Mục tiêu nghiên cứu: Xác định chỉ định phẫu thuật nội soi bướu giáp đơn nhân. Phương pháp nghiên cứu: Khảo sát tiến cứu có can thiệp lâm sàng cho 307(trường hợp) TH bướu giáp đơn nhân được PT tại BV NDGĐ từ 11/ 2002 tới 5/ 2011. Kết quả: Phẫu thuật nội soi (PTNS) điều trị bướu giáp đơn nhân và mổ mở đều có hiệu quả cao và an toàn: kết quả loại TỐT (lấy được bướu, không có biến chứng, xuất viện sớm) mổ mở đạt 91,5 %, mổ NS 90,04%, loại Xấu mổ mở chỉ có 1,88 %, mổ NS 2,48%; Tái phát thấp: chỉ có 0,94% BN mổ mở và 1% BN mổ NS bị tái phát. PTNS, BN ít đau sau mổ và sớm trở lại sinh hoạt bình thường: đạt 82,59% so với 14,16% của mổ mở. Đạt được hiệu quả cao về thẩm mỹ và tâm lý; BN ít bị tê, dị cảm vùng cổ trước và nuốt vướng: 2,48% và 1% so với mổ mở là 20,75% và 14,15%. Kết luận: PTNS có thể thay thế mổ mở đối với một số bệnh lý tuyến giáp (TG), chỉ định: Bướu lành tính, có đường kính ≤ 4cm như bướu giáp đơn thuần, bướu tuyến TG. Cường giáp do bướu giáp đơn thuần (BGĐT) cường giáp hóa, nhân độc giáp trạng, điều trị nội ổn. Ung thư TG loại biệt hóa tốt, bướu có đường kính ≤ 1cm, chưa có di căn; BN có yêu cầu cao về thẩm mỹ và tâm lý, chẳng hạn như BN lo lắng tới sẹo mổ ở vùng cổ.
6 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 352 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu chỉ định điều trị bướu giáp nhân bằng phẫu thuật nội soi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 144
NGHIÊN CỨU CHỈ ĐỊNH ĐIỀU TRỊ BƯỚU GIÁP NHÂN
BẰNG PHẪU THUẬT NỘI SOI
Trịnh Minh Tranh*,Vũ Quang Việt*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định chỉ định phẫu thuật nội soi bướu giáp đơn nhân.
Phương pháp nghiên cứu: Khảo sát tiến cứu có can thiệp lâm sàng cho 307(trường hợp) TH bướu giáp
đơn nhân được PT tại BV NDGĐ từ 11/ 2002 tới 5/ 2011.
Kết quả: Phẫu thuật nội soi (PTNS) điều trị bướu giáp đơn nhân và mổ mở đều có hiệu quả cao và an toàn:
kết quả loại TỐT (lấy được bướu, không có biến chứng, xuất viện sớm) mổ mở đạt 91,5 %, mổ NS 90,04%, loại
Xấu mổ mở chỉ có 1,88 %, mổ NS 2,48%; Tái phát thấp: chỉ có 0,94% BN mổ mở và 1% BN mổ NS bị tái phát.
PTNS, BN ít đau sau mổ và sớm trở lại sinh hoạt bình thường: đạt 82,59% so với 14,16% của mổ mở. Đạt được
hiệu quả cao về thẩm mỹ và tâm lý; BN ít bị tê, dị cảm vùng cổ trước và nuốt vướng: 2,48% và 1% so với mổ mở
là 20,75% và 14,15%.
Kết luận: PTNS có thể thay thế mổ mở đối với một số bệnh lý tuyến giáp (TG), chỉ định: Bướu lành tính, có
đường kính ≤ 4cm như bướu giáp đơn thuần, bướu tuyến TG. Cường giáp do bướu giáp đơn thuần (BGĐT)
cường giáp hóa, nhân độc giáp trạng, điều trị nội ổn. Ung thư TG loại biệt hóa tốt, bướu có đường kính ≤ 1cm,
chưa có di căn; BN có yêu cầu cao về thẩm mỹ và tâm lý, chẳng hạn như BN lo lắng tới sẹo mổ ở vùng cổ.
Từ khóa: phẫu thuật nội cắt tuyến giáp nội soi, nhân giáp, bướu tuyến giáp.
ABSTRACT
ENDOSCOPIC THYROIDECTOMY FOR PATIENTS WITH SOLITARY NODULE OF THYROID
Trinh Minh Tranh, Vu Quang Viet * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 6 ‐ 2013: 144 ‐ 149
Purpose: Study indication of thyroid endoscopic surery for patients with single‐nodular thyroid.
Methods: A prospective study of 307 patients with single‐nodular thyroid treated by thyroid surgery from
11/ 2002 to 5/ 2011 in Nhan Dan Gia Dinh hospital.
Results: The outcomes of both endoscopic and conventional thyroidectomy for solitary nodules are safe and
effective: 91.5% good (nodular excision, no complication, shorter hospitalization) in CT (conventional
thyroidectomy) group, and 90.04% in ET (endoscopic thyroidectomy) group; undesirable 1.88% in CT group,
and 2.48% in ET group; low recurrence only 0.94% in CT group, and 1% in ET group. The endoscopic
thyroidectomy gives lesser postoperative pain (82.59% compared with 14.16% in CT group) and makes earlier
activity recovery; achieves better cosmetic and satisfication; causes only 2.48% with paresthesia or hypesthesia
compared to 20.75% of CT, and 1% with swallow disorders compared to 14.15% in CT group.
Conclusions ET can replace CT in cases: Nodules ≤ 4cm in diameter. Benign goiter: simple goiter, thyroid
adenoma, Stable toxic nodular goiter and toxic adenoma. Well‐differentiated carcinoma < 1cm in diameter
without metastasis; Cosmetic requirements.
Key word: endoscopic thyroidectomy, solitary nodule, thyroid adenoma
ĐẶT VẤN ĐỀ Phẫu thuật (PT) nội soi TG được Gagner và
cộng sự thực hiện đầu tiên vào năm 1996. PT
* Khoa Ngoại Lồng Ngực Mạch Máu BV Nhân Dân Gia Định
Tác giả liên lạc: TS.BS Trịnh Minh Tranh ĐT: 0913.679.355 Email: m_Tranh@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 145
này có ưu điểm ít xâm lấn và có kết quả thẩm
mỹ cao nhờ sẹo mổ nhỏ, được che khuấtTrên
thế giới, PTnội soi TG đã trở thành tiêu chuẩn ở
một số bệnh viện (BV) và yêu cầu về mặt thẩm
mỹ được đặt ngang tầm với quan điểm điều trị
(ĐT)(8). Bệnh lý TG rất đa dạng, tổn thương giải
phẫu bệnh (GPB) có thể là lành tính, ác tính. Về
sinh bệnh học, bệnh có thể liên quan đến trục
Tuyến yên ‐Tuyến giáp ‐ Hạ đồi, cơ chế tự miễn
hoặc do viêm nhiễm. Vị trí thương tổn, bệnh có
thể ở một bên hay 2 bên thùy giáp. Kích thước
bướu, khi BN đến khám bệnh bướu có khi còn
nhỏ 1‐ 2 cm, nhưng có khi đã lớn tới 8‐9 cm
Chính vì vậy, hiện nay, chỉ định PTNS chưa có
sự thống nhất giữa các phẫu thuật viên (PTV)(9,3).
Trên thế giới, nghiên cứu (n/c) so sánh kết quả
giữa mổ NS và mổ mở TG đã được các tác giả
như Miccoli P n/c tại Ý(5), còn tại Việt Nam chưa
có công trình n/c nào được công bố. Vấn đề n/c
được đặt ra là kết quả phẫu thuật NS TG so với
mổ mở có gì tương đương? Những hạn chế và
ưu điểm của từng PP mổ? Ưu điểm của PT NS
có thể khắc phục được những hạn chế của mổ
mở? Trên cơ sở đó, khi chọn lựa phẫu thuật NS
TG thay thế mổ mở, cần có những chỉ định, điều
kiện gì, nhất là khi áp dụng vào hoàn cảnh cụ
thể của nước ta? Nghiên cứu chỉ định PTNS cho
tất cả các bệnh lý TG là một vấn đề lớn, đòi hỏi
nhiều công trình n/c, trong khuôn khổ n/c này,
chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu chỉ định
điều trị bướu giáp đơn nhân bằng phẫu thuật
NS” nhằm góp phần xác định những chỉ định
PT đối với những bệnh lý xảy ra trên một thùy
của TG biểu hiện bằng một nhân giáp.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thời gian
Từ 11/2002 đến 5/ 2011 với các BN có bướu
giáp đơn nhân .
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
BN có bướu giáp đơn nhân.
Bướu có đường kính lớn nhất ≤ 4 cm (dựa
vào siêu âm).
‐ Nếu có cường giáp, phải được điều trị nội
từ 3‐6 tháng, lâm sàng ổn (mạch < 90 nhịp /
phút, hết hồi hộp, hết run tay, lên cân); TSH, T3,
FT4 trở về bình thường.
‐ Xét nghiệm chức năng TG trước mổ: bình
giáp.
‐ BN đồng ý tham gia.
Tiêu chuẩn loại trừ
‐ Chọc hút sinh thiết bằng kim nhỏ (FNA) trả
lời là ung thư TG hoặc nghi ngờ và khi bướu >
1cm.
‐ Bướu thòng trung thất.
‐ Có tiền sử phẫu thuật TG, xạ trị vùng cổ.
Như vậy, BN trong nhóm n/c của chúng tôi
không đơn thuần chỉ là bệnh lành tính, mà còn
gồm những bệnh thuộc loại ác tính, nghi ngờ ác
tính (kích thước ≤1cm) và cường giáp với đơn
nhân giáp được điều trị nội ổn định.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu can thiệp. Chúng tôi thực hiện
PP tiến cứu có can thiệp lâm sàng. BN được lựa
chọn theo các tiêu chuẩn trên. Sau khi được thực
hiện bổ xung các xét nghiệm (XN) cận lâm sàng
(CLS) cần thiết, BN sẽ được tự lựa chọn PP mổ
và đưa vào 2 lô nghiên cứu mổ mở hoặc PT nội
soi.
Phương tiện nghiên cứu
‐ Dụng cụ, trang thiết bị, dàn mổ nội soi
Ngoại Tổng quát.
‐ Dao đốt điện đơn cực, lưỡng cực (bipolar),
dao đốt siêu âm cao tần (Harmonic scalpel)
‐ Khung nâng da cải tiến theo khung nâng
thành bụng của Nagae, banh bên trong
(Retractor)
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong 307 TH, có 106 TH mổ mở và 201 TH
mổ nội soi. Có 5 BN (2,49 %) phải chuyển sang
mổ mở, trong đó 3 BN là do chảy máu, 2 BN là
do bướu quá dính và sau mổ kết quả giải phẫu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 146
bệnh là viêm giáp Hashimoto.
Tuổi và giới
Trong 106 BN được mổ mở, có 86 nữ
(81,13%), chỉ có 20 nam (18,87)%, cho thấy bệnh
xuất hiện ở nữ nhiều hơn nam. Trong 201 BN
được mổ NS, có 186 nữ (92,54%), chỉ có 15 nam
(7,46%), cũng cho thấy bệnh xuất hiện ở nữ
nhiều hơn nam.
Bảng 1: Sự phân bố về tuổi (năm)
Phương pháp mổ Nhỏ nhất Trung bình±sd Lớn nhất
Mổ mở (n = 106) 14 40,18 ±11,03 73
Mổ nội soi (n = 201) 15 32,52 ±9,86 58
Kích thước nhân giáp
Bảng 2: Kích thước nhân giáp (mm)
Phương pháp mổ Nhỏ nhất Tb±sd* Lớn nhất
Mổ mở (106 ca) 9 29 ± 0,78 40
Nôi soi (201 ca) 8 27 ± 0,67 40
*t‐ test p<0,0001
Nhân trung bình được phẫu thuật NS là
2,7cm và mổ mở là 2,9 cm.
Giải phẫu bệnh lý
Tất cả 307 BN mổ đều được làm xét nghiệm
giải phẫu bệnh.
Bảng 3: Kết quả giải phẫu bệnh lý
Kết quả GPB Mổ mở N
Mổ nội soi
N P
BGĐT 77 159
Bướu tuyến TG 19 26
Ung thư TG 7 10 0,577*
Viêm giáp 3 6
Tổng 106 201
* Kiểm định chính xác Fisher
Các TH ung thư TG đều là dạng nhú
(Papillary carcinoma) và dạng nang (Follicular
carcinoma).
Thời gian mổ
Bảng 4: Thời gian mổ theo loại phẫu thuật (phút)
Phương pháp mổ Ngắn nhất Tb ± sd
Dài
nhất P*
Mổ mở 30 75,67 ± 21,1 128
<0,001
Mổ nội soi 45 98,50 ± 26,4 195
*t test
Thời gian mổ trung bình của mổ mở (75,67
phút) ngắn hơn mổ NS (98,50 phút) (p <0,001 ).
Đau sau mổ
Bảng 5 : Kết quả đau sau mổ
Mức độ đau Mổ mở (n) Mổ nội soi (n) P*
Đau ít 15 166
<0,001Đau vừa 25 21
Đau nhiều 66 14
Tổng 106 201
*Test chi bình phương
Thời gian hậu phẫu
Thời gian tính từ ngày mổ đến ngày BN
được xuất viện.
Bảng 6: Thời gian hậu phẫu (ngày)
Pp mổ Ngắn nhất Tb ± sd Dài nhất P*
Mổ mở 2 3,67 + 0,72 8
0,341
Mổ nội soi 2 3,62 + 0,57 7
*t test
Thời gian nằm viện trung bình giữa mổ mở
và mổ NS khác nhau không có ý nghĩa thống kê
(p>0,05).
Biến chứng trong thời gian hậu phẫu
(nằm viện sau mổ)
Bảng 7: Các biến chứng hậu phẫu
Biến chứng Mổ mở (n) Mổ nội soi (n)
Chảy máu 0 0
Tụ dịch, phù nề 2 3
Nhiễm khuẩn 1 2
Khàn tiếng 2 5
Tê tay chân 1 2
Trong 201 BN mổ NS có 5 BN khàn tiếng,
trong đó có 1 BN hết khi xuất viện. Có 7 BN có
tràn khí dưới da, nhưng hết sau mổ 2‐3 ngày.
Hai BN bị tê tay chân cũng hết khi xuất viện.
Không có BN nào có cơn nhịp nhanh trên thất.
Trong 106 BN mổ mở, có 2 BN khàn tiếng thì
1 bệnh hết khi xuất viện, còn 1 BN tê tay chân
cũng chỉ tạm thời, cũng hết khi xuất viện.
Kết quả trong 3 tháng đầu sau mổ
307 BN được phẫu thuật TG có kết quả sớm
sau mổ như sau:
Bảng 8: Kết quả sớm sau mổ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 147
Cách phẫu thuật Mổ mở N
Mổ nội soi
N P
Tốt 97 181
0,981
Khá 4 10
Trung bình 3 5
Xấu 2 5
Tổng 106 201
‐ BN bị tê, dị cảm vùng cổ trước: mổ mở có
22 BN (20,75%); mổ NS có 5 BN (2,48%), sự khác
biệt có nghĩa thống kê (p<0,001).
‐ BN bị nuốt vướng, hơi cứng cổ: mổ mở có
15 BN (14,15%); mổ NS có 2 BN (1%), sự khác
biệt có nghĩa thống kê (p<0,001).
Sự thoải mái đối với sẹo mổ của bệnh nhân
Sau mổ BN được hỏi về cảm giác đối với vết
sẹo mổ của mình.
Bảng 9: Kết quả sự thoải mái đối với sẹo mổ của
bệnh nhân
Mức độ thoải mái Mổ mở Mổ nội soi P*
Không thoải mái 61 7
< 0,001 Thoái mái 34 20
Rất thoái mái 11 174
Tổng 106 201
*Test chi bình phương
Sự tự tin của bệnh nhân
Sau mổ BN được hỏi về sự tự tin của mình
khi giao tiếp trong công việc cũng như trong
sinh hoạt hàng ngày.
Bảng 10: Kết quả sự tự tin của bệnh nhân
Mức độ tự tin Mổ mở Mổ nội soi P*
Không tự tin 81 11
<0,001
Rất tự tin 25 190
Tổng 106 201
*Test chi bình phương
Kết quả sau mổ 3 tháng đến 1 năm
‐ BN bị tê, dị cảm vùng cổ trước: mổ mở còn
7 BN (6,60%); mổ NS không còn BN nào.
‐ BN bị nuốt vướng, hơi cứng cổ: mổ mở còn
5 BN (4,71%) trong đó có 2 BN phải mổ sửa sẹo
dính; mổ NS không còn BN nào. Có 1 BN mổ
mở và 2 BN mổ nội soi bị tái phát.
BÀN LUẬN
Kết quả tương đương giữa mổ mở và mổ
nội soi
Trong 2 nhóm mổ mở và mổ NS đa số BN
đều là nữ: mổ mở 81,13%, mổ NS 92,54%. Tuổi
TB, mổ mở 40 tuổi, mổ NS là 32 tuổi. Các loại
bệnh trong 2 nhóm cũng đều đa số là BGĐT, sau
đó là bướu tuyến TG. Như vậy, đặc điểm của 2
nhóm khá tương đồng.
Kết quả sớm sau mổ cho thấy tương tự giữa
mổ mở và mổ NS: Đều an toàn và có hiệu quả
điều trị bệnh cao: kết quả loại TỐT sau mổ (lấy
được bướu, không có biến chứng, xuất viện
sớm) mổ mở đạt 91,5%, mổ NS 90,04%, loại Xấu
mổ mở chỉ có 1,88 %, mổ NS 2,48%.
Các biến chứng đều ít và tương tự mổ mở /
mổ NS như: tụ dịch, phù nề 1,87% / 1,49%;
nhiễm khuẩn vết mổ 0,94% /1%; tê tay chân
0,94% /1%; khàn tiếng 1% / 1,49%.
Hiệu quả cao của PT nội soi và khắc phục
được nhược điểm của mổ mở.
BN được PT nội soi, ít đau sau mổ và sớm trở
lại sinh hoạt bình thường: đạt 82,59% so với
14,16% của mổ mở.
Phẫu thuật NS có thể khắc phục được những
hạn chế của mổ mở như:
‐ Đạt được hiệu quả cao về thẩm mỹ và tâm
lý: 96,62% BN mổ NS thoải mái với sẹo mổ và
94,53% BN tự tin khi giao tiếp, so với mổ mở chỉ
có 13,85% BN thoải mái với sẹo mổ và có tới
76,42% BN không tự tin khi giao tiếp.
‐ Theo tác giả Ikeda Y, vết sẹo mổ trên cổ và
sự dính của nó với mô dưới da có thể gây nên
tình trạng cứng và dị cảm vùng cổ (65%), khó
chịu khi nuốt (30%)(3). Trong PTNS, BN ít bị tê,
dị cảm vùng cổ trước và nuốt vướng: 2,48% và
1% so với mổ mở là 20,75% và 14,15%.
Chỉ định phẫu thuật
Như bàn luận ở trên, mổ mở và mổ NS có
kết quả gần tương đương, đa số là tốt. PT nội
soi có thể khắc phục được nhược điểm của mổ
mở kinh điển. Do đó PT nội soi TG có thể thay
thế cho mổ mở, song chỉ định căn cứ vào những
gì?. Về kích thước bướu, đa số các tác giả chọn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 148
bướu có kích thước < 3 ‐ 4 cm: Inabner W(2),
Miccolli P mổ 336 TH, bướu < 3,5cm(4), Raffaelli
và Galleri mổ 51 TH, bướu < 3cm(7), Bellatone mổ
62 TH, chọn bướu < 3cm(1), Trần Ngọc Lương đã
mổ 140 TH, kích thước trung bình là 2,6cm(9),
bên cạnh đó chỉ có một số ít tác giả như
Yoshiyuki(13), mổ NS cho bướu kích thước 6cm;
tác giả Chen đã mổ bướu có kích thước tới
8cm(12), nhưng với số lượng không nhiều. Trong
n/c, chúng tôi giới hạn chỉ PT cho bướu có kích
thước ≤ 4 cm, kích thước TB của bướu được
PTNS là 2,7cm và của mổ mở là 2,9cm. Hầu hết
đều đạt kết quả tốt. Qua công trình n/c và tham
khảo các ý kiến của các tác giả khác chúng tôi thấy với
bướu giáp ≤ 4cm, PTNS có thể thay thế mổ mở đối
với một số bệnh lý TG.
Loại bệnh lý và sang thương giải phẫu bệnh. Đa
số các tác giả đều có khuynh hướng ưu tiên chọn
lành tính. Hai dạng thường gặp là BGĐT và
bướu tuyến TG. Yong Lai P, mổ 100 BN, thì có
75 TH là lành tính, 21 u nang và 4 TH không xác
định (có làm FNA trước mổ)( 6). Trong một n/c
tác giả Trần Ngọc Lương, mổ NS 140 BN đều là
lành tính, kết quả tốt(9). Đối với bệnh BGĐT,
chúng tôi có 236 BN: mổ mở 77 BN, mổ NS có
159 BN. Với thương tổn là bướu tuyến TG
(Adenoma), có 45 BN: mổ mở 19 BN, mổ NS có
26 BN. Kết quả đều tốt. Ung thư TG, theo Henry
đối với ung thư TG biệt hóa tốt như K dạng nhú,
dạng nang, bướu < 1cm thì chỉ cần cắt thùy là đủ
vì ung thư dạng này có dự hậu tốt, trên 90% BN
sống ít nhất là 10 năm(10). Đối với ung thư dạng
nhú có kích thước < 1cm, vấn đề nạo hạch còn
đang bàn cãi. Có tác giả chủ trương nạo hạch, có
tác giả cho rằng không cần phải nạo hạch(3). Với
14 TH ung thư TG hoặc nghi ngờ: mổ mở 6 TH
(5 TH có kết quả GPB ung thư TG ), mổ NS 8 TH
(5 TH có kết quả GPB ung thư TG), chúng tôi
đều cắt trọn thùy và đều tìm thần kinh QNTQ
trong khi mổ. Kết quả các TH ung thư TG nói
trên tốt, chưa thấy TH nào có di căn hoặc tái
phát. Trường hợp cường giáp, PT khi bệnh đã
được ĐT nội khoa ổn. Yamamoto M đã cắt gần
toàn bộ TG cho 12 BN bị Basedow. Kết quả rất
mỹ mãn, nhất là về mặt thẩm mỹ(11). Trần Ngọc
Lương báo cáo 22 TH cường giáp mổ NS kết quả
tốt(10). Đối với 9 TH cường giáp: mổ mở 3 TH,
mổ NS 6 TH. Vì 9 TH chúng tôi chọn này đều
chỉ thuộc 2 loại bệnh là nhân độc giáp trạng và
BGĐT cường giáp hóa, nên chúng tôi chỉ thực
hiện cắt gần trọn hay trọn thùy bên có sang
thương gây nên tình trạng cường giáp. Chúng
tôi không can thiệp bên đối diện như trong bệnh
Basedow hay BGĐT đa nhân 2 thùy/ cường
giáp. Sau mổ chỉ có 1 ca còn cường giáp nhẹ, ĐT
nội khoa đã khỏi bệnh. Như vậy về loại bệnh lý,
phẫu thuật NS TG áp dụng tốt cho những bệnh lành
tính. Đối với tổn thương ác tính, biệt hóa tốt, hay
cường giáp điều tri nội ổn, bướu nhỏ cũng là chỉ định
của phẫu thuật NS.
Yêu cầu thẩm mỹ và tâm lý bệnh nhân. Những
BN có bướu giáp có chỉ định mổ đặc biệt là nữ,
đang lưỡng lự chọn lựa giữa vết sẹo mổ hay
bướu cổ thì thường chọn PTNS. Gần 100% BN
của Shimizu trả lời rất thoải mái hoặc thoải mái
đối với sẹo mổ và tự tin khi giao tiếp, 90% BN
của ông chọn PP phẫu thuật NS TG(8). Trong
nghiên cứu của chúng tôi, có 65,47% BN đã chọn
mổ NS. Kết quả có tới 96,52 % BN mổ NS rất
thoải mái hoặc thoải mái với sẹo mổ của mình
và 94,53 % BN tự tin khi giao tiếp. Như vậy,
những lo lắng chính đáng đối với vết sẹo mổ
những yêu cầu về mặt thẩm mỹ và tâm lý cũng
là một trong những chỉ định chính của phẫu
thuật NS TG.
Các trang thiết bị: máy nội soi, dụng cụ cầm
máu, dao đốt, phương tiện tạo phẫu trường.
Vùng cổ không có khoang trống sẵn như ổ
bụng, lồng ngực, nên phải chủ động tạo ra một
khoang làm việc đủ rộng. TG liên quan đến
nhiều bó mạch và thần kinh quan trọng như
thần kinh quặt ngược thanh quản (QNTQ,) nên
cần có phương tiện đốt, cắt an toàn và hiệu quả
như dao siêu âm cao tần (Harmonic scalpel).
Ngoài ra, PTV có một số kinh nghiệm mổ mở
kinh điển sẽ thuận lợi trong PT nội soi TG.
Các đặc điểm về tuổi (thường trẻ), giới
(thường nữ), nghề nghiệp (giao tiếp nhiều) là
những yếu tố lưu ý khi chọn mổ nội soi.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 149
KẾT LUẬN
PTNS có thể thay thế mổ mở đối với một số
bệnh lý TG, chỉ định: Bướu lành tính, có đường
kính ≤ 4cm như bướu giáp đơn thuần, bướu
tuyến TG, Cường giáp do bướu giáp đơn thuần
cường giáp hóa, nhân độc giáp trạng, điều trị
nội ổn; Ung thư TG loại biệt hóa tốt, bướu có
đường kính ≤ 1cm, chưa có di căn; BN có yêu
cầu cao về thẩm mỹ và tâm lý, chẳng hạn như
BN lo lắng tới sẹo mổ ở vùng cổ. Lưu ý BN trẻ,
nữ giới, nghề nghiệp liên quan nhiều đến giao
tiếp.
Về con người và trang thiết bị. Cơ sở y tế tối
thiểu phải có dàn mổ NS Ngoại tổng quát, có
thêm dao cắt siêu âm cao tần là tốt nhất. Phẫu
thuật viên là người có một số kinh nghiệm trong
mổ mở kinh điển đối với TG.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bellatone R; Maurizio Bossola (2002) “Video ‐ assisted vs
conventional thyroid lobectomy”, Arch Surg ; 137, pp. 301‐304.
2. Gagner M, Inabnet W (2001). “Endoscopic thyroidectomy for
solitary thyroid nodules”, Thyroid, Feb; 11(2), pp. 161–3.
3. Ikeda Y, Takami H, Tajima G (2002), “Total endoscopic
thyroidectomy: axillary or anterior chest approach”, Biomed
Pharmacother; 56, pp. 72–78.
4. Miccoli P, Bellantone R, Mourad M (2002), “ Multinstitutional
experience”, J Am Coll Surg , May; 194 (5), pp. 610–614.
5. Miccoli P, Berti P, Raffaelli M (2001), “Comparison between
minimally invasive video–assisted thyroidectomy and
conventional thyroidectomy: a prospective randomized study”,
Surgery; 130(6), pp. 1039–1043.
6. Park Yong Lai, Han Won Kon (2003), “100 cases of endoscopic
thyroidectomy technicques: Breast approach”,Surgical
laparoscopy, endoscopy percutaneous techniques. Vol 13, No 1,
pp. 20‐25.
7. Raffaelli M, Materazzi G, Galleri D (2001), “Minimally invasive
video–assisted thyroidectomy”, Am J surg, Jun; 181 (6), pp. 567–
570.
8. Shimizu K (2001). “Minimally invasive thyroid surgery”, Best
Pract Res Clin Endocrinol Metab; 15(2), pp. 123–137.
9. Trần Ngọc Lương (2006). Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật NS
điều trị bướu giáp thể nhân lành tính, Luận án tiến sĩ y học, ĐH
Y Hà Nội.
10. Trần Ngọc Lương (2008), “ Kinh nghiệm cá nhân của 750
trường hợp cắt tuyến giáp