Trong quá trình khởi xướng và lãnh đạo
sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã nhận thức ngày
càng đầy đủ hơn về kinh tế tư nhân cả về lý
luận và thực tiễn. Phương thức quản lý của
nhà nước đối với các thành phần kinh tế nói
chung và kinh tế tư nhân nói riêng là mở rộng
khả năng (cơ hội) tham gia thị trường và thúc
đẩy sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế phù hợp với kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu của bài viết này là nghiên cứu
đầu tư tín dụng của ngân hàng đối với kinh
tế tư nhân ở Việt Nam trong thời gian qua.
Phương pháp nghiên cứu của bài viết đi theo
cách tiếp cận hệ thống cả về lý luận và thực
tiễn, trong phân tích, tổng hợp và phát triển
các ý tưởng của vấn đề nghiên cứu một cách
khách quan. Kết quả đạt được của bài viết
là đánh giá thực trạng cấp tín dụng cho khu
vực kinh tế tư nhân trong thời gian qua của
Ngân hàng thương mại vẫn còn nhiều tồn tại,
hạn chế và nguyên nhân của nó. Trên cơ sở
đó thực hiện tốt, nhất quán chính sách kinh tế
nhiều thành phần, xóa bỏ mọi rào cản, sự bất
bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực xã hội,
trọng tâm là vốn nhằm nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân hiện nay.
6 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 471 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề tín dụng ngân hàng thương mại đối với kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
50
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
TÓM TẮT
Trong quá trình khởi xướng và lãnh đạo
sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã nhận thức ngày
càng đầy đủ hơn về kinh tế tư nhân cả về lý
luận và thực tiễn. Phương thức quản lý của
nhà nước đối với các thành phần kinh tế nói
chung và kinh tế tư nhân nói riêng là mở rộng
khả nĕng (cơ hội) tham gia thị trường và thúc
đẩy sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế phù hợp với kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu của bài viết này là nghiên cứu
đầu tư tín dụng của ngân hàng đối với kinh
tế tư nhân ở Việt Nam trong thời gian qua.
Phương pháp nghiên cứu của bài viết đi theo
cách tiếp cận hệ thống cả về lý luận và thực
tiễn, trong phân tích, tổng hợp và phát triển
các ý tưởng của vấn đề nghiên cứu một cách
khách quan. Kết quả đạt được của bài viết
là đánh giá thực trạng cấp tín dụng cho khu
vực kinh tế tư nhân trong thời gian qua của
Ngân hàng thương mại vẫn còn nhiều tồn tại,
hạn chế và nguyên nhân của nó. Trên cơ sở
đó thực hiện tốt, nhất quán chính sách kinh tế
nhiều thành phần, xóa bỏ mọi rào cản, sự bất
bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực xã hội,
trọng tâm là vốn nhằm nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân hiện nay.
Từ khóa: kinh tế tư nhân, tín dụng ngân
hàng.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngô Gia Lưu*
SOME PROBLEMS OF COMMERCIAL BANKING CREDIT
FOR PRIVATE ECONOMY IN VIETNAM
ABSTRACT
In the process of initiating and leading
economic reform, our Communist Party
has been fully awared,both in theory and
in practice,about the private economy. The
State manner of managementto the economic
sectors generally and private sector
particularlywas to open the opportintity
ofaccessment to the markets, promote the fair
competition among all the economic sectors
and in alignment with the market economy
toward the socialistism.
The objective of this article is to study
the investments and credits fromthe state-
owned commercial banks to the private
sector in Vietnam in the recent times.
The research methodology followed a
systematic approach, in both theoretical
and practical ways,whichexpressed in the
analysis, synthesis and initiationsinthis
article. The result of this article was the
* TS. GV. Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM
51
Một số vấn đề tín dụng ...
current assessment of the creditsgrantedto
the private sector in the recent timesfrom
the State-owned commercial banks, in
which it remained limits, uncertaintiesand
their causes. On that basis, thereis still a
need toimplement consistentlythe multi-
sectoral economic policiesand remove all
the barriers and inequalities in accessing
social resources, with capital as a focus, to
improve production and business eficiencyof
the private economy nowsaday.
Keywords: private economy, bank credit
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong sự nghiệp đổi mới, dưới sự tác động
của việc thay đổi về đường lối phát triển kinh
tế xã hội của Đảng và nhà nước, nhất là từ
khi có Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư
nhân ra đời, hàng ngàn, hàng vạn các doanh
nghiệp tư nhân được thành lập, hoạt động sản
xuất kinh doanh trong các ngành nghề khác
nhau.
Việc chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế
kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước
nhằm khuyến khích tất cả các thành phần
kinh tế tham gia phát triển kinh tế đất nước,
với phương châm mọi thành phần kinh tế đều
bình đẳng, hoạt động trong khuôn khổ pháp
luật. Nhà nước kiểm soát và điều tiết hoạt
động kinh tế thông qua công cụ quản lý vĩ
mô bằng các chính sách kinh tế, trong đó có
chính sách tín dụng cho nền kinh tế, một nội
dung quan trọng của chính sách tài chính tiền
tệ quốc gia.
2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ
NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỀ VAI TRÒ CỦA
KINH TẾ TƯ NHÂN
Đại hội Đại biểu toàn quốc của đảng
Cộng Sản Việt Nam lần thứ XII nĕm 2016
đã xác định rõ vai trò động lực của kinh tế tư
nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết hội nghị lần thứ
V Ban chấp hành Trung ương khóa XII nĕm
2017 với quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế
tư nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường là
một yêu cầu khách quan, vừa cấp thiết, vừa
lâu dài, kinh tế tư nhân là một động lực quan
trọng để phát triển kinh tế. Kinh tế nhà nước,
kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là
nền tảng, nòng cốt để phát triển nền kinh tế
độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Khuyến
khích, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển
kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, đa dạng trên
nhiều lĩnh vực, trong nhiều ngành nghề với
tốc độ tĕng trưởng cao cả về số lượng, quy
mô và chất lượng.
3. THỰC TRANG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ
CẤP TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CHO KHU VỰC KINH TẾ
TƯ NHÂN TRONG THỜI GIAN QUA
Nĕm 2016 là nĕm đánh dấu sự tĕng trưởng
nhanh về số lượng doanh nghiệp thành lập
mới, cả nước có 110.100 doanh nghiệp ra đời
với số vốn đĕng ký hơn 891.000 tỷ đồng.
Theo số liệu của cục đĕng ký doanh
nghiệp thuộc Bộ kế hoạch và đầu tư số doanh
nghiệp đang hoạt động tính đến cuối nĕm
2016 là 599.600 doanh nghiệp, tĕng 11,9%
so với cuối nĕm 2015. Kết quả tích cực của
khởi nghiệp trong nĕm 2016 cho thấy tổng
số doanh nghiệp đĕng ký thành lập mới và
quay trở lại hoạt động tĕng so với các nĕm
trước. Số doanh nghiệp đĕng ký thành lập
mới tĕng 16,2% , số doanh nghiệp quay trở
lại hoạt động tĕng 24,1% , đây là tốc độ tĕng
khá cao, tạo tiền đề cho thực hiện mục tiêu 1
triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh
tế thị trường vào nĕm 2020. Có thể nói sự
ra đời và phát triển của kinh tế tư nhân là
52
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
một thị trường quan trọng cho các ngân hàng
thương mại đầu tư tín dụng vào khu vực kinh
tế động lực này..
Thời gian vừa qua chính sách tín dụng
của các ngân hàng thương mại thể hiện một
bước bình đẳng giữa các thành phần kinh tế,
trong đó chính sách lãi suất được chuyển từ
lãi suất thực âm sang lãi suất thực dương,
từng bước xóa bỏ cơ chế quản lý bao cấp cho
doanh nghiệp nhà nước qua ngân hàng bằng
việc tách chức nĕng quản lý ngân sách của
kho bạc ra khỏi ngân hàng, đồng thời thay
thế phương thức cấp vốn cho doanh nghiệp
nhà nước dưới hình thức cấp tín dụng trong
và ngoài định mức vốn lưu động (lãi suất
thỏa thuận của ngân hàng thương mại) bằng
phương thức cấp tín dụng cho mọi thành
phần kinh tế theo cùng khung lãi suất cho các
ngành, các khu vực kinh tế.
Mức vốn cho vay của các ngân hàng
thương mại (cấp tín dụng cho một doanh
nghiệp) cĕn cứ vào tính chất hoạt động của
doanh nghiệp (khả nĕng quay vòng vốn) và
cĕn cứ vào vốn tự có của doanh nghiệp đi vay.
Từ khi chuyển hệ thống ngân hàng thành
hai cấp cho phù hợp với nền kinh tế thị
trường, các ngân hàng thương mại chuyển
sang hạch toán kinh doanh độc lập, không
còn cho vay ưu đãi đối với các doanh nghiệp
nhà nước đi vay theo tỷ lệ giữa vốn vay và
vốn tự có cao như trước kia nữa. Chữ tín của
các doanh nghiệp đi vay được đặt lên hàng
đầu, bởi lẽ chính các ngân hàng thương mại
cũng là một đơn vị kinh doanh tự chịu trách
nhiệm về lỗ, lãi. Tuy nhiên chính sách cấp tín
dụng và điều kiện cho vay chưa được chuẩn
hóa bằng pháp luật hoặc bằng một quy định
cụ thể. Về nguyên tắc và điều kiện cho vay
được điều chỉnh theo quy luật cung cầu tiền
tệ trên thị trường và quan hệ chặt chẽ với
chính sách lãi suất.
Tuy nhiên thực trạng cấp tín dụng cho
kinh tế tư nhân của các ngân hàng thương
mại trong thời gian qua, theo số liệu từ ngân
hàng nhà nước, thì thực tế dư nợ cho vay của
kinh tế tư nhân còn chiếm tỷ trọng thấp trong
tổng dư nợ cho vay và đa số các doanh nghiệp
tư nhân chỉ được cấp tín dụng bằng tiền Việt
Nam Đồng, ít có doanh nghiệp tư nhân được
cấp tín dụng bằng ngoại tệ mạnh, trong khi
đó có đến trên 50% doanh nghiệp tư nhân mở
tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng.
Ở một góc độ khác, kinh tế tư nhân còn
gặp nhiều khó khĕn, hạn chế được cho vay
dài hạn và cho vay vốn cố định. Hiện nay,
mặc dù đã có sự đổi mới trong chính sách
tiền tệ tín dụng và ngân hàng, chính sách
cho vay đối với các doanh nghiệp. Nhưng
hệ thống ngân hàng thương mại nói chung
và ngân hàng thương mại nhà nước nói riêng
chưa thực sự đẩy mạnh đầu tư tín dụng vào
thị trường nhiều tiềm nĕng này. Điều này
được giải thích bằng sự nghèo nàn, đơn điệu
trong việc áp dụng các loại hình cho vay đối
với kinh tế tư nhân.
Mặt khác, trong lĩnh vực cho vay ngắn
hạn, ngân hàng cũng chưa mở rộng các
phương thức cho vay linh động, thích hợp
với các nhu cầu cụ thể, cũng như đối với từng
doanh nghiệp cụ thể. Cách cho vay duy nhất
hiện nay mà các ngân hàng đang áp dụng đối
với kinh tế tư nhân là cho vay thông thường,
theo đó khi doanh nghiệp có nhu cầu vay thì
phải làm đề nghị cấp tín dụng, phải giải trình
mục đích sử dụng tiền vay cùng kế hoạch
trả nợ, sau đó ngân hàng và khách hàng thỏa
thuận với nhau về lãi suất cụ thể và ký hợp
đồng tín dụng.
Việc xét duyệt mức vốn cho vay hầu hết
các ngân hàng thương mại đều chỉ cĕn cứ vào
tài sản thế chấp, cầm cố để tính toán mức cho
vay (thường bằng 60-70% giá trị thị trường
53
Một số vấn đề tín dụng ...
của tài sản thế chấp, cầm cố), chưa coi trọng
cĕn cứ vào uy tín kinh tế cũng như những
chỉ tiêu phản ánh tiềm nĕng của từng doanh
nghiệp.
Về lãi suất cho vay, ngân hàng thương
mại cĕn cứ vào mức lãi suất quy định của
ngân hàng nhà nước cộng với một phần lãi để
cho phù hợp với tình hình huy động vốn cụ
thể của từng ngân hàng.
Về cách cho vay hiện nay của ngân hàng
thương mại đối với kinh tế tư nhân còn bộc
lộ nhiều tồn tại cần được quan tâm khắc phục
như:
- Cách cho vay còn đơn giản và hạn mức
tín dụng chưa hợp lý, chưa thể hiện được vai
trò kinh tế của ngân hàng trong việc nắm bắt
và kiểm soát mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, chưa thể hiện tốt
vai trò là đầu mối thanh toán và tín dụng.
- Cách cho vay còn cứng nhắc về thời hạn
cho vay trong khi đó nhu cầu tín dụng của
kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
rất đa dạng và phong phú. Chính sách cho
vay nói trên sẽ hạn chế rất lớn tới việc thanh
toán qua ngân hàng giữa các doanh nghiệp
tư nhân với nhau, hay với doanh nghiệp nhà
nước.
- Việc hạn chế mở rộng tín dụng dài hạn
đối với kinh tế tư nhân của hệ thống ngân
hàng thương mại cũng là nguyên nhân làm
chậm tốc độ phát triển của thành phần kinh tế
này, đồng thời làm giảm đi phần lợi nhuận có
thể có của chính ngân hàng.
- Trong thực tế, hoạt động của các doanh
nghiệp là rất đa dạng với mức độ rủi ro khác
nhau, do đó ngân hàng có thể áp dụng nguyên
tắc: doanh nghiệp nào rủi ro cao thi áp dụng
kỹ thuật cho vay ít rủi ro và ngược lại. Như
vậy mỗi kỹ thuật cấp tín dụng đều chỉ thích
hợp với một số doanh nghiệp trong những
điều kiện nhất định. Do vậy nếu chỉ áp dụng
một kỹ thuật cấp tín dụng đối với mọi trường
hợp khác nhau của doanh nghiệp sẽ có hai
trường hợp xảy ra:
Thứ nhất: đối với những doanh nghiệp
rủi ro cao thì kỹ thuật cấp tín dụng hiện nay
của ngân hàng chứa nhiều rủi ro, do đó xét về
mặt an toàn tín dụng không bảo đảm.
Thứ hai: ngược lại đối với trường hợp
trên là đối với những doanh nghiệp lớn, có
uy tín cũng như mạnh về khả nĕng tài chính
thì kỹ thuật cấp tín dụng hiện nay của ngân
hàng còn gây khó khĕn và không đáp ứng
được nguyện vọng của khách hàng.Bên cạnh
đó, một số vấn đề khó khĕn trong cho vay
của ngân hàng thương mại nhà nước đối với
kinh tế tư nhân là tài sản đảm bảo, trong khi
cơ sở sản xuất chưa được thiết lập đầy đủ thủ
tục hành chính phù hợp (chưa có giấy chứng
nhận chủ quyền, quyền sở hữu,) và do đó
tài sản, phương tiện sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp chưa được sử dụng để thế chấp,
dẫn đến doanh nghiệp tư nhân chỉ được vay
số tiền nhỏ ở ngân hàng. Thực tế cho vay tại
các ngân hàng thương mại nhà nước đã chứng
minh cho nhận định trên là: ngân hàng cấp tín
dụng cho kinh tế tư nhân còn quá nhỏ so với
kinh tế nhà nước trong tổng dư nợ cho vay.
Qua kết quả đánh giá về thực trạng cấp
tín dụng cho khu vực kinh tế tư nhân thời
gian qua của các ngân hàng thương mại còn
nhiều hạn chế cũng được nhận định bởi các
nguyên nhân sau:
Một là, việc thực hiện chủ trương, chính
sách phát triển kinh tế tư nhân còn nhiều hạn
chế, bất cập, hệ thống pháp luật, các cơ chế,
chính sách khuyến khích kinh tế tư nhân phát
triển chưa được quan tâm đúng mức, đồng
thời kinh tế tư nhân cũng chưa đáp ứng được
vai trò động lực quan trọng của nền kinh tế.
Hai là, kinh tế tư nhân ra đời chưa lâu,
54
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
đang hoạt động trong trạng thái chưa ổn định,
nhiều doanh nghiệp hoạt động trong tình
trạng tài chính không lành mạnh, nhiều doanh
nghiệp tư nhân còn vi phạm pháp luật, cạnh
tranh không lành mạnh, gian lận thương mại,
tình trạng sản xuất kinh doanh gây ô nhiễm
môi trường, nhiều doanh nghiệp không đảm
bảo lợi ích của người lao động, nợ bảo hiểm,
báo cáo tài chính không trung thực, nợ quá
hạn ngân hàng, quan hệ kinh tế không lành
mạnh giữa các doanh nghiệp, gây hậu quả
xấu về kinh tế xã hội. Điều này có ảnh hưởng
về tâm lý, khiến các ngân hàng thương mại
còn dè dặt, không lường hết được những tiêu
cực xảy ra khi cấp tín dụng cho khu vực kinh
tế này.
Ba là, nĕng lực nội tại của kinh tế tư nhân
còn thấp, đội ngũ doanh nhân đang trong quá
trình hình thành và phát triển, hạn chế về
nĕng lực quản trị kinh doanh, và đa số các
doanh nghiệp tư nhân nguồn vốn tự có còn
ít, vốn có nhỏ hơn vốn vay, trong đó có nhiều
doanh nghiệp tư nhân vốn có nhỏ hơn vốn
vay nhiều lần, do đó nguồn vốn vay từ các
ngân hàng cũng bị hạn chế.
Bốn là, còn có sự phân biệt trong nguồn
vốn để cấp tín dụng cho các doanh nghiệp tư
nhân của các ngân hàng thương mại. Chính
sự phân biệt này đã thể hiện chưa đúng đối
với chủ trương thực hiện bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Nguồn vốn tự có của các ngân hàng thương
mại ưu tiên cho vay các dự án và các doanh
nghiệp của nhà nước, các doanh nghiệp tư
nhân chỉ được vay một phần nhỏ chủ yếu từ
huy động tiết kiệm.
Nĕm là, do chịu trách nhiệm về lỗ, lãi
nên các ngân hàng thương mại nhà nước đều
quan tâm đến chữ “Tín” của doanh nghiệp đi
vay. Trong khi các dự án và các doanh nghiệp
nhà nước đã tồn tại lâu dài và là khách hàng
quen thuộc của Ngân hàng. Việc các ngân
hàng thương mại nhà nước chọn đối tượng
cho vay chủ yếu là các dự án và các doanh
nghiệp nhà nước sẽ được nhà nước bảo lãnh
dễ dàng hơn kinh tế tư nhân.
4. KẾT LUẬN
Qua những nhận định ở trên cho thấy hoạt
động tín dụng của các ngân hàng thương mại
nhà nước chưa thực sự phát huy tác dụng đối
với các thành phần kinh tế, chưa thoát khỏi
tình trạng bao cấp cho các dự án và các doanh
nghiệp nhà nước. Một số ngành sản xuất kinh
doanh trong khu vực kinh tế nhà nước làm
ĕn kém hiệu quả, không đủ sức cạnh tranh,
không trụ nổi với thị trường, dẫn đến thua lỗ,
phá sản, vỡ nợ, gây hậu quả xấu về kinh tế xã
hội. Do đó với điều kiện cho vay được nếu
trong các vĕn bản là bảo đảm bình đẳng giữa
các thành phần kinh tế, nhưng trong thực tế
khu vực kinh tế tư nhân được ngân hàng cấp
tín dụng hạn chế hơn nhiều so với kinh tế nhà
nước.
Chúng ta chủ trương thực hiện nhất quán
chính sách kinh tế nhiều thành phần, các
doanh nghiệp không phân biệt quan hệ sở
hữu đều tự chủ trong kinh doanh, hợp tác,
cạnh tranh với nhau, bình đẳng trước pháp
luật. Nhưng hoạt động thực tế vốn tín dụng
cho khu vực kinh tế nhà nước còn có sự bao
cấp, còn được ưu đãi, quan hệ không bình
đẳng đối với khu vực kinh tế tư nhân, điều
này cho thấy chính sách của nhà nước về bảo
đảm vốn tín dụng chưa nhất quán giữa các
thành phần kinh tế, còn gây khó khĕn cho
hoạt động của kinh tế tư nhân.
Trong quá trình khởi xướng và lãnh đạo
sự nghiệp đổi mới, qua các kỳ đại hội Đảng ta
đã nhận thức rõ hơn vị trí vai trò của kinh tế
tư nhân. Phương thức quản lý của nhà nước
đối với kinh tế tư nhân được đổi mới phù hợp
55
Một số vấn đề tín dụng ...
với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Nĕm 2016 là nĕm đánh dấu sự bùng nổ
của phát triển doanh nghiệp, để nâng cao
hiệu quả kinh tế xã hội cần xóa bỏ các rào
cản, chính sách, các biện pháp hành chính
can thiệp trực tiếp vào thị trường và sản xuất
kinh doanh, phải tạo ra sự bình đẳng trong
tiếp cận các nguồn lực xã hội đối với mọi
thành phần kinh tế, trong đó có nguồn lực
quan trọng là vốn đối với phát triển kinh tế tư
nhân.Vậy nhà nước cần điều chỉnh chính sách
về bảo đảm vốn tín dụng và lãi suất tín dụng
nhất quán cho tất cả các thành phần kinh tế và
ngân hàng thương mại nhà nước cần xem xét
lại vai trò của công tác phân tích hoạt động
của kinh tế tư nhân trong việc thiết lập quan
hệ tín dụng, qua đó ngân hàng thương mại
nhà nước trở thành người cố vấn đáng tin cậy
cho kinh tế tư nhân trong đầu tư sản xuất kinh
doanh, coi việc phát triển kinh tế tư nhân là
một động lực quan trọng phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng
với kinh tế tư nhân tạo thành lực cộng hưởng
mạnh hơn, trở thành nền tảng, nòng cốt để
phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ và hội
nhập quốc tế, nhằm thực hiện tốt mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và
vĕn minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Cục đĕng ký doanh nghiệp. Bộ Kế hoạch
và Đầu tư (2016). Số doanh nghiệp và tốc độ
tĕng, giảm doanh nghiệp nĕm 2016.
[2]. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2016). Vĕn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
NXB. Chính trị Quốc Gia.
[3]. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2017). Nghị
quyết hội nghị lần thứ V Ban chấp hành
Trung Ương khóa XII.
[4]. Ngân hàng nhà nước TP.HCM (2016).
Báo cáo đánh giá hiện trạng và định hướng
hoạt động hệ thống ngân hàng phục vụ phát
triển kinh tế xã hội TP.HCM.