Mục tiêu: Mô tả hình dáng, kích thước, vách ngăn, ấn động mạch cảnh, ấn giao thoa thị giác và cấu trúc
xoang bướm trên hình ảnh chụp cắt lớp vi tính 64 dãy.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả tiến cứu dựa trên hình ảnh chụp cắt lớp vi tính 64 dãy xoang bướm ở 45
bệnh nhân. Bệnh nhân được chọn lựa trên 16 tuổi. Hình ảnh xoang bướm được chụp và dựng hình với 3 chiều
cắt ngang, cắt dọc và cắt đứng dọc. Mô tả hình dáng xoang bướm, số lượng vách ngăn, vị trí vách ngăn so với
động mạch cảnh, giao thoa thị giác, niêm mạc xoang, xương sàn hố yên.
Kết quả: Trong thời gian từ 10/2010 tới 8/2012, chúng tôi đã chọn lựa được 45 bệnh nhân đáp ứng đầy đủ
tiêu chuẩn nghiên cứu bao gồm: 19 nữ và 26 nam, tuổi ít nhất là 17 và nhiều nhất là 80. Lý do chụp cắt lớp vi
tính là u tuyến yên 28 bệnh nhân, chấn thương sọ não 9 và u hố sau 8. Xoang bướm phát triển và rộng ở 40 bệnh
nhân (88,89%), xoang bướm nhỏ 3 (6,67%) và không có xoang bướm 2 (4,45%). Trong xoang bướm có 2 vách
ngăn ở 23 bệnh nhân (53,49%), 1 vách ngăn ở 13 (30,23%), 3 vách ngăn ở 6 (13,95%) và 4 vách ngăn ở 1
(2,22%). Vách ngăn xoang bướm xuất phát từ vị trí ấn động mạch cảnh ở 35 trường hợp (81,39%) và xuất phát
từ vị trí khác ở 8 (18,60%). Động mạch cảnh lồi vào trong lòng xoang bướm ở 18 bệnh nhân (41,86%) và trong
đó có 4 trường hợp (9,30%) xương phủ trên động mạch cảnh rất mỏng (động mạch cảnh phơi trần trong xoang
bướm). Dây thần kinh thị giác cũng ấn lồi vào động mạch cảnh ở 3 bệnh nhân (6,98%).
Kết luận: vách xoang bướm thường nằm ngay trên ấn động mạch cảnh, và động mạch cảnh phần lớn lồi
vào trong lòng xoang bướm
5 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 242 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu hình ảnh giải phẫu xoang bướm trên hình ảnh cắt lớp vi tính 64 dãy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 253
NGHIÊN CỨU HÌNH ẢNH GIẢI PHẪU XOANG BƯỚM
TRÊN HÌNH ẢNH CẮT LỚP VI TÍNH 64 DÃY
Đồng Văn Hệ*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả hình dáng, kích thước, vách ngăn, ấn động mạch cảnh, ấn giao thoa thị giác và cấu trúc
xoang bướm trên hình ảnh chụp cắt lớp vi tính 64 dãy.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả tiến cứu dựa trên hình ảnh chụp cắt lớp vi tính 64 dãy xoang bướm ở 45
bệnh nhân. Bệnh nhân được chọn lựa trên 16 tuổi. Hình ảnh xoang bướm được chụp và dựng hình với 3 chiều
cắt ngang, cắt dọc và cắt đứng dọc. Mô tả hình dáng xoang bướm, số lượng vách ngăn, vị trí vách ngăn so với
động mạch cảnh, giao thoa thị giác, niêm mạc xoang, xương sàn hố yên.
Kết quả: Trong thời gian từ 10/2010 tới 8/2012, chúng tôi đã chọn lựa được 45 bệnh nhân đáp ứng đầy đủ
tiêu chuẩn nghiên cứu bao gồm: 19 nữ và 26 nam, tuổi ít nhất là 17 và nhiều nhất là 80. Lý do chụp cắt lớp vi
tính là u tuyến yên 28 bệnh nhân, chấn thương sọ não 9 và u hố sau 8. Xoang bướm phát triển và rộng ở 40 bệnh
nhân (88,89%), xoang bướm nhỏ 3 (6,67%) và không có xoang bướm 2 (4,45%). Trong xoang bướm có 2 vách
ngăn ở 23 bệnh nhân (53,49%), 1 vách ngăn ở 13 (30,23%), 3 vách ngăn ở 6 (13,95%) và 4 vách ngăn ở 1
(2,22%). Vách ngăn xoang bướm xuất phát từ vị trí ấn động mạch cảnh ở 35 trường hợp (81,39%) và xuất phát
từ vị trí khác ở 8 (18,60%). Động mạch cảnh lồi vào trong lòng xoang bướm ở 18 bệnh nhân (41,86%) và trong
đó có 4 trường hợp (9,30%) xương phủ trên động mạch cảnh rất mỏng (động mạch cảnh phơi trần trong xoang
bướm). Dây thần kinh thị giác cũng ấn lồi vào động mạch cảnh ở 3 bệnh nhân (6,98%).
Kết luận: vách xoang bướm thường nằm ngay trên ấn động mạch cảnh, và động mạch cảnh phần lớn lồi
vào trong lòng xoang bướm.
Từ khóa: Xoang bướm, thay đổi, động mạch cảnh trong, dây thần kinh thị giác.
ABSTRACT
ANATOMIC VARIATION OF THE SPHEMOID SINUS ON 64 SLIDES COMPUTED TOMOGRAPHY
Dong Van He * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 4 - 2012: 253 - 257
Objective: To outline the surgically risky anatomic variants of the sphenoid sinus as well as the variable
relationships between the sinus and related neurovascular structures on 64 slides computed tomography.
Methods: We undertook a prospective review of 45 paranasal sinus 64 slides CT scans of above 16 years
patients; axial, sagittal, and coronal CT scans were obtained by special parameter techniques. Description of the
shape sphenoid sinus, the presence or absence of an intersphenoid septum: a single intersinus septum and the
place of its insertion, whether it is in the sellar floor, at the carotid canal, or at the optic canal. The same was done
if there was more than one septum (accessory septum).
Results: we selected 45 patients from 10/2010 to 8/2012, including 19 females, 26 males, range from 17 to
80 years, 28 pituitary adenoma, 9 skull fracture, 8 inferior fossa tumor patients. Sphenoid sinus: wide 40/45 cases
(88.89%), small 3/45 cases (6.67%), and absent 2/45 cases (4.45%). Intersphenoid septum: single 13/45 cases
(30.23%), double 23/45 cases (53.49%), triple 6/45 cases (13.95%), more triple 1/45 case (2.22%). It orgins from
*Khoa Phẫu Thuật Thần Kinh, BV Hữu Nghị Việt Đức.
Tác giả liên lạc: PGS TS Đồng Văn Hệ ĐT: 0903256868 Email: dongvanhe2010@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 254
internal carotid artery 35/45 patients (81.39%), from another places 8/45 patients (18.6%). A protruding internal
carotid artery into the sphenoid sinus was found in 18/45 patients(41.86%), protrusion of the optic nerve was
present in 3/45 patients (6.98%).
Conclusion: Prevalence of protrusion and dehiscence of the internal carotid artery and optic nerve were
high. The internal carotid artery and optic nerve may not be well protected and thus could be damaged during
sphenoid surgery. CT screening should be used in the pre-surgical evaluation of patients under consideration of
endoscopic sphenoid sinus surgery to minimize perioperative neural and vascular injury.
Key words: Sphenoid sinus, variation, internal carotid artery, optic nerve
ĐẶT VẤN ĐỀ
Khi thực hiện phẫu thuật u vùng hố yên với
đường mổ qua xoang bướm, phẫu thuật viên
phải mở xoang bướm, lấy bỏ vách ngăn xoang
bướm, mở sàn hố yên và động mạch cảnh trong,
giao thoa thị giác có thể bị thương tổn tại giai
đoạn này của phẫu thuật. Chính vì vậy, việc xác
định chính xác những mốc giải phẫu quan trọng
trong xoang bướm là rất cần thiết. Phẫu thuật
qua xoang bướm ngày càng được áp dụng
nhiều hơn trong phẫu thuật thần kinh cũng như
phẫu thuật mũi xoang. Trong thời gian qua,
phẫu thuật qua xoang bướm trong điều trị bệnh
u tuyến yên, u vùng tuyến yên được nhiều nơi
áp dụng. Mặc dù phẫu thuật mũi xoang thực
hiện khá thường xuyên, phẫu thuật qua xoang
bướm trong phẫu thuật thần kinh ngày càng
được áp dụng nhiều nhưng còn ít tác giả quan
tâm tới nghiên cứu cấu trúc xoang bướm tại Việt
Nam, trên người Việt Nam. Đánh giá các cấu
trúc giải phẫu xoang bướm và vùng liên quan
trên hình ảnh cộng hưởng từ không thực sự rõ
nét. Hình ảnh vách xoang bướm, ấn động mạch
cảnh và giao thoa thị giác thấy rõ hơn trên phim
chụp cắt lớp vi tính 64 dãy. Chính vì vậy, chúng
tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục đích:
mô tả cấu trúc xoang bướm, vách ngăn, ấn động
mạch cảnh và ấn giao thoa thị giác trên hình ảnh
phim chụp xoang bướm với máy chụp cắt lớp vi
tính 64 dãy.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tiến cứu dựa trên 45 bệnh nhân
được chụp xoang bướm bằng máy chụp cắt lớp
64 dãy tại Bệnh viện Việt Đức từ 8/2010 tới tháng
10/2010. Bệnh nhân tuổi trên 16. Tất cả bệnh
nhân được chụp xoang bướm với 3 bình diện cắt
ngang, cắt đứng ngang và cắt đứng dọc. Nghiên
cứu viên trực tiếp đọc phim, đối chiếu với hình
ảnh cộng hưởng từ và mô tả các thương tổn. Mô
tả hình dáng xoang bướm, kích thước, số lượng
vách ngăn xoang bướm, phân biệt vách ngăn
chính và vách ngăn phụ, ấn động mạch cảnh, ấn
giao thoa thị giác. Vách ngăn chính là vách ngăn
không có bờ tự do, đó là bờ vách xương không
bám vào thành xoang bướm. Vách ngăn phụ là
vách ngăn có ít nhất một bờ tự do, không bám
vào thành xoang bướm. Mô tả vị trí vách ngăn,
chân vách ngăn so với vị trí động mạch cảnh, vị
trí dây thần kinh thị giác và giao thoa thị giác.
Mô tả ấn động mạch cảnh lồi vào trong xoang
bướm hay không, phần xương phủ trên động
mạch cảnh trong mỏng hay dày. Nếu phần
xương phủ trên động mạch cảnh mỏng gọi là
phơi trần động mạch cảnh. Nếu chân vách ngăn
xoang bướm nằm ngay trên vị trí động mạch
cảnh gọi là vách ngăn cỡi lên động mạch cảnh
trong. Nếu chân vách ngăn xoang bướm nằm
ngay trên dây thần kinh thị giác, giao thoa thị
giác gọi là vách ngăn cỡi lên dây thần kinh thị
giác. Sàn hố yên mỏng, bị khối u xâm lấn thủng
gọi là sàn hố yên bị xâm lấn. Tính tỷ lệ các vách
ngăn theo từng loại, từng vị trí trên phim chụp
cắt lớp vi tính 64 dãy. Tính toán dựa vào phần
mềm SPSS 16.0.
KẾT QUẢ
Trong thời gian từ 8/2010 tới 10/2012,
chúng tôi đã lựa chọn được 43 bệnh nhân đáp
ứng đủ tiêu chuẩn nghiên cứu. Bao gồm 19 nữ
(42,22%) và 26 nam (57,78%). Tuổi thấp nhất là
17 và cao nhất là 80. Lý do chụp cắt lớp vi
tính 64 dãy là u tuyến yên ở 26 bệnh nhân,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 255
chấn thương sọ não ở 9 bệnh nhân và u hố
sau ở 8 bệnh nhân. Tất cả 45 bệnh nhân không
có tiền sử viêm mũi xoang, phẫu thuật vùng
mũi xoang hay phẫu thuật vùng hố yên với
phương pháp đi qua xoang bướm.
Kết quả hình ảnh xoang bướm cho thấy
xoang bướm rộng ở 40 bệnh nhân (88,89%),
xoang bướm hẹp ở 3 bệnh nhân và không có
xoang bướm ở 2 bệnh nhân (Hình 1). Cả hai
bệnh nhân không có xoang bướm là hai bệnh
nhân u tuyến yên. Hai bệnh nhân này phải phẫu
thuật bằng đường mổ mở nắp sọ.
Trong xoang bướm có một vách ngăn ở 13
bệnh nhân (chiếm 30,23%), hai vách ngăn ở 23
bệnh nhân (53,49%), 3 vách ngăn ở 6 bệnh nhân
(13,95%) và 4 vách ngăn ở 1 bệnh nhân (2,22%).
Vách ngăn xoang bướm chính xuất hiện ở 38/43
bệnh nhân (88,37%) và vách ngăn phụ xuất hiện
ở 30/43 bệnh nhân (69,78%). Trong đó có 2 bệnh
nhân chỉ có vách ngăn phụ mà không có vách
ngăn chính.
Vị trí vách ngăn mô tả như trong bảng 1.
Vách ngăn xoang bướm xuất phát từ vị trí ấn
động mạch cảnh trong (vách ngăn cỡi lên trên
động mạch cảnh trong) ở 35 trường hợp
(81,39%) và xuất phát từ vị trí khác ở 8 (18,60%).
Động mạch cảnh lồi vào trong lòng xoang bướm
ở 18 bệnh nhân (41,86%) và trong đó có 4 trường
hợp (9,30%) xương phủ trên động mạch cảnh rất
mỏng (động mạch cảnh phơi trần trong xoang
bướm). Phân bố vách ngăn ở 3 nhóm bệnh nhân
được ghi nhận trong bảng 2. Dây thần kinh thị
giác cũng ấn lồi vào động mạch cảnh ở 3 bệnh
nhân (6,98%). Sàn hố yên mỏng ở 21/28 bệnh
nhân u tuyến yên (75%).
Bảng 1: Vị trí vách ngăn xoang bướm:
Đặc điểm Vách ngăn
cỡi lên
ĐMCT
Vách ngăn
ở vị trí
khác
ĐMCT lồi
vào trong
xoang bướm
Phơi
trần
ĐMCT
Số bệnh
nhân
35/43 8/43 18/43 4
Tỷ lệ % 81,39% 18,60% 41,86% 9,30%
ĐMCT-động mạch cảnh trong
Bảng 2: Vị trí vách ngăn liên quan với bệnh chính:
Đặc điểm Vách
ngăn cỡi
lên ĐMCT
Vách ngăn
ở vị trí
khác
ĐMCT lồi
vào trong
xoang
bướm
Phơi
trần
ĐMCT
-Bệnh u tuyến
yên
21 5 17 3
-Chấn thương
sọ não
8 1 1 0
-U hố sau 6 2 0 1
ĐMCT-động mạch cảnh trong.
BÀN LUẬN
Trẻ nhỏ mới sinh chưa có xoang bướm hoặc
chỉ có rất nhỏ. Trong thời gian 10 năm đầu tiên,
xoang bướm phát triển mạnh theo hướng trước
sau và hai bên. Nhưng nó phát triển mạnh nhất
theo hướng trước sau theo hình chữ SS. Sau 10
tuổi, xoang bướm phát triển rất chậm và dừng
lại ở tuổi 14-15 (1,2,8,10). Trước khi xoang bướm
phát triển, động mạch cảnh trong và dây thần
kinh thị giác đã xuất hiện và cố định tại vị trí
giải phẫu của nó, chính vì vậy xoang bướm phát
triển sẽ tạo những khoang rỗng và có thể bao
xung quanh động mạch cảnh trong, dây thần
kinh thị giác. Hay nói cách khác, động mạch
cảnh trong và dây thần kinh thị giác đã ngăn
cản sự phát triển đồng đều về các hướng của
xoang bướm. Chính vì vậy, xoang bướm phát
triển theo thời gian và bao bọc lấy động mạch
cảnh trong, dây thần kinh thị giác. Điều này tạo
nên động mạch cảnh trong lồi vào trong lòng
xoang bướm, dây thần kinh thị giác lồi vào
trong lòng xoang bướm(3,6,11,12). Điều này tạo cho
thành trong xoang bướm lồi lõm. Những lồi lõm
đó có thể là ấn động mạch cảnh trong hay ấn
dây thần kinh thị giác. Trong một số trường
hợp, ngăn cách giữa động mạch cảnh trong hay
dây thần kinh thị giác với lòng xoang bướm chỉ
là một lớp xương mỏng, rất mỏng hay thậm chí
động mạch cảnh trong phơi trần trong xoang
bướm(7).
Động mạch cảnh trong lồi vào trong xoang
bướm là dấu hiệu rất nguy hiểm nếu phẫu thuật
xoang bướm hoặc phẫu thuật tầng trước nền sọ
đi qua xoang bướm (phẫu thuật cắt bỏ u tuyến
yên). Khi động mạch lồi trong xoang, phẫu
thuật viên có thể làm tổn thương động mạch
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 256
trong quá trình phẫu thuật và tai biến này
thường gây tử vong, liệt nửa người (3,5). Khi phân
tích hình ảnh chụp cắt lớp vi tính, 81,39% vách
ngăn xoang bướm cỡi lên trên động mạch cảnh
trong và 41,86% động mạch cảnh trong lồi vào
trong xoang bướm (Bảng 1). Trong số 35 bệnh
nhân vách ngăn cỡi lên động mạch cảnh trong,
15/35=42,86% vách ngăn cỡi lên động mạch cảnh
trong cả hai bên. Nếu như gần một nửa bệnh
nhân có động mạch cảnh trong lồi vào trong
lòng xoang bướm (dễ tổn thương động mạch)
thì 4/5 bệnh nhân có vách ngăn xoang bướm cỡi
lên trên động mạch cảnh trong. Tỷ lệ vách ngăn
xoang bướm cỡi lên động mạch cảnh trong dao
động12-13% trong y văn. Nhưng trong nghiên
cứu của chúng tôi, tỷ lệ đó là trên 80%. Phẫu
thuật cắt bỏ vách ngăn xoang bướm trong quá
trình phẫu thuật rất dễ làm tổn thương động
mạch cảnh trong khi be vách ngăn nằm cỡi lên
trên động mạch (Hình 1). Điều này cho thấy
chúng ta phải xác định chính xác vị trí vách
ngăn trước khi thực hiện phẫu thuật xoang
bướm hay phẫu thuật qua xoang bướm (8,9).
Hình 1: Hình ảnh chụp cắt lớp 64 dãy, cửa số xương. Hình bên trái: hình ảnh động mạch cảnh trong lồi vào
trong xoang bướm ở cả hai bên (mũi tên đen), và hình ảnh vách ngăn xoang bướm cỡi lên động mạch cảnh trong
cả hai bên (hình sao màu trắng). Hình bên phải: hình ảnh ấn dây thần kinh thị giác hai bên lồi vào xoang bướm
(hình mũi tên trắng).
Trong số 18 bệnh nhân có động mạch cảnh
trong lồi vào trong xoang bướm (41,86%), 4
bệnh nhân có động mạch cảnh trong phơi trần
trong xoang. Lớp xương rất mỏng bao phủ động
mạch cảnh trong hầu như không có tác dụng
bảo vệ và động mạch cảnh trong rất dễ bị tổn
thương trong phẫu thuật xoang bướm. Tỷ lệ
động mạch cảnh trong lồi vào xoang bướm rất
dao động 8-72%. Một số tác giả mô tả chính xác
lớp xương phủ lên động mạch cảnh rất mỏng.
Khi nghiên cứu trong vi phẫu thuật, Elwany,
Fujii và cộng sự xác định 66-88% bệnh nhân có
lớp xương bao phủ động mạch cảnh trong dày
0,5-1 mm (3,4).
Ấn dây thần kinh thị giác hay dây thần kinh
thị giác lồi vào trong lòng xoang bướm được ghi
nhận khi một nửa chu vi dây thần kinh thị giác
lồi vào trong (Dessi và cộng sự). Ấn dây thị giác
do xoang bướm phát triển và mỏm yên trước bị
xoang bướm xâm lấn (pneumatization of
anterior clinoid process). Trong số 43 bệnh nhân
của chúng tôi, dây thần kinh thị giác lồi vào
trong lòng xoang bướm ở 3 bệnh nhân (6,98%).
Tỷ lệ này không cao hơn so với 4,1% dây thị
giác lồi vào xoang bướm của Kazkayasi và cộng
sự. Trong y văn, tỷ lệ này rất dao động 6-70,7%.
Lớp xương mỏng che phủ dây thần kinh thị giác
rất mỏng, khoảng 0,28-0,5 mm (Fujii và cộng sự).
Lớp xương che phủ mỏng rất nguy hiểm trong
quá trình phẫu thuật xoang bướm. Khi dây thần
kinh thị giác lồi vào trong lòng xoang bướm,
phẫu thuật xoang bướm hay phẫu thuật nền sọ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu Thuật Thần Kinh 257
bằng đường qua xoang bướm có thể làm tổn
thương dây thần kinh thị và gây mù mắt (3,4,11).
Điều này có thể tránh nếu chúng ta xác định vị
trí lồi vào của dây thần kinh thị trên phim chụp
cắt lớp vi tính xoang bướm.
KẾT LUẬN
Xoang bướm có một số thay đổi giải phẫu
quan trọng vì liên quan tới động mạch cảnh
trong và dây thần kinh thị giác. Những thay đổi
giải phẫu này có thể rất nguy hiểm trong quá
trình phẫu thuật vì nguy cơ chảy máu gây chết
người hoặc mù mắt khi phẫu thuật qua xoang
bướm. Xác định rõ cấu trúc những thay đổi giải
phẫu xoang bướm trước phẫu thuật qua xoang
bằng hình ảnh chụp cắt lớp vi tính rất hữu ích
trong thực hành lâm sàng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Amin S M et al (2010). Endoscopic orientation of the parasellar
region in sphenoid sinus with I11-Defined bony landmarks: an
anatomic study. Skull base, 20, 6: 421-426.
2. Davoodi M et al (2009). Anatomical variation of neurovascular
structures adjacent sphenoid sinus by using CT Scan. Pakistan
Journal of Biological Sciences, 12, 6: 522-525.
3. Elwany S et al (1999). Endoscopic anatomy of the sphenoid
sinus. J Laryngol Otol, 113: 122-126.
4. Fijii K et al (1979). Neurovascular relation-ships of the sphenoid
sinus. A microsurgical study. J Neurosurg, 50: 31-39.
5. Hamid O et al (2008) Anatomic variations of the sphenoid sinus
and their impact on trans-sphenoid pituitary surgery. skull base,
18, 1: 9-11.
6. Hewaidi G H and Omami G M (2008). Anatomic variation of
sphenoid sinus and related structures in Libyan population: CT
Scan Study. Libyan J Med, AOP: 128-133.
7. Kazkayasi M et al (2005). Anatomic variation of the sphemoid
sinus on computed tomography. Rhinology, 43: 109-114.
8. Kinnman J (1977). Surgical aspects of the anatomy of the
sphenoid sinuses and the sella turcica. Journal Anatomy, 124, 3:
541-553.
9. Lindert E J et al (2010). Variation of endonasal anatomy:
relevance for the endoscopic endonasal transsphenoidal
approach. Acta Neurochir, 152: 1015-1020.
10. Sareen D et al (2005). Study of sphenoid sinus anatomy in
relation to endoscopic surgery. Int J Morphol, 23, 3: 261-266.
11. Sirikci A et al (2000). Variation of sphenoid and related
structures. Eur Radiol 10: 844-848.
12. Unlu A et al (2008). Endoscopic anatomy of sphenoid sinus for
pituitary surgery. Clin Anat, 21: 627-632.