Mục tiêu: Xác định hiệu quả của nghiệm pháp gây mất ngủ một phần trong việc phát hiện các phóng điện
dạng động kinh trên điện não đồ.
Phương pháp: Khảo sát đoàn hệ tiến cứu, trên 150 bản điện não của 75 bệnh nhân động kinh (mỗi BN được
đo EEG 02 lần, lần I là EEG không sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ một phần, lần II là EEG có sử dụng
nghiệm pháp gây mất ngủ một phần) đến khám và điều trị tại khoa Nội Thần Kinh tổng quát – Bệnh viện Nhân
Dân 115.
Kết quả: Khi không sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ một phần, chỉ có 13 trên tổng số 75 bản ghi EEG có
ghi nhận sự xuất hiện của các phóng điện dạng động kinh, chiếm tỷ lệ 17,3%. Sau khi sử dụng nghiệm pháp gây
mất ngủ một phần, có 44 trên tổng số 75 bản ghi EEG có ghi nhận sự xuất hiện của các phóng điện dạng động
kinh, chiếm tỷ lệ 58,7%. Có mối liên hệ nhân quả giữa nghiệm pháp gây mất ngủ một phần với các phóng điện
dạng động kinh ngoài cơn, thể hiện qua phép kiểm 2McNemar với kết quả Chi-Square = 20 > 1, có ý nghĩa thống
kê với p < 0,001, và RR = 1,32.
Kết luận: Nghiệm pháp gây mất ngủ một phần có khả năng làm tăng sự xuất hiện các phóng điện dạng
động kinh so với khi không sử dụng nghiệm pháp này. Do đó, ngoài các nghiệm pháp kích thích đã sử dụng
thường qui (NP hít thở sâu, NP kích thích ánh sáng), cần ứng dụng nghiệm pháp gây mất ngủ một phần nhiều
hơn trong kỹ thuật đo điện não; để nâng cao chất lượng bản ghi EEG, hỗ trợ với lâm sàng và hình ảnh học trong
việc chẩn đoán và điều trị động kinh.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 289 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiệm pháp gây mất ngủ một phần trong việc phát hiện sóng dạng động kinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 91
NGHIỆM PHÁP GÂY MẤT NGỦ MỘT PHẦN
TRONG VIỆC PHÁT HIỆN SÓNG DẠNG ĐỘNG KINH
Lê Văn Tuấn*, Đỗ Quốc Hùng**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định hiệu quả của nghiệm pháp gây mất ngủ một phần trong việc phát hiện các phóng điện
dạng động kinh trên điện não đồ.
Phương pháp: Khảo sát đoàn hệ tiến cứu, trên 150 bản điện não của 75 bệnh nhân động kinh (mỗi BN được
đo EEG 02 lần, lần I là EEG không sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ một phần, lần II là EEG có sử dụng
nghiệm pháp gây mất ngủ một phần) đến khám và điều trị tại khoa Nội Thần Kinh tổng quát – Bệnh viện Nhân
Dân 115.
Kết quả: Khi không sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ một phần, chỉ có 13 trên tổng số 75 bản ghi EEG có
ghi nhận sự xuất hiện của các phóng điện dạng động kinh, chiếm tỷ lệ 17,3%. Sau khi sử dụng nghiệm pháp gây
mất ngủ một phần, có 44 trên tổng số 75 bản ghi EEG có ghi nhận sự xuất hiện của các phóng điện dạng động
kinh, chiếm tỷ lệ 58,7%. Có mối liên hệ nhân quả giữa nghiệm pháp gây mất ngủ một phần với các phóng điện
dạng động kinh ngoài cơn, thể hiện qua phép kiểm 2 McNemar với kết quả Chi-Square = 20 > 1, có ý nghĩa thống
kê với p < 0,001, và RR = 1,32.
Kết luận: Nghiệm pháp gây mất ngủ một phần có khả năng làm tăng sự xuất hiện các phóng điện dạng
động kinh so với khi không sử dụng nghiệm pháp này. Do đó, ngoài các nghiệm pháp kích thích đã sử dụng
thường qui (NP hít thở sâu, NP kích thích ánh sáng), cần ứng dụng nghiệm pháp gây mất ngủ một phần nhiều
hơn trong kỹ thuật đo điện não; để nâng cao chất lượng bản ghi EEG, hỗ trợ với lâm sàng và hình ảnh học trong
việc chẩn đoán và điều trị động kinh.
Từ khóa: Nghiệm pháp gây mất ngủ một phần, điện não đồ, động kinh
ABSTRACT
PARTIAL SLEEP DEPRIVATION FOR ACTIVATING INTERICTAL EPILEPTIFORM DISCHARGES
Le Van Tuan, Do Quoc Hung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 91 - 96
Objectives: Define effectiveness of partial sleep deprivation as a trigger method of interictal epileptiform
discharges (IED) on electroencephalography (EEG).
Methods: Prospective cohort study on 150 EEG tracings of 75 suspected epilepsy patients admitted on
Department of General Neurology - 115 People Hospital (two EEG recordings of every patient in which the first
recording is with non – partial sleep deprivation and the second one was with partial sleep deprivation).
Results: There were only 13 (17.3%) of the first recordings with non – partial sleep deprivation showed IED.
The abnormal EEG with IED were increase to 44 (58.7%) among the second recordings with partial sleep
deprivation. There was a cause – effect relationship between partial sleep deprivation procedure and IED
presenting by 2 McNemar test (Chi-Square = 20, p<0.001).
Conclusions: Partial sleep deprivation activates IED and is useful in evaluation of suspected epilepsy.
Key words: Partial sleep deprivation, electroencephalography, epilepsy
* Bộ môn Thần Kinh, Đại Học Y Dược TP. HCM ** BV. Nhân Dân 115
Tác giả liên lạc: BS. Đỗ Quốc Hùng ĐT: 0903886333 Email: doquochung97@yahoo.com.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa II 92
ĐẶT VẤN ĐỀ
Động kinh là một trong các bệnh mạn tính
thường gặp của hệ thần kinh trung ương; xảy ra
ở tất cả các lứa tuổi và chủng tộc, các quốc gia và
ở cả hai giới. Bệnh có thể gây ra những hậu quả
nặng nề về mặt xã hội, thể chất và tâm lý.
Chẩn đoán bệnh động kinh là chẩn đoán lâm
sàng. Điện não đồ (EEG) đóng vai trò hỗ trợ
chẩn đoán, giúp phân loại cơn động kinh và hội
chứng động kinh; từ đó giúp chọn lựa điều trị và
giúp tiên lượng bệnh.
Điện não đồ thường qui cho kết quả dương
tính trong khoảng 20-50% các trường hợp(5). Do
đó, các nghiệm pháp hoạt hóa như hít thở sâu,
kích thích ánh sáng, ngủ và gây mất ngủ, được
áp dụng nhằm làm tăng độ nhạy của kỹ thuật
chẩn đoán này.
Gây mất ngủ là một phương pháp hữu ích
để kích hoạt các phóng điện dạng động kinh
trong và ngoài cơn ở những bệnh nhân bị
động kinh. Nghiệm pháp gây mất ngủ có khả
năng kích hoạt các phóng điện dạng động
kinh một cách trực tiếp và gián tiếp (do làm
cho bệnh nhân dễ đi vào giấc ngủ trong quá
trình đo điện não).
Tuy nhiên, việc thức suốt đêm trước khi đo
EEG cũng như khả năng có thể tái phát cơn động
kinh khi làm nghiệm pháp mất ngủ là một gánh
nặng đối với bệnh nhân, thân nhân và cả nhân
viên y tế (4). Để khắc phục nhược điểm này, một
số tác giả đã đề nghị cho bệnh nhân ngủ một
thời gian ngắn thay vì phải thức suốt đêm.
Nghiệm pháp gây mất ngủ một phần đã được
chứng minh có hiệu quả trong một vài công
trình nghiên cứu(1, 9).
Ở Việt nam hiện nay, kỹ thuật đo EEG chưa
được quan tâm đúng mức và chuẩn hóa theo
những tiêu chuẩn của các Hiệp hội chống động
kinh trong khu vực và trên thế giới. Hầu hết các
phòng điện não ở các bệnh viện có chuyên khoa
thần kinh đều chưa ứng dụng nghiệm pháp gây
ngủ, cũng như gây mất ngủ và gây mất ngủ một
phần trong qui trình chẩn đoán động kinh. Do
đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Nghiệm
pháp gây mất ngủ một phần trong việc phát
hiện sóng dạng động kinh” với các mục tiêu sau:
- Xác định tỷ lệ phóng điện dạng động kinh
trên EEG không sử dụng nghiệm pháp gây mất
ngủ một phần.
- Xác định tỷ lệ phóng điện dạng động kinh
trên EEG có sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ
một phần.
- Xác định các yếu tố có liên quan đến sự
xuất hiện của phóng điện dạng động kinh.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Bệnh nhân được chẩn đoán lâm sàng bị bệnh
động kinh đến khám và điều trị tại Bệnh viện
Nhân dân 115 thành phố Hồ Chí Minh từ tháng
08/2010 đến tháng 06/2011.
Bệnh nhân thỏa các tiêu chí chọn mẫuvà tiêu
chí loại trừ sẽ được đo EEG 02 lần. Lần 1 (không
sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ một phần)
thường vào buổi trưa ngay sau khi vào viện. Lần
2 (có sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ một
phần) thường vào buổi trưa ngày kế tiếp.
Thiết kế nghiên cứu
Đoàn hệ tiến cứu.
Kỹ thuật chọn mẫu
Ngẫu nhiên không xác suất.
Xử lý số liệu
Phần mềm SPSS phiên bản 11.5.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
Tỷ lệ giới tính trong mẫu nghiên cứu: Nam:
60% - Nữ: 40%
Tuổi trung bình của bệnh nhân trong mẫu
nghiên cứu là 43,2 ± 19,2 tuổi, trẻ nhất là 13 và
lớn nhất là 84.
45% các trường hợp không có bệnh lý gì
trước đây. Bệnh lý thường gặp nhất trong tiền sử
bệnh là tai biến mạch máu não (17,3%), sau đó là
chấn thương sọ não (12%), còn lại là các bệnh lý
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 93
khác (25,7%).
Cơn động kinh thường gặp nhất là động
kinh toàn thể hóa (76%), sau đó là cơn cục bộ vận
động (10,7%), cục bộ phức tạp (8%), cục bộ cảm
giác (2,7%). Loại cơn ít gặp nhất là cơn cục bộ
thực vật (1,3%) và động kinh cơn lớn (1,3%).
Phần lớn các trường hợp cơn động kinh
mới xuất hiện trong vòng một tháng (41%).
Tuy nhiên, có 19% trường hợp đã bị co giật
trên 1 năm.
72% các trường hợp có ít hơn 10 cơn động
kinh trước khi nhập viện; 28% các trường hợp có
từ 10 cơn động kinh trở lên.
72% các trường hợp được tiến hành đo EEG
trong vòng 48 giờ đầu tiên.
70,6% các trường hợp có bệnh lý khác đi kèm
với bệnh động kinh. 29,3% trường hợp bệnh
động kinh là biểu hiện duy nhất.
20% bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu có
triệu chứng thần kinh khu trú, 80% trường hợp
còn lại bình thường khi thăm khám thực thể
thần kinh.
Kết quả điện não đồ
Trước khi thực hiện nghiệm pháp gây mất
ngủ một phần, tỷ lệ bản ghi EEG có kết quả bất
thường là 54,6%; Sau khi thực hiện nghiệm pháp,
tỷ lệ này tăng lên 73,3%.
Trong 54,6% bản ghi có kết quả bất thường
trước khi thực hiện nghiệm pháp gây mất ngủ
một phần: 17,3% có phóng điện dạng động kinh
và có thể có cả sóng bất thường không có dạng
động kinh; 37,3% chỉ có các sóng bất thường
không có dạng động kinh. Trong 73,3% bản ghi
có kết quả bất thường sau khi thực hiện nghiệm
pháp: 58,7% có phóng điện dạng động kinh và
có thể có cả sóng bất thường không có dạng
động kinh; 14,6% chỉ có các sóng bất thường
không có dạng động kinh.
Trước khi sử dụng nghiệm pháp gây mất
ngủ một phần, vị trí thường gặp nhất của các
phóng điện dạng động kinh là vùng trán (61,5%),
và cả trán lẫn thái dương hoặc trung tâm (23,1%).
Sau khi làm nghiệm pháp, vị trí thường gặp nhất
của các phóng điện dạng động kinh là vùng trán
(47,7%), kế tiếp là vùng thái dương (31,8%) và cả
trán lẫn thái dương hoặc trung tâm (9,1%)
Trước khi thực hiện nghiệm pháp gây mất
ngủ một phần, các phóng điện dạng động kinh
xuất hiện trong giai đoạn thức và cả lúc thức lẫn
lúc ngủ khoảng 39% các trường hợp. Sau khi
thực hiện nghiệm pháp, tỷ lệ này tăng lên 59%.
Trước khi thực hiện nghiệm pháp gây mất
ngủ một phần, có 32 bản ghi không ghi nhận
được giai đoạn ngủ, chiếm tỷ lệ 42,7%; các
trường hợp còn lại chỉ có biểu hiện của các giai
đoạn 1 và 2 của giấc ngủ không có cử động mắt
nhanh. Sau khi thực hiện nghiệm pháp gây mất
ngủ một phần, số bản ghi không ghi nhận được
giai đoạn ngủ là 9 trường hợp, chiếm tỷ lệ 12%;
đặc biệt, ghi nhận được các giai đoạn 3 và 4 của
giấc ngủ không có cử động mắt nhanh với tỷ lệ
tương ứng là 14,7% và 1,3%.
Hiệu quả của nghiệm pháp gây mất ngủ
một phần trong việc phát hiện sóng dạng
động kinh
Khi không sử dụng nghiệm pháp gây mất
ngủ một phần, chỉ có 17,3% bản ghi EEG có ghi
nhận sự xuất hiện của các phóng điện dạng động
kinh. Sau khi sử dụng nghiệm pháp, tỷ lệ này là
58,7%.
Test 2 McNemar
N 75
Chi-Square 20
P < 0,001
Phép kiểm 2 McNemar cho kết quả Chi-Square = 20 >
1, có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.
Số đo kết hợp RR
Phóng Điện Dạng Động Kinh
Sau NP
Có Không Cộng
Trước NP Không 38 24 62
Có 6 7 13
Cộng 44 31 75
RR = (38/62)/(6/13) = 1,32
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa II 94
Các yếu tố có liên quan đến sự xuất hiện
của phóng điện dạng động kinh
Yếu tố Hệ số
B
Khoảng tin
cậy 95% của
hệ số B
p Hệ số
chuẩn
hóa Beta
Nhóm tuổi 0,008 0,003 0,013 0,001 0,325
Khoảng thời gian
bị động kinh
-0,005 -0,008 -0,002 0,002 -0,319
Số cơn động kinh 0,016 0,006 0,026 0,002 0,316
Cơn động kinh
cuối
-0,008 -0,013 -0,003 0,002 -0,318
Khả năng xuất hiện các phóng điện dạng
động kinh tăng thuận chiều với số tuổi và số cơn
động kinh, tăng ngược chiều với khoảng thời
gian bị động kinh cũng như khoảng thời gian
tính từ cơn động kinh cuối đến lúc đo điện não.
BÀN LUẬN
Về tỷ lệ bản điện não có phóng điện dạng
động kinh trước và sau khi thực hiện
nghiệm pháp gây mất ngủ một phần
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả các
bệnh nhân đều trải qua nghiệm pháp gây mất
ngủ một phần với thời gian ngủ tối đa là 03 giờ
vào buổi tối trước (đi ngủ lúc 24h, thức dậy lúc
03 giờ). Hầu hết các bệnh nhân được đo EEG vào
buổi trưa sau khi ăn, trong phòng tối và yên tĩnh.
Tất cả các bản ghi EEG đều kéo dài 1 giờ. Trong
khoảng 15 phút đầu tiên là EEG giai đoạn thức
với đầy đủ các nghiệm pháp hoạt hóa như kích
thích ánh sáng cũng như nhắm mở mắt và tăng
thông khí ở bệnh nhân hợp tác. Khoảng 45 phút
còn lại là giai đoạn ngủ với giấc ngủ tự nhiên,
không dùng thuốc.
Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn
Hồng Thanh(7): Trước “đêm trắng”, 24/35 bệnh
nhân có kết quả bất thường (60%); trong đó 21/35
bệnh nhân có các sóng bất thường không có
dạng động kinh bao gồm các sóng chậm theta và
delta (60%); chỉ có 2/35 bệnh nhân có ghi nhận
các phóng điện dạng động kinh bao gồm các
hình thức tổ hợp của các nhọn/đa nhọn/sóng
chậm (8,6%). Sau “đêm trắng”, 29/35 bệnh nhân
có kết quả điện não bất thường (82,9%); trong đó
chỉ có 8/35 bệnh nhân có các sóng bất thường
không có dạng động kinh (22,8%); tỷ lệ các bản
ghi điện não có các phóng điện dạng động kinh
tăng đáng kể (60,1%). Tác giả đã đưa ra một kết
luận chung là nghiệm pháp gây mất ngủ làm
tăng tỷ lệ thay đổi sóng nền và sóng kịch phát
trên điện não đồ từ 68,6% lên 82,9 % và sự khác
biệt chưa có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Nghiên cứu của J. A. Carpay và cộng sự(1)
trên 552 trẻ em và thiếu niên, từ 1 tháng đến 16
tuổi, có hai hay nhiều cơn động kinh trong quá
khứ. Tất cả bệnh nhân được đo EEG thường quy.
Trong các trường hợp EEG thường quy cho kết
quả bình thường, sẽ tiến hành đo EEG lần thứ II
có sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ một phần.
Bệnh nhân được gây mất ngủ một phần tùy theo
lứa tuổi: từ 0-2 tuổi: EEG được ghi trong giấc ngủ
trưa; từ 3-10 tuổi: bệnh nhân được ngủ tối đa 07
giờ vào tối hôm trước; từ 11-15 tuổi: thời gian
ngủ tối đa vào tối hôm trước là 05 giờ. Kết quả
nghiên cứu cho thấy: tỷ lệ phát hiện sóng dạng
động kinh của EEG thường quy là 56%; Trong
44% các trường hợp còn lại, EEG có sử dụng
nghiệm pháp gây mất ngủ một phần giúp phát
hiện sóng dạng động kinh thêm 34,5% (tương
đương 11% nếu tính trên tổng số 552 bệnh nhân).
Do đó, nếu tính trên tổng số 552 bệnh nhân
trong nghiên cứu, bản ghi EEG lần thứ II có sử
dụng nghiệm pháp gây mất ngủ một phần làm
tỷ lệ phát hiện sóng dạng động kinh từ 56% (với
EEG thường quy) tăng lên 67%.
R.Peraita-Adrados(8) đã tiến hành ghi EEG
trên 686 bệnh nhân có ít nhất 1 cơn động kinh
trong quá khứ. Bệnh nhân được gây mất ngủ
một phần từ 1 đến 3 giờ vào đêm hôm trước (3
giờ đối với người lớn; 2 giờ đối với thanh thiếu
niên; 1 giờ đối với trẻ em và không sử dụng
nghiệp pháp gây mất ngủ cho trẻ dưới 12 tháng
tuổi); sau đó được đo EEG liên tục trong 02 tiếng
(từ 1 đến 3 giờ chiều) ngày hôm sau. Trong số
này, 40 trường hợp có kết quả không rõ ràng
được đo EEG lần thứ hai. Phóng điện dạng động
kinh ngoài và trong cơn được ghi nhận ở 40,4%
các trường hợp khi đo EEG lần đầu và 35% trong
40 trường hợp đo lần thứ hai.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa II 95
Trước khi sử dụng nghiệm pháp gây mất
ngủ một phần, tỷ lệ xuất hiện các phóng điện
dạng động kinh theo nghiên cứu của chúng tôi là
17%. Kết quả này cao hơn của tác giả Nguyễn
Hồng Thanh (8,6%) do tác giả ghi EEG theo qui
trình thường quy(7,2), trong khi đó bản ghi EEG
của chúng tôi có thời gian dài hơn (01 giờ). Kết
quả này thấp hơn đáng kể so với kết quả nghiên
cứu của tác giả J. A. Carpay (56%), do tác giả có
thể kéo dài thời gian ghi đến 1,5 giờ trong
trường hợp chưa ghi nhận được EEG giấc ngủ
của bệnh nhân, và tuổi trung bình trong nhóm
nghiên của tác giả nhỏ hơn trong nghiên cứu của
chúng tôi(6,3).
Sau khi sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ
một phần, tỷ lệ xuất hiện các phóng điện dạng
động kinh theo nghiên cứu của chúng tôi là 59%.
Kết quả này tương đương của tác giả Nguyễn
Hồng Thanh (60,1%) và J.A Carpay (67%).
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Hồng Thanh tuy
sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ toàn bộ
(“đêm trắng”) nhưng thời gian của bản ghi ngắn
hơn (EEG thường quy).
Về số đo kết hợp RR
Trong nghiên cứu của chúng tôi, số đo kết
hợp RR=1,32. Điều này có thể diễn giải như sau:
Sau nghiệm pháp gây mất ngủ một phần, khả
năng xuất hiện các phóng điện dạng động kinh ở
nhóm không có IED gấp 1,32 lần nhóm có IED
khi không sử dụng nghiệm pháp gây mất ngủ
một phần. Giá trị 1,32 nhỏ hơn kỳ vọng (RR=1,5)
có thể do cỡ mẫu nhỏ, thời gian đo EEG ngắn (01
giờ) và điều kiện phòng ốc trang thiết bị không
tốt (tiếng ồn).
Về các yếu tố có liên quan đến sự xuất hiện
của phóng điện dạng động kinh
Sự xuất hiện của các phóng điện dạng động
kinh ngoài cơn tăng cùng chiều với nhóm tuổi
của bệnh nhân và số cơn động kinh trước khi đo
EEG; tăng ngược chiều với khoảng thời gian bị
động kinh và thời gian tính từ cơn động kinh
cuối đến lúc đo điện não. Hay nói cách khác: các
phóng điện dạng động kinh ngoài cơn dễ xuất
hiện ở nhóm bệnh nhân lớn tuổi, có nhiều cơn
động kinh, mới bị động kinh gần đây và được đo
điện não sớm.
C. Ajmone Marsan và cộng sự đã tiến hành
một nghiên cứu trên 1824 bản ghi điện não từ
308 bệnh nhân (trung bình 6 bản EEG/1 bệnh
nhân). Từ nghiên cứu của mình, tác giả đã đưa
ra kết luận: yếu tố tuổi tác, bao gồm cả tuổi lúc
đo điện não và tuổi lúc khởi phát động kinh, có
liên quan đến sự xuất hiện của các phóng điện
dạng động kinh. Các bản ghi điện não có nhiều
khả năng bắt được các phóng điện này ở nhóm
trẻ dưới 10 tuổi và nhiều khả năng bình thường
ở nhóm bệnh nhân lớn hơn 40 tuổi. Thêm vào
đó, khi xét đến các yếu tố như khoảng thời gian
tính từ cơn động kinh cuối đến lúc đo điện não
và số cơn động kinh trước khi đo, tác giả nhận
định: khoảng thời gian tính từ cơn động kinh
cuối đến lúc đo điện não càng ngắn và/hoặc số
cơn động kinh càng nhiều thì tỷ lệ bắt được các
phóng điện dạng động kinh càng cao(6).
Trong một nghiên cứu đa trung tâm tại Đức,
Hungary và Thụy Điển trên 303 bệnh nhân,
Jozsef Janszky và cộng sự thấy rằng: các yếu tố
như tuổi của bệnh nhân, khoảng thời gian bị
động kinh và số cơn động kinh càng nhiều thì tỷ
lệ bắt được các phóng điện dạng động kinh càng
cao (theo phân tích đơn biến). Tuy nhiên, khi
phân tích hồi quy logistic, chỉ có tần suất cơn cao
(p<0,001) và khoảng thời gian bị động kinh lâu
(p=0,007) là có liên quan đến khả năng bắt được
các phóng điện dạng động kinh trên điện não
đồ, còn yếu tố tuổi của bệnh nhân thì không(3).
Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Mark A.
King và cộng sự, ghi điện não trong vòng 24 giờ
sau cơn động kinh cuối có khả năng bắt được các
phóng điện dạng động kinh nhiều hơn so với ghi
điện não sau 24 giờ (51% so với 34%)(9).
Như vậy, khi so sánh kết quả nghiên cứu của
chúng tôi với các tác giả trên, có thể rút ra một số
nhận xét:
- Tuổi của bệnh nhân tại thời điểm đo EEG
tăng cùng chiều với tần suất của các phóng điện
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa II 96
dạng động kinh; khác với các kết quả của các tác
giả C. A. Marsan và J. Janszky.
- Số cơn động kinh trước khi đo EEG tăng
cùng chiều với tần suất của các phóng điện dạng
động kinh; phù hợp với các kết quả của các tác
giả C. A. Marsan và J. Janszky.
- Khoảng thời gian tính từ lúc bị động kinh
đến lúc đo EEG tăng ngược chiều với tần suất
của các phóng điện dạng động kinh; phù hợp
với kết quả của tác giả C. A. Marsan nhưng khác
với kết quả của J. Janszky.
- Thời gian tính từ cơn động kinh cuối đến
lúc đo EEG tăng ngược chiều với tần suất của các
phóng điện dạng động kinh; phù hợp với kết
quả của các tác giả C. A. Marsan và M. A. King.
- Sự khác biệt trên có thể do cỡ mẫu của
chúng tôi quá bé so với các tác giả.
KẾT LUẬN
Nghiệm pháp gây mất ngủ một phần có
tác dụng kích hoạt các phóng điện dạng động
kinh trên điện não đồ ở bệnh nhân bị động
kinh. Do đó, ngoài các nghiệm pháp kích thích
đã sử dụng thường qui, cần ứng dụng nghiệm
pháp gây mất ngủ một phần nhiều hơn trong
kỹ thuật đo điện não; để nâng cao chất lượng
bản ghi EEG.
Ngoài nghiệm pháp gây mất ngủ một phần,
còn có các yếu tố khác làm tăng khả năng xuất
hiện của các phóng điện dạng động kinh ngoài
cơn, bao gồm: nhóm bệnh nhân lớn tuổi, có
nhiều cơn động kinh, mới bị động kinh gần đây
và được đo điện não sớm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Carpay J.A., et al (1997). "The diagnostic yield of a second EEG
after partial sleep deprivation: a prospective study in children
with newly diagnosed seizures". Epilepsia, 38(5): p. 595-9..
2. Flink R, Guekht AB, Malmgren K, Michelucci R, Neville B,
Pinto F, Stephani U, Ozkara C (2002). "Guidelines for the use of
EEG methodology in the diagnosis of epilepsy. International
League Against Epilepsy: commission report. Commission on
European Affairs: Subcommission on Eu