Thức tỉnh trong lúc mổ là một vấn đề pháp lý trong y khoa đối với người BS GM và có thể dẫn đến các rối
loạn chức năng thần kinh tâm lý sau mổ cho BN, vì vậy bằng mọi giá nên tránh. Một trong các mục tiêu của GM
hiện đại là bảo đảm độ sâu GM đủ để phòng ngừa tình trạng thức tỉnh trong lúc mổ. Mục tiêu nghiên cứu của
chúng tôi là đưa ra một số ghi nhận ban đầu về các thông số được cung cấp bởi monitoring Bispectral trong việc
theo dõi độ sâu GM trong quá trình mổ tim.
Phương pháp và kết quả: NC bao gồm 106 BN mổ tim, 43 nam và 63 nữ, được chia làm 2 nhóm: 58 BN
có theo dõi BIS và 48 BN không theo dõi BIS. Tuổi trung bình là 45,70 ± 13,38 năm; trọng lượng trung bình là
52,17 ± 9,29 kg; thời gian mổ trung bình là 243,17 ± 68,58 phút; thời gian tuần hoàn ngoài cơ thể trung bình là
90,06 ± 36,68 phút. Điều chỉnh nồng độ sevoflurane và nồng độ đích propofol để duy trì BIS trong khoảng 40 –
60. Chúng tôi ghi nhận liều lượng sevoflurane và propofol qua các giai đoạn khác nhau trong quá trình mổ tim
cũng như ảnh hưởng của THNCT trên sự thay đổi các trị số của BIS.
Kết luận: Kết hợp sử dụng BIS với theo dõi nồng độ khí sevoflurane và nồng độ đích propofol là một hướng
dẫn rất tốt để điều chỉnh đúng mức độ sâu GM cũng như xử trí các thay đổi huyết động trong quá trình mổ tim
hở. Giá trị của BIS không thay đổi với hạ thân nhiệt trung bình (28 – 32◦C).
9 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 331 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một vài nhận xét ban đầu trong việc theo dõi độ sâu gây mê trong phẫu thuật tim hở với BIS Spectral, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 28
MỘT VÀI NHẬN XÉT BAN ĐẦU TRONG VIỆC THEO DÕI ĐỘ SÂU GÂY
MÊ TRONG PHẪU THUẬT TIM HỞ VỚI BIS SPECTRAL
Nguyễn Thị Quý*
TÓM TẮT
Thức tỉnh trong lúc mổ là một vấn đề pháp lý trong y khoa đối với người BS GM và có thể dẫn đến các rối
loạn chức năng thần kinh tâm lý sau mổ cho BN, vì vậy bằng mọi giá nên tránh. Một trong các mục tiêu của GM
hiện đại là bảo đảm độ sâu GM đủ để phòng ngừa tình trạng thức tỉnh trong lúc mổ. Mục tiêu nghiên cứu của
chúng tôi là đưa ra một số ghi nhận ban đầu về các thông số được cung cấp bởi monitoring Bispectral trong việc
theo dõi độ sâu GM trong quá trình mổ tim.
Phương pháp và kết quả: NC bao gồm 106 BN mổ tim, 43 nam và 63 nữ, được chia làm 2 nhóm: 58 BN
có theo dõi BIS và 48 BN không theo dõi BIS. Tuổi trung bình là 45,70 ± 13,38 năm; trọng lượng trung bình là
52,17 ± 9,29 kg; thời gian mổ trung bình là 243,17 ± 68,58 phút; thời gian tuần hoàn ngoài cơ thể trung bình là
90,06 ± 36,68 phút. Điều chỉnh nồng độ sevoflurane và nồng độ đích propofol để duy trì BIS trong khoảng 40 –
60. Chúng tôi ghi nhận liều lượng sevoflurane và propofol qua các giai đoạn khác nhau trong quá trình mổ tim
cũng như ảnh hưởng của THNCT trên sự thay đổi các trị số của BIS.
Kết luận: Kết hợp sử dụng BIS với theo dõi nồng độ khí sevoflurane và nồng độ đích propofol là một hướng
dẫn rất tốt để điều chỉnh đúng mức độ sâu GM cũng như xử trí các thay đổi huyết động trong quá trình mổ tim
hở. Giá trị của BIS không thay đổi với hạ thân nhiệt trung bình (28 – 32◦C).
Từ khoá: Bispectral, độ sâu gây mê, mổ tim
ABSTRACT
SOME PRIMARY REMARKS ON THE USE OF BISPECTRAL IN MONITORING THE DEPTH OF
ANESTHESIA IN CARDIAC SURGERY
Nguyen Thi Quy * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 28 - 36
Intraoperative awareness is a major medico-legal liability to the anesthesiologists and can lead to
postoperative psychosomatic dysfunction in the patient, and therefore should be avoid at all cost. One of the
objectives of moderm anesthesia is to ensure adequate depth of anesthesia to prevent awareness. Our purpose is to
present some primary remarks from the data analysis was provided by Bispectral in monitoring the depth of
anesthesia in cardiac surgery.
Methode and Results: In this study including 106 cardiac surgery’s patient undergoing general
anesthesia, 43 men and 63 women, were divided into 2 groups: 58 patients was monitoring by Bispectral and 48
patients was not monitoring with BIS. The mean of age is 45.70 ± 13.38 years; the mean of weight is 52.17 ± 9.29
kg. The mean of operation time is 243.17 ± 68.58 minutes; the mean of CPB time is 90.06 ± 36.68 minutes. We
adjusted the fraction expiration of sevoflurane (Fsevo Exp) and target concentration of propofol (TCI) for maintain
the numeric value of Bis in the range between 40 – 60 during operation. We record the variation of the doses of
sevoflurane and propofol in different period during open heart surgery and also the influences of the
cardiopulmonary bypass on the change of the numeral value of Bis.
Conclusion: The association of BIS monitoring with the fraction expiration of sevoflurane or target
contracentration of propofol during operation is good guide for logical adjustment of the depth of anesthesia and
Viện Tim TP.HCM
Tác giả liên lạc: TS BS Nguyễn Thị Quý, ĐT: 0913674254, Email: drngtquy@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 29
the change of hemodynamic during open heart surgery. The numeral value of Bis is not change with the moderate
hypothermia (28 – 32◦C).
Key word: Bispectral, depth of anesthesia, cardiac surgery
MỞ ĐẦU
Như đã biết tần suất thức tỉnh trong lúc GM
với hiện tượng nhớ lại các sự kiện (recall) trong
lúc mổ khoảng 0,2 -3%(10), nhưng nó có thể > 40%
ở một số bệnh nhân có nguy cơ cao như đa chấn
thương, mổ bắt con trong sản khoa, mổ tim với
huyết động không ổn định(1). Tình trạng thức
tỉnh trong lúc mổ còn là một trách nhiệm pháp
lý y khoa cho người BS GM và có thể dẫn đến
các rối loạn thần kinh tâm thần cho người bệnh
ở giai đoạn sau mổ và do đó bằng mọi giá phải
tránh xảy ra.
Mặc dù rất nhiều tiến bộ đáng kể trong thực
hành GM hiện đại, nhưng việc đánh giá độ sâu
GM hãy còn dựa vào kinh nghiệm lâm sàng chủ
yếu dựa trên các phản ứng của hệ thống thần
kinh bản thể (cử động) và tự động (nhịp tim
nhanh, cao HA) khi kích thích đau. Từ nhiều
năm qua đã có nhiều phương tiện cho phép theo
dõi độ sâu GM như điện cơ vùng trán, điện não
đồ (EEG), entropie spectral, Narcotrend.. và gần
đây nhất là BIS spectral. Mục đích của phương
tiện theo dõi này nhằm sử dụng đúng mức liều
lượng thuốc ngủ để hạn chế các tác dụng không
mong muốn do GM không đủ liều hoặc quá
liều, quan trọng nhất là nguy cơ thức tỉnh cũng
như nhớ các sự kiện trong quá trình mổ.
Trong bài này, chúng tôi trình bày về các
thông số phân tích của Bispectral (BIS) mà có vẻ
có nhiều hứa hẹn trong việc sử dụng để đánh
giá độ sâu GM và một số nhận xét ban đầu về
việc sử dụng nó trong bối cảnh phẫu thuật tim
mạch dưới tuần hoàn ngoài cơ thể.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu theo dõi BIS trên bệnh nhân
(BN) mổ tim người lớn tại Viện Tim TP. HCM,
từ tháng 9/2011 bao gồm các bệnh lý van tim,
tim bẩm sinh và mạch vành. Tiền mê với Atarax
1mg/kg 1 giờ trước khi đến phòng mổ. Khi BN
đến phòng mổ được gắn các thiết bị theo dõi
như ECG, Sp02, HA không xâm lấn, điện cực
monitoring BIS.
Monitor Bispectral ra đời vào năm 1990 bởi
PME Mỹ (Aspect medical) và đưa vào thị trường
châu Âu năm 1996. Bắt đầu có mặt ở thị trường
Việt Nam từ năm 2011, là một kỹ thuật
monitoring không xâm lấn, căn bản là kết quả
của việc xử lý các sóng điện não (EEG) của thuỳ
trán bằng thuật toán học và thống kê phức tạp
(chi tiết của sự tính toán là sáng chế của hãng)
được biểu diễn dưới dạng chữ số (từ 0 – 100) cho
phép đánh giá sự thức tỉnh hoặc ngủ của BN. Ít
nhất phải 15 giây để tính toán được trị số BIS.
Thời gian để hiển thị trị số này trên màn hình
khoảng 30 giây. Trị số BIS = 100 (người thức
tỉnh, sóng EEG không đồng bộ và không có
đoạn phẳng) đến 0 (ngủ rất sâu, sóng EEG
phẳng, hoàn toàn đồng bộ). Phân tích trị số này
kết hợp với các dấu hiệu lâm sàng thường quan
sát được (mất tri thức, thay đổi các giá trị huyết
động như HA, nhịp tim) và kỹ thuật cho thuốc
mê TCI (nồng độ propofol) hoặc đo nồng độ khí
mê cuối kỳ thở ra cho phép thực hiện việc cho
thuốc mê hợp lý nhất. Giá trị BIS ở người không
tiền mê thức tỉnh thay đổi giữa 91 – 100. Tiền mê
với benzodiazépine làm BIS giảm nhẹ. BIS giảm
một cách tuyến tính khi nồng độ thuốc mê tăng,
cho phép xác định BIS <60 tương ứng với tình
trạng GM (nguy cơ nhớ thấp) và cho đến giá trị
< 40 tương ứng với quá liều thuốc mê (GM quá
sâu). Lý tưởng là duy trì GM trong khoảng 40 –
60 trong suốt cuộc mổ.
Nhóm nghiên cứu được chia làm 2 nhóm:
có monitoring BIS và không monitoring BIS.
Phương pháp gây mê: tất cả BN được dẫn mê
bằng phương pháp TCI: propofol và sufentanil.
Truyền sufentanil trước với nồng độ đích gài
đặt là 0,30 ng/ml cho đến khi nồng độ này đạt
được tại não mới bắt đầu truyền propofol từ liều
1,5 g/ml tăng dần mỗi 0,5g cho đến khi BN
mất tri giác thì tiêm thuốc dãn cơ rocuronium ở
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 30
liều 1mg/kg và đặt NKQ sau khoảng 90 giây.
Duy trì mê với sufentanil như nhau với nồng độ
từ 0,2 – 03 ng/ml kết hợp ngẫu nhiên với truyền
propofol TCI hoặc thuốc mê hô hấp
Sevoflurane.
Ghi nhận trị số BIS và nồng độ propofol và
sevoflurane của 2 nhóm BN qua các giai đoạn:
khi đến phòng mổ, mất tri giác, trước khi đặt
NKQ, sau khi đặt NKQ, trước rạch da, sau rạch
da, trước khi cưa xương ức, sau khi cưa xương
ức, tuần hoàn ngoài cơ thể, sau khi ngưng
THNCT, đóng chỉ thép, chấm dứt cuộc mổ.
Thay đổi liều lượng thuốc mê và xử trí các
thay đổi huyết động trong lúc mổ của nhóm BN
không monitoring BIS dựa vào các dấu hiệu lâm
sàng căn bản của PRST của Evan (bảng 1). Dựa
vào thang điểm để hướng dẫn cho thuốc mê,
duy trì trong khoảng 2 – 4 điểm. Khi HATB tăng
> 130% HA căn bản, tăng liều thuốc sufentanil
và thuốc mê (Sevoflurane hoặc propofol) trước
nếu HA không giảm cho thêm thuốc dãn mạch
(loxen). Nếu HATB giảm < 70% HA căn bản thì
giảm liều Sevoflurane hoặc propofol trước, nếu
HA vẫn không cải thiện thì tăng bù dịch hoặc
dùng thuốc co mạch Ephédrine để nâng HA lên.
Bảng 1: Thang điểm PRST đánh giá độ sâu GM dựa
trên các dấu hiệu lâm sàng HA, nhịp tim, đổ mồ hôi,
chảy nước mắt của Evan
Thông số Giá trị Điểm
HA tâm thu
(mmHg)
< giá trị căn bản + 15
< giá trị căn bản + 30
> giá trị căn bản + 30
0
1
2
Tần số tim
(lần/phút)
< giá trị căn bản + 15
< giá trị căn bản + 30
> giá trị căn bản +30
0
1
2
Mồ hôi Không có
Xờ thấy ẩm ướt
Chảy thành giọt
0
1
2
Nước mắt Mắt ướt bình thường
Ướt nhiều
Chảy nước mắt, mí mắt nhắm
0
1
2
Thay đổi liều lượng thuốc mê (nồng độ đích
của Propofol hoặc phân suất cuối thời thở ra của
Sevoflurane: Fsevo Expired) để duy trì BIS trong
khoảng 40 – 60 và xử trí các thay đổi huyết động
trong lúc mổ theo phác đồ của Gurman cải biên
đối với nhóm bệnh nhân có BIS
Bảng 2: Sơ đồ để đạt được độ mê đủ dựa vào đáp ứng
của HA trung bình và BIS.
HATB>130%
HA cơ bản
70%<HATB<
130%
HATB<70% cơ
bản
BIS>60
> 1 phút
thuốc mê thuốc mê Bù dịch
ephedrine trước
thuốc mê
40<BIS<
60
> 1 phút
Thuốc cao HA GM đủ Bù dịch
ephedrine
BIS<40
> 1 phút
Thuốc cao HA thuốc mê thuốc mê
Phương pháp nghiên cứu là thống kê mô tả
dựa trên phần mềm SPSS 10. Các trị số được
diển tả bởi trị số trung bình độ lệch chuẩn.
KẾT QUẢ
Nhóm nghiên cứu gồm 106 BN, 43 nam
(40,6%) và 63 nữ (59,4%). Các loại PT bao gồm:
12 TH phẫu thuật bắc cầu mạch vành (11,3%), 79
TH PT van tim (79,5%), 15 TH PT tim bẩm sinh
người lớn (14,2%). Với 58 TH có theo dõi BIS
(54,7%) và 48 TH không theo dõi BIS (45,3%) 58
TH duy trì mê hô hấp sevoflurane (54,7%) và 48
TH duy trì mê bằng propofol TCI (45,3%). Tuổi
trung bình: 45,70 ± 13,38 năm; trọng lượng trung
bình: 52,17 ± 9,29 kg; chiều cao trung bình:
157,82 ± 6,59 cm.
Bảng 3: Đặc điểm BN
Bệnh nhân Trung bình ± ĐLC
Nam/nữ 43/63
Tuổi trung bình (năm) 45,70 ± 13,38
Trọng lượng (kg) 52,17 ± 9,29
Chiều cao (cm) 157,82 ± 6,59
Nhóm BIS/ không BIS 58/48
Bảng 4: Đặc điểm trong mổ
Đặc điểm trong mổ Trung bình ± ĐLC
Thời gian GM (phút) 243,17 ± 68,58
Thời gian THNCT (phút) 90,60 ± 36,68
Thời gian rút NKQ sau mổ (giờ) 11,5 8,00
Tỷ lệ sử dụng thuốc vận mạch (TH):
Co mạch: Nhóm BIS/không BIS 27 TH (56,3%)/ 17 TH
(29,3%)
Dãn mạch: Nhóm BIS/không BIS 22 TH (45,8%)/ 18 TH
(31%)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 31
Bảng 5: Nồng độ propofol TCI (g/ml) và BIS qua
các giai đoạn phẫu thuật
Các GĐ phẫu
thuật
Có BIS BIS Không BIS
Cp Ce Cp Ce
Khi BN đến PM 97
Mất tri giác 2,37 2,95 71 1,9 2,38
Trước đặt NKQ 2,6 2,48 57 2,1 2,22
Sau đặt NKQ 2,5 2,5 46 2,1 2,1
Trước rạch da 1,38 1,3 44 1,45 1,39
Sau rạch da 1,93 2,35 43 2 2,2
Trước cưa x. ức 2 2,6 48 2,4 2,6
Sau cưa x. ức 2,43 2,6 45 2,48 2,5
THNCT 2,35 2,32 40 2,58 2,63
Sau khi ngưng
THNCT
1,35 1,39 44 2,83 2,9
Đóng chỉ thép 1,6 1,6 42 2,2 2,2
Cuối cuộc mổ 1,6 1,6 43 2,29 2,3
Cp: nồng độ thuốc trong huyết tương; Ce: nồng độ thuốc
tại não
Bảng 6: Nồng độ Sevoflurane cuối ký thở ra và BIS
Các GĐ phẫu
thuật
Có BIS BIS Không BIS
F sevo
Ins
Fsevo
Exp
Fsevo
Ins
Fsevo
Exp
Khi BN đến PM 93
Mất tri giác 58
Trước đặt NKQ 46
Sau đặt NKQ 44
Trước rạch da 1,14 1,14 45 1,47 1,37
Sau rạch da 1,25 1,25 42 1,72 1,60
Trước cưa x. ức 1,42 2,1 41 1,78 1,62
Sau cưa x. ức 1,30 1,3 41 1,75 1,59
THNCT 0,93 0,9 41 1,25 1,25
Sau khi ngưng
THNCT
1,05 1,0 44 1,34 1,25
Đóng chỉ thép 1,00 1,00 42 1,20 1,15
Cuối cuộc mổ 1,00 1,00 43 1,13 1,09
BÀN LUẬN
Trong suốt thế kỷ XX, với sự phát triển
mạnh mẽ những tiến bộ khoa học ứng dụng
trong y khoa dẫn đến sự ra đời của nhiều thiết
bị y khoa hiện đại trong thực hành lâm sàng
giúp cho chất lượng gây mê và phẫu thuật ngày
càng hoàn hảo và an toàn hơn. Trong lịch sử
phát triển GM, một BS GM người Mỹ, Guedel là
người đầu tiên đã đưa ra những đánh giá chính
xác độ sâu GM qua 4 giai đoạn bởi quan sát các
dấu hiệu lâm sàng khi dẫn mê với ether trong
chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Hướng dẫn
này dựa trên các thay đổi của thông khí, tuần
hoàn, các các dấu hiệu của hệ thần kinh thực
vật, cử động của mắt và kích thước đồng tử. Tuy
nhiên các dấu hiệu lâm sàng này đã trở nên lỗi
thời khi bắt đầu sử dụng với các thuốc dãn cơ,
rồi đến GM cân bằng.
Sự đáp ứng với thuốc mê thì khác nhau ở
mỗi cá nhân tuỳ thuộc vào tuổi, phái tính, cơ địa
và loại phẫu thuật... Vì vậy liều lượng thuốc mê
cần phải thay đổi thích hợp cho từng bệnh nhân.
Với cùng một liều lượng nhưng có thể là quá
liều cho BN này hoặc không đủ liều đối với BN
khác. Liều lượng thuốc mê cho một bệnh nhân
trẻ, khoẻ mạnh (ASA I –II) thì hoàn toàn khác
với liều lượng thuốc mê cho một bệnh nhân cơ
địa già yếu, suy kiệt, có các bệnh lý đi kèm như
suy tim, suy thận nặng (ASA III – IV). Liều
lượng thuốc ngủ cần thiết để đạt được các tác
dụng mong muốn đầu tiên chỉ dựa vào liều lý
thuyết, kết quả từ các nghiên cứu dược lực học
như MAC, ED50, đến các dấu hiệu lâm sàng
liên quan đến tác dụng. Tất cả những yếu tố này
cho thấy rằng có nguy cơ xảy ra tình trạng quá
liều hoặc không đủ liều thuốc mê trong quá
trình GM –PT. Điều này đã thúc đẩy các nhà
nghiên cứu tìm kiến các phương tiện đánh giá
độ sâu GM một cách khách quan hơn qua phân
tích sự thay đổi của điện não gây ra bởi thuốc
ngủ. Đó chính là mục đích của monitoring độ
sâu GM. Từ năm 2006, Hiệp hội GM Hoa Kỳ
(ASA) đã đưa ra khuyến cáo sử dụng
monitoring theo dõi độ sâu GM bởi phân tích
điện não đồ võ não, và cũng từ một phân tích
gộp (méta analyse) của Cochrane Library năm
2007, các chuyên gia của Hiệp Hội GM Pháp
năm 2009 cũng đã khuyến cáo theo dõi độ sâu
GM trong quá trình phẫu thuật.
Theo Billard, BIS “ là một thông số phức tạp
từ điện não đồ tự nhiên của BN dưới GM toàn
thân. Trị số BIS cho phép đánh giá mức độ an
thần hoặc GM và hướng dẫn việc cho thuốc mê
để duy trì tình trạng ổn định đối với các mức độ
kích thích ngoại khoa”. Monitoring Bis index
cho phép đánh giá sự thay đổi nhu cầu thuốc
mê giữa các bệnh nhân và theo thời gian qua các
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 32
giai đoạn phẫu thuật khác nhau chính trên cùng
một bệnh nhân. Monitor độ sâu GM giúp phát
hiện quá liều hoặc không đủ liều thuốc mê, nhất
là khi các dấu hiệu lâm sàng GM bị biến đổi bởi
các điều trị khác (thuốc dãn cơ, thuốc chẹn
bêta) và/hoặc bởi bệnh lý đi kèm (suy gan, suy
thận, suy tim ) hoặc tình trạng huyết động
không ổn định trong quá trình PT. Đó chính là
lý do chúng tôi rất quan tâm đến việc đánh giá
độ sâu giấc ngũ ở BN dưới GM trong PT tim
mạch.
Gây mê quá liều dẫn đến những hậu quả
đáng kể cho người bệnh mà thường gặp nhất là
tụt HA và thức tỉnh chậm. Buồn nôn và ói mữa
sau mổ là tác dụng không mong muốn thường
gặp và gây khó chịu cho người bệnh khi hồi
tỉnh. Nhiều NC đã chứng minh việc sử dụng
monitoring BIS giúp giảm liều lượng tiêu thụ
(10% - 40%) và ứ đọng thuốc mê dẫn đến giảm
tần suất nôn ói(9). Khảo sát về tử vong và biến
chứng chu phẫu năm 2007 được thực hiện bởi
Hiệp Hội GM Pháp (SFAR) cho thấy tụt HA chu
phẫu là một trong các nguyên nhân tử vong liên
quan đến GM. Kéo dài thời gian GM quá sâu có
thể là yếu tố nguy cơ tử vong sau 1 năm. Nhưng
cho đến hiện nay, chưa có con số công bố xác
định ích lợi của việc theo dõi độ sâu GM trên kết
quả dài hạn hoặc các biến chứng muộn sau GM
tổng quát(8). Hơn nữa, cho dù một số tình huống
không nhận biết được quá liều thuốc ngủ vì
không gây ra các tác dụng phụ (tụt HA), thí dụ
như không giảm bớt liều thuốc mê vào các giai
đoạn êm dịu hơn, khi cường độ kích thích ngoại
khoa ít hơn. Điều này dẫn đến lãng phí, tiêu thụ
một lượng thuốc mê thừa vô ích gây chậm trễ
thức tỉnh và kéo dài thời gian nằm ở phòng hồi
tỉnh.
Ngược lại khi GM không đủ liều cũng dẫn
đến những hậu quả không phải không đáng kể.
GM cân bằng là sự kết hợp của 3 thành phần:
thuốc gây ngủ gây mất tri giác và quên, thuốc
giảm đau và thuốc giãn cơ. Khi liều lượng thuốc
ngủ không đủ kết hợp với thuốc giãn cơ có thể
là nguồn gốc của các giai đoạn thức tỉnh trong
lúc mổ mà BN không có biểu hiện cử động. Một
số tình huống khác như BN lờn thuốc ngủ do họ
lạm dụng mạn tính và nghiện rượu, thuốc ngủ
và thuốc hướng thần. BS GM chủ ý giảm liều
thuốc mê trên BN đa chấn thương nặng, suy
tim hoặc vô ý (bình bốc hơi thuốc mê không
còn thuốc hoặc bị hở đường ống khí mê, tắc
nghẽn hoặc không nối kín các đường dây cho
thuốc mê tĩnh mạch) hậu quả của sự thức tỉnh
trong lúc đang mổ này dẫn đến hiện tượng nhớ
rõ ràng (mémoire explicite) hoặc nhớ tiềm ẩn
(implicite) và có thể gây ra những rối loạn tâm
lý nặng và kéo dài sau này. Nhớ trong lúc mổ là
một sự cố hiếm xảy ra (1 – 2 cas/1000 BN trong
cộng đồng dân số nguy cơ) dưới GM tổng quát
nhưng nó lại là một nguyên nhân nặng nề làm
BN không hài lòng. Vấn đề này không phải
không đáng kể và tần suất của nó chưa được
đánh giá đúng mức.
Nhớ (memory) là một hiện tượng tại hệ thần
kinh trung ương cho phép chuyển dạng lời nói,
hình ảnh hay mùi vị đến các cơ quan cảm giác
để nhớ. Nhớ rõ ràng (explicit memory), BN khai
báo, xảy ra trong GM đã được mô tả nếu cho
thuốc ngủ không đủ liều. BN có ý thức để nhớ
những sự kiện xảy ra trong lúc mổ, có thể biểu
hiện rối loạn tâm lý với các triệu chứng như lo
âu, kích thích, ác mộng tái diễn, trầm cảm, cảm
giác sợ chết, và từ chối nói về các giai đoạn này
vì sợ cho là điên(11). Nhớ tiềm ẩn (implicit
memory), xuất phát từ ý thức, BN không đủ
thức tỉnh để nhớ những sự kiện xảy ra trong quá
trình GM, dẫn đến hậu quả thay đổi hành vi
hoặc hành động. Các biến chứng này xảy ra khi
độ sâu GM không đủ, có thể chỉ xảy ra trong các
giai đoạn ngắn (vài phút), GM không đủ liều kết
hợp với kích thích đau (như đặt nội khí quản
hoặc rạch da) dẫn đến biến cố nhớ này. Trong
thực hành lâm sàng, BIS có thể là một trong các
kỹ thuật phòng ngừa nhớ chu phẫu đặc biệt ở
các BN có nguy cơ cao. Nhiều nghiên cứu
chứng minh sử dụng BIS theo dõi độ sâu GM
cho phép giảm có ý nghĩa tần suất nhớ rõ ràng(7)
nhưng không loại bỏ hoàn toàn.
Một nghiên cứu thực hiện trên 19575 BN tại
nhiều trung tâm tại Mỹ xác định có 25 BN khai
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 33
báo sự cố nhớ trong lúc mổ (trong đó 18 BN
dùng dãn cơ). Kết quả của Sebel là nguồn gốc
của tình trạng báo động tại Mỹ năm 2004 về
hiện tượng nhớ trong lúc mổ (JCAHO: Joint
Commission on Accreditation of Hospital
Organization) (www.jcaho.org(3). Ekman và cs
phân tích trên 4945 BN được theo dõi BIS (có trị
số trung vị bằng 40) đối với nhóm chứng lịch sử
7826 BN không theo dõi BIS. Tần suất nhớ là
0,18% ở nhóm không có BIS so với 0,04% nhóm
có BIS (khác biệt có ý nghĩa thống kê p< 0,038)(2).
Điều này chứng minh rằng sử dụng BIS có thể
giảm khoảng 80% tần suất xảy ra biến cố nhớ
chu phẫu. Xác nhận các kết quả này đã được báo
cáo bởi Myles và cs chứng min