tp HCM.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng: 161 bệnh nhân (BN) lọc máu định kỳ tại khoa Thận-
Lọc máu Bệnh Viện Thống Nhất trong khoảng thời gian 06 năm (2006-2011). Tiêu chuẩn chọn bệnh: tất cả các
BN suy thận mạn (STM) giai đoạn cuối được điều trị dài ngày tại khoa Thận-Lọc máu với thời gian lọc máu ≥
6 tháng. Tiêu chuẩn loại trừ: BN lọc máu cấp cứu, lọc máu ngắn ngày < 6 tháng. Phương pháp nghiên cứu: tiến
cứu, mô tả, cắt ngang và theo dõi dọc. Xử lý số liệu thống kê: phần mềm SPSS. 13.0 với các thuật toán thông
thường.
Kết quả: Tỷ lệ BN lọc máu định kỳ có nhiễm virus VGSV B thay đổi trong khoảng 2,17-7,21%, tính chung
trong 6 năm là 4,89%. Nhiễm virus VGSV C là 12,37-15,22%, tính chung trong 6 năm là 19,58%. Nhiễm virus
VGSV B và C là 1,03-3,08%, tính chung trong 6 năm là 2,09%. Không ghi nhận trường hợp nào mắc mới
VGSV B trong quá trình lọc máu. Tỷ lệ mắc mới VGSV C: 0-4,23%. Trong số này, có 3/7 (42,86%) BN có biểu
hiện vàng da, tăng men gan, tăng bilirubin máu. Tỷ lệ tử vong ở BN lọc máu định kỳ có nhiễm virus VGSV B
và hoặc C là 60,53% cao hơn so với nhóm không nhiễm virus VGSV 34,26% (p<0,05).
Kết luận: Qua nghiên cứu dịch tễ học về nhiễm virus viêm gan siêu vi B, C tại khoa Thận-Lọc máu bệnh
viện Thống Nhất, Tp HCM trong thời gian 06 năm (2006-2011), chúng tôi rút ra một số kết luận sau: Bệnh
nhân lọc máu định kỳ nhiễm virus VGSV C chiếm tỷ lệ cao (19,58%). Đứng hàng thứ 2 là nhiễm virus VGSV B
(4,89%) và 2,09% đồng nhiễm virus VGSV B và C. Lây nhiễm trong quá trình lọc máu chỉ gặp virus VGSV C
với tỷ lệ mắc phải hằng năm là 0-4,23%. Ở các bệnh nhân này, chỉ có 42,86% có biểu hiện vàng da hoặc tăng
men gan, tăng bilirubin máu. Tỷ lệ tử vong do tất cả các nguyên nhân sau 06 năm ở các bệnh nhân lọc máu
định kỳ có nhiễm virus VGSV B và hoặc C cao hơn so với bệnh nhân không nhiễm virus VGSV.
Từ khoá: Suy thận mạn, lọc máu định kỳ, viêm gan siêu vi B, C
ABSTRACT
EPIDEMIOLOGY OF HEPATITIS B AND C VIRUS INFECTION IN CHRONIC HEMODIALYSIS:
A STUDY DURING 6 YEARS
Nguyen Bach, Nguyen Van Tinh, Bui Van Thuy, Le Ngoc Tran, Bui Trong Hung,
Tran Huynh Ngoc Diem* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 3 - 2012: 77 - 83
Objective: Discribing the prevalence of HBV and HCV infection in chronic hemodialysis (HD) patients,
investigating the incidence of seroconversion for HBV and HCV yearly and evaluating the mortality rate of
* Khoa Thận- Lọc máu. BV Thống Nhất Tp HCM
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Bách. ĐT: 838640339 ext 409,203. Email: bachnguyen32@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
Chuyên Đề Thận Niệu 78
chronic HD patients with HBV and/ or HCV infection in a HD unit in Ho Chi Minh City, Vietnam.
Patients and method: Patients 161 chronic HD patients in Nephrology and Dialysis Department, Thong
Nhat Hospital, during 6 years (2006-2011). Inclusion criteria: all chronic HD patients followed up long-term in
the HD unit. Exclusion criteria: acute HD patients and the patients dialyzed less than 6 months. Method:
prospective and observational. The presence of HBV antigens was determined with an ECLIA kit (Roche) and
HCV antibodies with the Elecsys assay, third generation test (Roche). All chronic HD patients were tested at start
of HD and every 6 months for anti-HCV and HbsAg, anti-HBsAg, anti-HBeAg. The following individual data
were collected: gender, age, duration of dialysis, dialyzers reused, blood transfution and serum ALT, AST,
bilirubin (every 2 months). Stastictical analysis: using SPSS version 13.0 with standard analysis.
Results: HBV prevalence in HD patients yearly was 2.17-7.21% and 4.89% in average for 6 years. HCV
prevalence yearly was 12.37-15.22% and 19.58% in average for 6 years. Co-infection was seen yearly in 1.01-
3.26% of subjects and 2.09% in average for 6 years. Hepatitis B infection acquired in HD patients was not
recorded during 6 years. HCV incidence of HD patients yearly 0-4.23%. In those patients; jaundice, increasing of
serum ALT, AST and bilirubin had been observed in 42.86%. Mortality rate of HD patients with hepatitis B
and/or C infection during 6 years was 60.53% higher than non-hepatitis B and/ or C infection (p<0.05).
Conclusions: In department of Nephrology and Dialysis, Thong Nhat Hospital, Vietnam. High prevalence
of anti-HCV (+) and lower prevalence HBsAg in chronic hemodialysis patients. The incidence of seroconversion
for HCV yearly was 0-4.23%. In those, only 42.86% patients had jaundice, increasing of serum AST, ALT and
bilirubin. Mortality rate of hemodialysis patients with hepatitis B and/or C infection during 6 years was higher
significantly than non-hepatitis B and/ or C infection.
Key words: Chronic renal failure, chronic hemodialysis, hepatitis B, C.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm virus viêm gan siêu vi (VGSV) ở bệnh
nhân (BN) chạy thận nhân tạo (CTNT) là vấn đề
rất thường được quan tâm trong thực hành tại các
khoa thận nhân tạo (TNT). Theo dõi tình hình
nhiễm virus VGSV ở BN lọc máu chu kỳ là rất
cần thiết, có ý nghĩa trong việc tìm ra các biện
pháp để kiểm soát, phòng chống lây lan virus và
phân bố phòng lọc máu, máy TNT hợp lý tại
khoa thận nhân tạo. Tỷ lệ nhiễm virus VGSV B, C
ở BN lọc máu định kỳ rất khác nhau theo từng
quốc gia, từng địa phương, khoảng 2-40%(1,3).
Các con đường lây truyền virus VGSV ở BN
lọc máu gồm lây qua chế phẩm máu bị nhiễm
virus VGSV. Tuy nhiên, ngày nay do sử dụng
EPO thay cho truyền máu nên đã hạn chế được
tối đa nguy cơ lây lan qua cách này. Lây lan do
môi trường bị nhiễm virus VGSV (enviromental
contamination) hiện nay là con đường lây nhiễm
chính. Virus VGSV tồn tại rất lâu trong môi
trường, ở các nút ở máy thận nên dễ lây lan trong
khoa TNT. Lây lan virus còn do kim chọc nhầm
tay, lây chéo qua các lưới lọc theo dõi áp lực.
Virus VGSV khó lây qua con đường dịch lọc thận
do đường kính của lỗ màng lọc 7nm nhỏ hơn
đường kính của virus(4,2).
Biểu hiện lâm sàng, cận lâm sàng của VGSV
B ở BN lọc máu không có gì khác biệt so với ở
BN thông thường. BN suy thận mạn khi nhiễm
virus VGSV B thường không có biểu hiện lâm
sàng hoặc chỉ có biểu hiện nhẹ, 60% chuyển
thành mạn tính. Biểu hiện lâm sàng của VGSV C
có thời kỳ ủ bệnh 1-6 tháng(1). Kết quả một số
nghiên cứu ghi nhận tỷ lệ tử vong ở BN lọc máu
định kỳ có nhiễm virus VGSV B, C cao hơn so
với các BN không nhiễm virus VGSV(7,6,5).
Trên thế giới, đã có rất nhiều nghiên cứu về
tình hình nhiễm VGSV B, C ở BN CTNT định kỳ
về mặt dịch tễ học, lâm sàng, cận lâm sàng và các
biện pháp phòng lây chéo.
Tại Việt Nam, tỷ lệ nhiễm virus VGSV B, C
trong dân số ở mức cao. Theo hội gan mật Việt
Nam, tỷ lệ VGSV B chiếm 15-20% dân số và
VGSV C thấp hơn khoảng 1,8-4% dân số. Nhiều
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 79
BN đã bị nhiễm sẵn virus VGSV B, C trước khi
bắt đầu vào chương trình lọc máu định kỳ và đây
chính là “nguồn lây” cho những BN khác trong
khoa lọc máu và lây cho cả nhân viên y tế. Quá
trình lọc máu định kỳ trong thời gian dài có thể
BN CTNT bị lây nhiễm virus VGSV từ BN khác
(mắc mới). Do vậy, vấn đề cần đặt ra cho khoa
TNT là kiểm soát và khống chế sự lây nhiễm
virus VGSV ở các BN lọc máu định kỳ. Mục tiêu
nghiên cứu:
- Điều tra tỷ lệ bệnh nhân lọc máu định kỳ có
nhiễm virus viêm gan siêu vi B, C.
- Tìm hiểu tỷ lệ mới mắc và các đặc điểm lâm
sàng của các bệnh nhân mắc phải virus viêm gan
siêu vi B, C trong quá trình lọc máu.
- Đánh giá tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân lọc máu
định kỳ có nhiễm virus viêm gan siêu vi B và
hoặc C.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bệnh nhân
Tổng số có 161 BN lọc máu chu kỳ trong 06
năm (1/2006-1/2011). Trong đó có 18 BN không
có điều kiện theo dõi dọc trong suốt 06 năm do
BN chuyển sang lọc màng bụng, ghép thận. Tiêu
chuẩn chọn bệnh: tất cả các BN STM giai đoạn
cuối được điều trị dài ngày tại Khoa Thận-Lọc
máu, bệnh viện Thống Nhất Tp HCM với thời
gian lọc máu định kỳ ≥ 6 tháng. Tiêu chuẩn loại
trừ: BN lọc máu cấp cứu, lọc máu ngắn ngày tại
khoa (< 6 tháng).
Phương pháp nghiên cứu
Tiến cứu, mô tả, cắt ngang và theo dõi dọc.
Tất cả các BN STM giai đoạn cuối khi bắt đầu
vào chương trình lọc máu định kỳ đều được xét
nghiệm HbsAg, HbeAg, ani-HbsAg và anti-
HCV, men gan và chức năng đông chảy máu
toàn bộ. Xác định kháng nguyên virus VGSV B
bằng test ECLIA kit (Roche) và kháng thể virus
VGSV C với Elecsys assay, thế hệ thứ 3 (Roche).
Các xét nghiệm sàng lọc VGSV B, C được
thực hiện định kỳ và đồng loạt cho tất cả các BN
lọc máu định kỳ mỗi 06 tháng.
Trường hợp trong quá trình lọc máu phát
hiện BN có biểu hiện viêm gan cấp: xét nghiệm
lại lần 2 HbsAg, HbeAg, anti- HbsAg và anti-
HCV.
Bệnh nhân có HbsAg, HbeAg và anti-HCV
dương tính được cách ly riêng: lọc máu bằng
máy riêng, rửa màng bằng máy riêng, màng lọc
sau tái sử dụng được bảo quản riêng biệt.
Những BN có biến đổi anti- HCV hoặc
HbsAg từ âm tính sang dương tính xảy ra
trong quá trình lọc máu đều được kiểm tra 2
lần để xác định chắc chắn không có nhầm lẫn
từ phòng xét nghiệm.
Thử nghiệm miễn dịch phát hiện anti-HCV
tại Bệnh viện Thống nhất với độ nhạy 100%, độ
đặc hiệu 99,71%.
Xử lý thống kê
Phần mềm SPSS. 13.0 với các thuật toán
thông thường.
KẾT QUẢ
Bảng1: Đặc điểm của bệnh nhân trong nghiên cứu
(n=161)
Đặc điểm Số BN (%)/
Trung bình±SD
Tuổi 65,33±12,98
Giới - Nam
- Nữ
95(59,01)
66 (40,99)
Thời gian lọc máu (tháng) 36,53±29
Nguyên nhân suy thận mạn, n (%)
- ĐTĐ
- THA
- Bệnh gout
- Viêm cầu thận mạn
- Khác
20(26,67)
25(33,33)
5(6,67)
7(9,33)
18(24)
Tái sử dụng màng lọc, n (%) 154 (95,65)
Bảng 2: Tỷ lệ bệnh nhân lọc máu định kỳ có nhiễm
virus viêm gan siêu vi hằng năm
Năm Số BN
nghiên
cứu
BN nhiễm
VGSV B,
n (%)
BN nhiễm
VGSV C,
n (%)
BN nhiễm
VGSV B và C,
n (%)
2006 65 3 (4,62) 9 (13,85) 2 (3,08)
2007 92 2 (2,17) 14 (15,22) 3 (3,26)
2008 92 4 (4,35) 13 (14,13) 2 (2,17)
2009 99 6 (6,06) 15 (15,15) 1 (1,01)
2010 97 7 (7,21) 12 (12,37) 1 (1,03)
2011 83 2 (2,41) 11 (13,25) 1 (1,20)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
Chuyên Đề Thận Niệu 80
Năm Số BN
nghiên
cứu
BN nhiễm
VGSV B,
n (%)
BN nhiễm
VGSV C,
n (%)
BN nhiễm
VGSV B và C,
n (%)
Chung 143 7 (4,89) 28 (19,58) 3 (2,09)
Bảng 3: Tỷ lệ mắc mới (incidence) virus VGSV B, C
trong quá trình lọc máu
Năm Tổng
số BN
khảo
sát
Số BN lọc
máu
không mắc
VGSV B
BN mắc
mới
VGSV B,
n (%)
Số BN lọc
máu
không mắc
VGSV C
BN mắc
mới
VGSV C,
n (%)
2006 65 60 0 (0) 54 0 (0)
2007 92 90 0 (0) 76 1 (1,32)
2008 92 86 0 (0) 79 2 (2,53)
2009 99 77 0 (0) 71 3 (4,23)
2010 97 89 0 (0) 85 1 (1,18)
2011 83 80 0 (0) 71 0 (0)
Bảng 4: Một số đặc điểm của bệnh nhân bị mắc mới
VGSV C xảy ra trong qúa trình lọc máu.
Đặc điểm Số BN
(n=7)
Tỷ lệ (%),
Trung bình ± SD
Tuổi 69,13±11,92
Giới: Nam
Nữ
6
1
85,71
14,29
Thời gian lọc máu (tháng) 36,53±29
Tái sử dụng màng lọc 6 85,71
Vàng da, tăng men gan, tăng
bilirubin máu
3 42,86
Tiền sử truyền máu 0 0
Thời gian từ lúc lọc máu đến lúc
phát hiệm mắc phải virus
(tháng)
6-24
Bảng 5: Tỷ lệ tử vong do tất cả các nguyên nhân ở
bệnh nhân lọc máu định kỳ có nhiễm virus viêm gan
siêu vi B và hoặc C
Có nhiễm virus
VGSV B và hoặc
C (n=38)
Không nhiễm
virus VGSV B
và hoặc C
(n=105)
p
Sống, n (%) 15(39,47) 69 (65,71) <0,05
Tử vong, n
(%)
23 (60,53) 36 (34,29) <0,05
BÀN LUẬN
Tỷ lệ BN lọc máu có nhiễm virus VGSV C
qua các năm trong nghiên cứu này là ở mức
cao (12,37-15,22%) và theo dõi qua 06 năm
chúng tôi nhận thấy tỷ lệ này chưa có biểu hiện
giảm (bảng 2). Tính chung trong 6 năm, sau
khi đã loại bớt 18 BN chuyển sang ghép thận,
thẩm phân phúc mạc còn lại 143 BN được theo
dõi xuyên suốt từ lúc bắt đầu lọc máu đến thời
điểm kết thúc nghiên cứu hoặc đến lúc tử
vong, bảng 2 cho thấy tỷ lệ BN lọc máu có
nhiễm virus VGSV C là 19,58%. Tỷ lệ BN lọc
máu có VGSV C ở mức cao trong nghiên cứu
này chủ yếu là do hằng năm luôn có các BN
STM mới (5-6 BN/năm) vào chương trình lọc
máu định kỳ bị nhiễm virus VGSV C từ trước
và do có một số ít BN (1-3 BN/năm) bị lây
nhiễm virus VGSV C trong quá trình lọc máu
(bảng 3). Điểm đáng lưu ý là trong cộng đồng
dân số Việt Nam, tỷ lệ nhiễm virus VGSV C chỉ
chiếm 1,8-4%. Như vậy, tỷ lệ nhiễm virus
VGSV ở BN STM cao hơn so với cộng đồng?
Chúng tôi giả định rằng có thể do có mối liên
quan giữa nhiễm virus VGSV C và bệnh lý cầu
thận gây STM của BN trong mẫu nghiên cứu?
Hoặc do các BN STM có tiền sử tiêm chích
thuốc, truyền máu trước đây? Hoặc do có sự
khác biệt về xét nghiệm sử dụng trong điều tra
cộng đồng (thường dùng test nhanh) và xét
nghiệm sử dụng ở các BN lọc máu trong
nghiên cứu (dùng test Elecsys assay, thế hệ
thứ 3 của hãng Roche với độ nhạy và độ đặc
hiệu cao hơn). Để giải thích các vấn đề này cần
có những nghiên cứu sâu hơn. So sánh với số
liệu của các tác giả ở các nước khác (bảng 6)
chúng tôi nhận thấy tỷ lệ BN STM có nhiễm
virus VGSV C của chúng tôi tương đương với
các tác giả ở Brazil, thấp hơn so với Đài Loan,
Trung Quốc và cao hơn nhiều so với Mỹ,
Đức(1,3). Tỷ lệ cao nhiễm virus VGSV C cho
thấy tầm quan trọng của vấn đề theo dõi, tầm
soát, giám sát lây lan virus VGSV C ở BN lọc
máu định kỳ nhằm gỉảm thiểu sự lây lan virus
VGSV C tại các khoa thận nhân tạo.
Trong nghiên cứu này, hằng năm cũng có
giảm bớt 1 số BN STM có nhiễm virus VGSV B, C
(1-4 BN/năm). Nguyên nhân giảm số BN nhiễm
virus VGSV không phải do virus biến mất mà là
do các BN này bị tử vong vì các bệnh lý nội-
ngoại khoa khác do vậy hằng năm luôn có một
số BN nhiễm virus VGSV mới vào và BN tử vong
gần tương đương nên số lượng BN nhiễm virus
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 81
VGSV thường ở mức cao và ổn định 19-26%
(bảng 2).
Về nhiễm virus VGSV B ở BN lọc máu định
kỳ: tỷ lệ BN có nhiễm virus VGSV B hằng năm
khoảng 2,17-7,21% và theo dõi qua 06 năm
chúng tôi cũng nhận thấy tỷ lệ này chưa có
biểu hiện giảm (bảng 2). Tính chung trong 6
năm, sau khi đã loại bớt 18 BN chuyển sang
ghép thận, thẩm phân phúc mạc và chuyển
sang trung tâm lọc máu khác, còn lại 123 BN
được theo dõi xuyên suốt từ lúc bắt đầu lọc
máu đến thời điểm kết thúc nghiên cứu hoặc
đến lúc tử vong, bảng 2 cho thấy tỷ lệ BN lọc
máu có nhiễm virus VGSV B là 4,89%. So sánh
với các tác giả ở các nước khác (bảng 6),
nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ BN STM có
nhiễm virus VGSV B tại bệnh viện chúng tôi ở
mức thấp, tương đương với số liệu tại Mỹ, Đài
loan, Đức và thấp hơn nhiều so với Trung
Quốc(1,3).
Bảng 6: Tỷ lệ bệnh nhân lọc máu định kỳ có mắc
VGSV B, C ở một số nước
Nước Tỉ lệ (%) nhiễm
virus VGSV B
Tỉ lệ (%) nhiễm
virus VGSV C
Trung Quốc 22 34
Đài Loan 2,1 27
Mỹ 2,4 8,4
Đức 4,6 7
Brazil 12-45 11-26
Chúng tôi 2,17-7,21 12,37-15,22
Kết quả ở bảng 2 còn ghi nhận có 2,09% BN
đồng nhiễm cả 2 loại virus trên, chủ yếu do BN
có nhiễm sẵn virus VGSV B sau đó trong quá
trình lọc máu mắc thêm virus VGSV C.
Một nguyên nhân khác cũng có thể giải thích
sự khác biệt nhau một cách rõ rệt về tỷ lệ nhiễm
virus VGSV B, C ở các nghiên cứu là do các
nghiên cứu sử dụng các test khác nhau với độ
nhạy và độ đặc hiệu thay đổi. Ở BN lọc máu, các
test gián tiếp định tính huyết thanh (anti- HCV,
HBsAg) sử dụng trong nghiên cứu thường
không chính xác để đánh giá tình hình nhiễm
virus VGSV B, C do BN bị suy giảm miễn dịch
nên anti-HCV âm tính giả và sự suy giảm miễn
dịch cũng ảnh hưởng khẳ năng thải virus ra khỏi
cơ thể. Do vậy, các tác giả đề nghị nên sử dụng
test trực tiếp: phát hiện RNA virus dựa vào kỹ
thuật khuyếch đại (PCR). Định lượng HBV DNA
PCR, HCV RNA PCR sẽ cho kết qủa chính xác
hơn(1). Tuy nhiên, chi phí các xét nghiệm PCR
cao, trong khi cần phải xét nghiệm tầm soát
thường xuyên mỗi 3-6 tháng nên hiện tại các test
định tính huyết thanh vẫn còn sử dụng rộng rãi ở
các trung tâm lọc máu và phù hợp với điều kiện
kinh tế của Việt Nam.
Một vấn đề quan trọng khác là sự lây lan
virus VGSV trong quá trình lọc máu đặc biệt là
virus C. Tỷ lệ mắc mới virus VGSV C trong quá
trình lọc máu là 1,18-4,23% (bảng 3). Theo một
nghiên cứu tại Bỉ cho thấy tỷ lệ mắc phải VGSV C
tại trung tâm lọc máu vào năm 1991-1992 là
1,41% (tương tự kết quả chúng tôi). Tuy vậy, tỷ lệ
lây lan virus VGSV C trong lúc lọc máu tại Bỉ
đang được giảm dần nhờ nhấn mạnh đến yếu tố
nhiễm trùng và lây nhiễm cho dù vẫn tái sử
dụng màng lọc(3,2). Khuyến cáo của các tác giả
trong nghiên cứu là nên kiểm soát tốt, chặt chẽ
quy trình chống nhiễm khuẩn sẽ giảm thiểu
nguy cơ lây lan virus. Trong nghiên cứu này,
chúng tôi chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu
nguyên nhân mắc phải VGSV trong quá trình lọc
máu nhưng có thể do 2 yếu tố: lây nhiễm qua
môi trường tại phòng lọc máu và trong quá trình
rửa lại màng lọc. Nghiên cứu của J Pinto dos
Santos và cộng sự cho thấy tỷ lệ mắc phải VGSV
ở các trung tâm lọc máu có áp dụng biện pháp
cách ly BN VGSV ở phòng riêng và ở các BN
không tái sử dụng lại màng lọc thấp hơn rõ rệt so
với các trung tâm lọc máu không có áp dụng
biện pháp cách ly BN VGSV ở phòng riêng với
OR = 0,06 (0,01-0,22; p < 0,001 và ở các BN có tái
sử dụng lại màng lọc với OR = 1,53 (1,07-2,18); p =
0,02(2).
Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở BN mắc
phải virus VGSV C trong qúa trình lọc máu rất
mơ hồ, thường không có triệu chứng (75%)
hoặc nhẹ và 60% chuyển thành mạn tính(4).
Trong nghiên cứu này có 7 BN bị mắc phải
virus VGSV trong 06 năm theo dõi và chúng
tôi chỉ phát hiện được 3 BN (42,86%) nhờ có
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012
Chuyên Đề Thận Niệu 82
biểu hiện vàng da, 4 trường hợp còn lại nhờ
tầm soát định kỳ (bảng 4). Trong các BN mắc
phải VGSV trong quá trình lọc máu không có
BN nào có sốt, triệu chứng mệt mỏi và chán ăn
là các triệu chứng thường gặp nhất nhưng
không điển hình, dễ bỏ qua do đây cũng là
triệu chứng thường gặp ở BN suy thận mạn lọc
máu. Triệu chứng vàng da ít gặp hơn (3/7 BN)
nhưng khó phát hiện do màu da của BN STM
lọc máu thường sậm màu. BN lọc máu thường
vô niệu nên khó thấy được nước tiểu sậm màu.
Có thể phát hiện tăng bilirubin máu bằng cách
quan sát màu sắc màng lọc sau trả máu về, nếu
màng lọc có màu ánh vàng thì cần nghi ngờ có
tăng bilirubin máu và cần xét nghiệm kiểm tra
ngay. Theo y văn, các nguyên nhân gây lây
nhiễm virus VGSV C trong lọc máu do truyền
máu, do lây nhiễm từ môi trường có virus
VGSV (enviromental contamination), lây chéo
qua các lưới lọc theo dõi áp lực... Trong số BN
bị lây nhiễm VGSV C ở nghiên cứu này không
ghi nhận BN nào có liên quan truyền máu,
100% các BN này được dùng erythropoetin.
Các BN có nhiễm virus VGSV B, C được lọc
máu bằng máy cách ly riêng nên khẳ năng lây
qua máy thận, lưới áp lực (pressure filter) là
thấp. Có 6/7 BN phải t