Bài báo trình bày một số kết
quả phân tích tại khu vực khai thác
Titan, huyện Phù Cát tỉnh Bình Định
cho thấy, 100% hộ dân sử dụng
nước từ các giếng đào và giếng
khoang (độ sâu 10,56 ± 2,78 m,
26,7% (n=8) hộ dân có xử lý sơ bộ,
73,3% (n=22) hộ dân sử sụng nước
giếng trực tiếp. 89,3% người dân
không cho rằng khai thác titan gây
ô nhiễm phóng xạ. Tỷ lệ xuất hiện
các bệnh chứng trong khu vực 1-5
km (>80%) cao hơn các khu vực
còn lại. Hàm lượng Nhôm (Al) và
Asen (As) vượt tiêu chuẩn cho phép
(5/11 mẫu nước phát hiện có As).
Vào mùa mưa, mẫu nước giếng của
hộ dân cách mỏ 200 m về phía Tây
có hoạt độ phóng xạ (a=0,1243±
0,
002 Bq/l) vượt giới hạn tiêu chuẩn
cho phép (QCVN09-MT: 2015).
Mẫu nước kênh (cách mỏ 200 m)
có hoạt độ phóng xạ (a =
0,
1191±0,0025 Bq/l, b=1,036±0,0015
Bq/l) vượt giới hạn tiêu chuẩn cho
phép (QCVN08-MT:2015)
3 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 254 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số kết quả chỉ số kim loại nặng và phóng xạ tại vùng mỏ khai thác titan, tỉnh Bình Định, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tµi nguyªn vµ M«i tr ưêng Kú 2 - Th¸ng 9/201732
Tóm tắt
Bài báo trình bày một số kết
quả phân tích tại khu vực khai thác
Titan, huyện Phù Cát tỉnh Bình Định
cho thấy, 100% hộ dân sử dụng
nước từ các giếng đào và giếng
khoang (độ sâu 10,56 ± 2,78 m,
26,7% (n=8) hộ dân có xử lý sơ bộ,
73,3% (n=22) hộ dân sử sụng nước
giếng trực tiếp. 89,3% người dân
không cho rằng khai thác titan gây
ô nhiễm phóng xạ. Tỷ lệ xuất hiện
các bệnh chứng trong khu vực 1-5
km (>80%) cao hơn các khu vực
còn lại. Hàm lượng Nhôm (Al) và
Asen (As) vượt tiêu chuẩn cho phép
(5/11 mẫu nước phát hiện có As).
Vào mùa mưa, mẫu nước giếng của
hộ dân cách mỏ 200 m về phía Tây
có hoạt độ phóng xạ (a=0,1243±
0,002 Bq/l) vượt giới hạn tiêu chuẩn
cho phép (QCVN09-MT: 2015).
Mẫu nước kênh (cách mỏ 200 m)
có hoạt độ phóng xạ (a =
0,1191±0,0025 Bq/l, b=1,036±0,0015
Bq/l) vượt giới hạn tiêu chuẩn cho
phép (QCVN08-MT:2015).
Giới thiệu chung
Bên trên các tụ khoáng, điểm
quặng phóng xạ và đất hiếm, môi
trường phóng xạ tương đối cao.
Kết quả điều tra vùng Tiên An đã
giúp phân chia 5 khu vực không
an toàn phóng xạ, với diện tích
20,7 km2. Suất liều chiếu xạ của
khu vực không an toàn nằm trong
giới hạn từ 2,5 đến 3,5 mSv/năm,
trung bình 2,94 mSv/năm. (T.Đ.
Huấn, 2006). L.N. Thanh và cộng
sự (2011) cho thấy, tại khu vực
khai thác sa khoáng Titan (Ti) ở
Thiện Ái, huyện Bắc Bình, tỉnh
Bình Thuận đã có sự ô nhiễm dầu
khoáng, hoạt độ phóng xạ (á, â)
môi trường tại và xung quanh khu
vực khai khoán (Thanh và cs.,
2011). Kết quả đo xạ tại khu vực
khai thác và chế biến quặng Titan
ở Bình Định và Bình Thuận cho
thấy, cường độ phóng xạ ở đống
quặng tuyển ướt khá cao, vượt
ngưỡng cho phép so với tiêu
chuẩn an toàn phóng xạ, đặc biệt
liều chiếu trong gây nguy cơ ung
thư phổi cho người bị nhiễm xạ
(Anh, 2008). (L.K. Phồn và cs, 2007)
cho rằng, các mỏ sa khoáng titan
chứa chất phóng xạ ven biển Việt
Nam đã gây ra sự ô nhiễm phóng
xạ với các mức độ khác nhau đối
với môi trường xung quanh. Kết
quả nghiên cứu cho thấy, mỏ
quặng sa khoáng titan X nằm ở
ven biển Nam Trung Bộ đã gây ra
vùng ô nhiễm phóng xạ với giá trị
tổng liều tương đương bức xạ 2
mSv/năm < H < 6 mSv/năm (vượt
quá tiêu chuẩn an toàn cho phép
đối với dân thường) bao quanh
thân quặng có dạng kéo dài theo
hướng Đông Bắc –Tây Nam với
bề rộng 200 -500 m, chiều dài ~6
km. Vùng cửa sông phía Tây
Nam khu mỏ ở gần một thị xã
đông dân và cảng cá của địa
phương (L.K.Phồn, 2007). Vào
năm 2011, M.K. Osoro và các
cộng sự đã thực hiện các phép đo
phóng xạ tại hai khu vực khai thác
titan ven biển khu vực Kenya.
Các mẫu đất mặt được phân tích
bởi thiết bị quang phổ kế gamma
(HPGe). Kết quả phân tích cho
thấy, hoạt độ trung bình của 226Ra,
232Th, 40K lần lượt là 20.9 + 7.6; 27.6
+ 9.1 và 69.5 + 16.5 Bq kg-1.
Theo thống kê chưa đầy đủ,
cả nước hiện có khoảng hơn 1
triệu giếng khoan, trong đó nhiều
giếng có nồng độ asen cao hơn từ
20-50 lần nồng độ cho phép (0.01
mg/l), ảnh hưởng xấu đến sức
khoẻ, tính mạng của cộng đồng
(UNICEF, 2004). Nghiên cứu của
Arellano và cộng sự (2001) cho
thấy, ô nhiễm kim loại nặng ở môi
trường biển đã gia tăng trong
những năm gần đây (Adriano,
2001). Việt Nam có khoảng 10
triệu người ở Đồng bằng sông
Hồng, 500 ngàn đến 1 triệu người
ở Đồng bằng sông Cửu Long có
thể bị ngộ độc mãn tính do uống
nước giếng khoan có chứa arsen
(Berg Michael, Caroline Stengel,
Pham Thi Kim Trang, Pham Hung
Viet, Mickey L, Sampson, Moniphea
Một số kết quả chỉ số kim loại nặng và
phóng xạ tại vùng mỏ khai thác titan,
tỉnh Bình Định
m ĐẶNG VŨ BÍCH HẠNH, NGUYỄN THÚY HẰNG
Khoa Môi trường và Tài nguyên
Đại học Bách Khoa, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Nghiên cứu - Trao đổi
Leng, Sopheap Samreth and
David Fredericks, 2007).
Phương pháp nghiên cứu
Khu vực nghiên cứu: Các mẫu
nước giếng được lấy từ 30 hộ dân
tại xã Cát Thành (khu vực nghiên
cứu) và xã Cát Lâm (mẫu đối chứng)
huyện Phù Cát. Việc lấy mẫu, xử
lý và bảo quản mẫu nước theo quy
định trong TCVN6663-1:2002 (ISO
5667-1:1980), TCVN 5993:1995 (ISO
5667-3:1985) và TCVN 6663-
14:2000 (ISO 5667 -14:1998). Lập
các chương trình lấy mẫu dựa vào
các TCVN7538 - 1:2006, TCVN7538
- 2:2006, TCVN7538 - 3:2006.
Thiết bị phân tích mẫu bao gồm
ICP-MS, phổ kế gamma HPGe, tủ
ấm, tủ cấy, máy chạy điện di, máy ly
tâm, máy vortex, cân 4 số.
Kết quả nghiên cứu
Kết quả khảo sát hộ gia đình
Kết quả khảo sát 30 hộ gia
đình cho thấy, 100% hộ dân sử
dụng nước từ các giếng đào và
giếng khoang (độ sâu 10,56 ±
2,78 m) cho mục đích ăn uống,
sinh hoạt. Có khoảng 26,7%
(n=8) hộ dân có xử lý sơ bộ như
lắng, lọc, đun sôi trước khi sử
dụng, còn lại 73,3% (n=22) hộ
dân sử sụng nước giếng trực tiếp
không qua xử lý. Về nhận thức
của người dân có 28/30 hộ dân có
biết đến hoạt động khai thác titan
trên địa bàn huyện Phù Cát. Kết
quả khảo sát cho thấy, có khoảng
75% người dân cho rằng hoạt động
khai thác titan mang lại lợi ích kinh
tế cho địa phương. Trong khi đó
chỉ có 50% hộ dân cho rằng hoạt
động khai thác titan gây ONMT,
và 89,3% người dân không cho
rằng khai thác titan gây ô nhiễm
phóng xạ. Điều này cho thấy, hầu
hết người dân trong khu vực
nghiên cứu có hiểu biết về lợi ích
của khai thác titan cũng như hậu
quả của hoạt động này đến môi
trường, tuy nhiên, liên quan đến
phóng xạ, đa số người dân chưa
nhận thức được. Về sức khỏe
cộng đồng, nghiên cứu đã phát
hiện một số bệnh chứng thường
gặp như thận, dạ dày, buồn nôn,
ói mửa, đau đầu, chóng mặt, rụng
tóc, thiếu máu xuất hiện ở một số
hộ dân. Đây là các bệnh chứng
khá phổ biến, có thể gặp ở bất cứ
đâu ngoài khu vực nghiên cứu.Tỷ
lệ xuất hiện các bệnh chứng trong
khu vực 1-5Km (>80%) cao hơn
các khu vực còn lại.
Chất lượng nước giếng
Nghiên cứu đã phát hiện một
số mẫu nược có hàm lượng Nhôm
(Al) và Asen (As) vượt tiêu chuẩn
cho phép (5/11 mẫu nước phát
hiện có As). Cụ thể, trong khu vực
bán kính 0-1 km, 02 vị trí H5 và
H6 có hàm lượng Nhôm (Al) vượt
tiêu chuẩn cho phép (QCVN01:
2009/BYT) 15, 88 lần (3,176±
0,005 mg/l) và 4,35 lần (0,87±
0,05 mg/l). 01 vị trí (H1) có hàm
lượng As vượt tiêu chuẩn cho
phép 1,42 lần (0,0142±0,0012
mg/l). Tiếp đó, trong khu vực 1-5
km, hàm lượng Al tại 03 vị trí H7,
H8 và H10 vượt tiêu chuẩn cho
phép từ 4,7 đến 46,06 lần (0.94
±0,01 mg/l, 4,7 lần; 2,497±0,025,
12,28 lần, 9,213±0,2 mg/l, 46,06
lần theo thứ tự). Bên cạnh đó, vị
trí H7 và H10 cũng có hàm lượng
As vượt chuẩn (0.0109 ±0,0002
mg/l, 0.0105 ± 0,001 mg/l). Trong
khu vực 5-10 km, không phát hiện
các mẫu nước nhiễm As, tuy
nhiên tại vị trí H16 đã phát hiện
hàm lượng Al vượt chuẩn cho
phép đến 82,35 lần (16.47±0,07
mg.l). Đã có 3/10 mẫu nước
nhiễm As (H23, H24 và H27) ở
khu vực dân cư cách khu vực khai
thác titan trên địa bàn 30 km. Đây
là các vị trí cần lưu ý giám sát chất
lượng nước và có giải pháp phù
phợp để bảo đảm sức khỏe cho
người dân khu vực vì hầu hết
người dân sử dụng nước giếng
trực tiếp cho mục đích ăn uống,
sinh hoạt mà không qua xử lý.
Hoạt độ phóng xạ
Tổng hoạt độ phóng xạ (a, b)
có trong mẫu nước giếng vào mùa
mưa và mùa khô có xu hướng giảm
dần theo khoảng cách, càng cách
xa khu khai khoáng Titan, hoạt độ
phóng xạ (a, b) càng thấp. Vào
mùa khô, các giá trị hoạt độ
phóng xạ (a, b) đều nằm trong
phạm vi giới hạn an toàn. Tuy
nhiên, vào mùa mưa, mẫu nước
giếng của hộ dân cách mỏ 200 m
về phía Tây có hoạt độ phóng xạ
(a=0,1243±0,002 Bq/l) vượt giới
hạn tiêu chuẩn cho phép
(QCVN09-MT:2015). Mẫu nước
kênh (cách mỏ 200 m) có hoạt độ
phóng xạ (a = 0,1191±0,0025
Bq/l, b=1,036±0,0015 Bq/l ) vượt
33Tµi nguyªn vµ M«i tr ưêng Kú 2 - Th¸ng 9/2017
Chất lượng nước giếng – kim loại nặng
giới hạn tiêu chuẩn cho phép
(QCVN08-MT:2015).
Kết quả phân tích tổng hoạt
độ phóng xạ (a, b) có trong mẫu
đất cho thấy, hoạt độ phóng xạ
(a, b) giảm dần theo khoảng cách
từ 0 m – mẫu đất khu vực khai
thác (a (Bq/kg)= 0.3766±0,02, â
(Bq/kg)= 2.0256±0,1) đến 30,000
m – mẫu đối chứng (a (Bq/kg)=
0.0363±0.015, không phát hiện
giá trị bâ). Giữa mùa khô và mùa
mưa, các giá trị hoạt độ (a, b)
không biến thiên nhiều. Giá trị
hoạt độ (a, b) tại vị trí 0 m cao gấp
2 – 6 lần so với các vị trí còn lại.
Kết luận
Bài báo cho thấy, khu vực
nghiên cứu người dân chưa quan
tâm hoặc không có thông tin về
phóng xạ do các hoạt động khai
thác. Ở tại tâm mỏ, hoạt độ cao
hơn các khu vực khác gấp nhiều
lần nên cần lưu ý đến tuyên
truyền và các biện pháp phòng
hộ đảm bảo sức khoẻ cho công
nhân tại khu vực khai thác. Ngoài
ra, từ các kết quả phân tích mẫu
giếng khoan, cần lưu ý đến công
tác an toàn vệ sinh thực phẩm.
Lời cám ơn: Nghiên cứu
được hỗ trợ bởi các thành viên
thuộc PTN Phân tích Môi trường,
Đại học Bách Khoa, Đại học
Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh.
Tài liệu tham khảo
Berg Michael, Caroline
Stengel, Pham Thi Kim Trang,
Pham Hung Viet, Mickey L,
Sampson, Moniphea Leng,
Sopheap Samreth and David
Fredericks, “Magnitude of arsenic
pollution in the Mekong and Red
River Deltas -Cambodia and
Vietnam,,” Science of the Total
Environment, vol. 372, p. 413–
425, 2007.
I. R. M. M. a. A. M. M. Osoro,
“Radioactivity in surface soils
around the proposed sites for
titanium mining project in Kenya,”
Journal of Environmental
Protection, vol. 2, no. 4, pp. 460-
464, 2011.
Lê Ngọc Thanh, Nguyễn
Quang Dũng, Nguyễn Thọ,
Dương Bá Mẫn và Nguyễn Thị
Ánh, “Ô nhiễm môi trường ven
biển tại khu vực khai thác sa
khoáng Titan ở Thiện Ái, huyện
Bắc Bình, tình Bình Thuận,”
Tạp Chí Khoa học và Công
nghệ Biển, vol. 11, no. 3, pp. 45-
56, 2011.
Trịnh Đình Huấn và Nguyễn
Xuân Ân, “Đánh giá ảnh hưởng
phóng xạ bên trên tụ khoáng
graphit chứa urani vùng Tiên An,
Quảng Nam,” Tạp chí Địa chất,
no. 292, 2006.
UNICEF, “Ô nhiễm thạch tín
trong nguồn nước sinh hoạt ở Việt
Nam-Khái quát tình hình & các
biện pháp giảm thiểu cần thiết,”
UNICEF Việt Nam, Hà Nội, 2004.
V. N. Anh, “Trường phóng xạ
trên cồn cát ven biển tỉnh Bình
Định và nguy cơ ô nhiễm phóng
xạ do khai thác, chế biến khoáng
sản Inmenit”, Hội Địa Hóa Việt
Nam, 2008.
Nguyễn Việt Hùng, Lê
Khánh Phồn và Võ Ngọc Anh,
“Nghiên cứu dự báo mức độ ô
nhiễm nguồn nước và sự xâm
nhập các chất phóng xạ vào cơ
thể người theo bản chất và đặc
điểm các dị thường phóng xạ,”
Tổng cục địa chất và khoáng sản
Việt Nam, 2004.
Lê Khánh Phồn và Nguyễn
Văn Nam, “Đặc điểm ô nhiễm
phóng xạ của nước Biển lân cận
các mỏ khai khoáng Titan,” Tổng
cục ĐC&KS Việt Nam, 2007.
V. N. Anh, “Đánh giá mức độ
ô nhiễm phóng xạ do sa khoáng
titan vùng ven biển tỉnh Bình
Định.,” Sở Khoa học và Công
nghệ, Bình Định, 2005.n
Tµi nguyªn vµ M«i tr ưêng Kú 2 - Th¸ng 9/201734
Hoạt độ phóng xạ (a) có trong mẫu nước
Hoạt độ phóng xạ (b) có trong mẫu nước