Mục tiêu: Nhận diện các yếu tố lâm sàng và cận lâm sàng ảnh hưởng đến việc âm hóa đờm sau giai đoạn
điều trị tấn công ở bệnh nhân lao phổi AFB (+).
Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu tiến cứu. Tất cả bệnh nhân lao phổi
AFB (+) được thu nhận tại khoa Lao Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Yên và Trung tâm y tế dự phòng thành phố
Tuy Hòa từ tháng 5/2012 đến tháng 4/2013. Bệnh nhân được điều trị theo phác đồ 2SRHZ/6HE đối với lao mới
, 2SHRZE/RHZE/5R3H3E3 đối với lao tái trị theo qui định của Chương trình chống Lao quốc gia Việt Nam và
được theo dõi trong giai đoạn điều trị tấn công (2 tháng đối với lao mới và 3 tháng đối với lao tái trị).
Kết quả: Trong 62 bệnh nhân thu nhận vào nghiên cứu, có 54 bệnh nhân (87,1%) ở nhóm lao phổi mới, 8
bệnh nhân (12,9%) nhóm tái trị. Tỉ lệ âm hóa đờm chung sau hai tháng đạt 83,9%, nhóm lao mới đạt 88,9%,
nhóm lao tái trị đạt 50%; sau 3 tháng tỉ lệ âm hóa ở nhóm lao mới đạt 98,15%, nhóm lao tái trị không thay đổi
(50%). Những yếu tố có ảnh hưởng tốt đến tỷ lệ âm hóa đờm: Bệnh nhân tuổi ≤ 40 tuổi [RR = 1,269; CI 95%
(1,039‐1,549); p= 0,04], bệnh nhân được phát hiện sớm trước 4 tuần [RR = 1,097; CI 95% (0,899‐ 1,338), p =
0,497], bệnh nhân lao mới [RR = 1,778; CI 95% (0,883‐3,578), p=0,019], tải lượng vi khuẩn trong đờm trước
điều trị thấp [RR = 1,124; CI 95% (0,980‐1,392), p = 0,490], tăng cân >5% trong 2 tháng đầu điều trị [RR =
0,955 CI 95% (0,767‐1,185), p = 1,00], độ rộng tổn thương độ I và II [RR = 1,156 CI 95% (0,909‐1,469), p =
0,297], không có hang [RR 1,038 CI 95% (0,832‐1,297), p = 0,744].
Kết luận: Tỷ lệ âm hóa đờm sau giai đoạn điều trị tấn công ở nhóm lao phổi AFB dương tính mới cao hơn
nhóm tái trị. Các yếu tố: bệnh nhân tuổi > 40, phát hiện muộn sau 4 tuần , bệnh nhân có tiền sử điều trị lao
trước đây, tải lượng vi khuẩn trong đờm cao trước điều trị, không tăng cân hoặc tăng < 5% sau 2 tháng điều trị,
tổn thương phổi rộng, có hang trên phim XQ ban đầu là những yếu tố liên quan đến sự tồn tại dai dẳng vi
khuẩn trong đờm
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 385 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến âm hóa đờm sau giai đoạn tấn công ở bệnh nhân lao phổi AFB (+), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 50
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ÂM HÓA ĐỜM
SAU GIAI ĐOẠN TẤN CÔNG Ở BỆNH NHÂN LAO PHỔI AFB (+)
Lê Văn Chi*, Dương Bình Phú**, Phan Thế Nguyện**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nhận diện các yếu tố lâm sàng và cận lâm sàng ảnh hưởng đến việc âm hóa đờm sau giai đoạn
điều trị tấn công ở bệnh nhân lao phổi AFB (+).
Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu tiến cứu. Tất cả bệnh nhân lao phổi
AFB (+) được thu nhận tại khoa Lao Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Yên và Trung tâm y tế dự phòng thành phố
Tuy Hòa từ tháng 5/2012 đến tháng 4/2013. Bệnh nhân được điều trị theo phác đồ 2SRHZ/6HE đối với lao mới
, 2SHRZE/RHZE/5R3H3E3 đối với lao tái trị theo qui định của Chương trình chống Lao quốc gia Việt Nam và
được theo dõi trong giai đoạn điều trị tấn công (2 tháng đối với lao mới và 3 tháng đối với lao tái trị).
Kết quả: Trong 62 bệnh nhân thu nhận vào nghiên cứu, có 54 bệnh nhân (87,1%) ở nhóm lao phổi mới, 8
bệnh nhân (12,9%) nhóm tái trị. Tỉ lệ âm hóa đờm chung sau hai tháng đạt 83,9%, nhóm lao mới đạt 88,9%,
nhóm lao tái trị đạt 50%; sau 3 tháng tỉ lệ âm hóa ở nhóm lao mới đạt 98,15%, nhóm lao tái trị không thay đổi
(50%). Những yếu tố có ảnh hưởng tốt đến tỷ lệ âm hóa đờm: Bệnh nhân tuổi ≤ 40 tuổi [RR = 1,269; CI 95%
(1,039‐1,549); p= 0,04], bệnh nhân được phát hiện sớm trước 4 tuần [RR = 1,097; CI 95% (0,899‐ 1,338), p =
0,497], bệnh nhân lao mới [RR = 1,778; CI 95% (0,883‐3,578), p=0,019], tải lượng vi khuẩn trong đờm trước
điều trị thấp [RR = 1,124; CI 95% (0,980‐1,392), p = 0,490], tăng cân >5% trong 2 tháng đầu điều trị [RR =
0,955 CI 95% (0,767‐1,185), p = 1,00], độ rộng tổn thương độ I và II [RR = 1,156 CI 95% (0,909‐1,469), p =
0,297], không có hang [RR 1,038 CI 95% (0,832‐1,297), p = 0,744].
Kết luận: Tỷ lệ âm hóa đờm sau giai đoạn điều trị tấn công ở nhóm lao phổi AFB dương tính mới cao hơn
nhóm tái trị. Các yếu tố: bệnh nhân tuổi > 40, phát hiện muộn sau 4 tuần , bệnh nhân có tiền sử điều trị lao
trước đây, tải lượng vi khuẩn trong đờm cao trước điều trị, không tăng cân hoặc tăng < 5% sau 2 tháng điều trị,
tổn thương phổi rộng, có hang trên phim XQ ban đầu là những yếu tố liên quan đến sự tồn tại dai dẳng vi
khuẩn trong đờm.
Từ khóa: yếu tố nguy cơ, âm hóa đờm, đờm dương tính với lao phổi
ABSTRACT
A STUDY OF FACTORS AFFECTING SPUTUM SMEAR CONVERSION AFTER INTENSIVE PHASE
OF TREATMENT IN PULMONARY TUBERCULOSIS PATIENTS
Le Van Chi, Duong Binh Phu, Phan The Nguyen
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 50 ‐ 55
Objective: Identify clinical and paraclinical factors affecting the sputum smear conversion after intensive
phase of treatment in sputum smear‐ positive pulmonary tuberculosis patients.
Patients and methods: In this prospective study 62 sputum smear positive pulmonary tuberculosis
patients from Department of Tuberculosis, Phu Yen General Hospital and Tuy Hoa Center of Preventive
Medicine were enrolled from June 2012 to April 2013. New cases were treated with 2SRHZ/6HE regimens and
re‐treatment cases with 2SHRZE/ RHZE/5R3H3E3 in accordance with recommendations of. National
* Bộ môn Nội Trường đại học Y Dược Huế, ** Khoa Lao bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Yên
Tác giả liên lạc: BS Dương Bình Phú ĐT: 0905114097 Email: bsphu64_py@yahoo.com.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 51
Tuberculosis Control Program.
Results: Of 62 patients recruited into our study, there were 54 cases in new treatment group and 8 cases in
re‐treatment group. Total sputum smear conversion rate was 83.9% after 2 months of treatment (88.9% in the
first group, 50% in the second); these rates after 3 months were 98.15% and 50%. Factors associated with higher
sputum smear conversion rate were: age < 40 [RR= 1.269; CI 95% (1.039‐1.549); p= 0.04], delay in diagnosis< 4
weeks [RR = 1.097; CI 95% (0.899‐1.338); p = 0.497], new treatment group [RR =1.778; CI 95% (0.883‐3.578),
p=0.019], low sputum bacterial load before treatment [RR= 1.124; CI 95% (0.980‐1.392); p = 0.490], weightgain
>5% after intensive phase of treatment [RR=0.955; CI 95% (0.767‐1.185); p = 1.00], minimum to moderate
advanced lesions on CXR (grade I ‐ II) [(RR= 1.156; CI 95% (0.909‐1.469); p = 0.297], no visible cavity on CXR
[(RR=1.038; CI 95% (0.832‐1.297); p= 0.744]. Mean total delay in diagnosis was 9.03 ± 1.186 weeks (delay due
to physicians was 0.6 ± 0.78 weeks, delay due to patients was 8.84 ± 1.187 weeks).
Conclusion: Factors associated with prolonged existence of bacilli in the sputum were: age > 40, long delay
in diagnosis , previous treatment history, high sputum bacterial load before treatment , no weightgain or
weightgain < 5% after intensive phase, far‐advanced lesions with visible cavities on CXR before treatment.
Key words: risk factor, sputum smear conversion, sputum smear‐positive pulmonary tuberculosi
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo WHO, khoảng 1/3 dân số thế giới đã
nhiễm lao, bệnh lao là nguyên nhân gây tử
vong đứng hàng thứ 2 trong các bệnh nhiễm
trùng. Năm 2010 ước tính của WHO có 8,8
triệu bệnh nhân lao mới, 1,1 triệu người tử
vong trong số bệnh nhân lao không nhiễm
HIV và khoảng 350.000 bệnh nhân đồng nhiễm
Lao/HIV tử vong, lao kháng thuốc xảy ra ở
hầu hết các quốc gia(15).
Theo báo cáo của WHO, Việt nam đứng thứ
12 trong 22 nước có gánh nặng bệnh lao cao trên
toàn cầu. Ước tính nguy cơ nhiễm lao hằng năm
ở Việt Nam là 1,67%; tỉ lệ hiện mắc lao phổi AFB
(+) các thể là 145/100.000 dân, và tỉ lệ hiện mắc
lao phổi AFB (+) mới là 114/100.000 dân(1).
Trong thực tế mặc dù được điều trị cùng
phác đồ nhưng kết quả khác nhau trên từng
bệnh nhân phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Tìm
kiếm 1 yếu tố dự đoán kết quả điều trị là vấn đề
có ý nghĩa lớn trong thực tiễn lâm sàng.
Có nhiều yếu tố nguy cơ để dự đoán kết quả
điều trị kém như: giảm hoặc không tăng cân
trong giai đoạn tấn công(3,7,8,10), cân nặng ban đầu
thấp(11), đờm vẫn còn dương tính sau giai đoạn
tấn công(5,7,9) tải lượng vi khuẩn trong đờm trước
khi điều trị(6,7,12), tổn thương hang trên phim XQ
phổi(12), tiền sử điều trị lao(13). Trong đó yếu tố
AFB đờm vẫn còn dương tính sau giai đoạn tấn
công là yếu tố dự báo mạnh nhất(5,9).
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm
mục tiêu: Đánh giá các yếu tố dự báo kết quả
AFB đờm còn dương tính sau giai đoạn tấn
công.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi thực hiện một nghiên cứu tiến
cứu với các đối tượng là bệnh nhân lao phổi có
AFB đờm (+) được theo dõi, điều trị tại khoa Lao
bệnh viện Tỉnh Phú Yên và Trung tâm y tế dự
phòng thành phố Tuy Hòa. Tổng cộng có 67
bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu, có 5 bệnh
nhân không đưa vào phân tích (3 bị tác dụng
phụ của thuốc, 1 tử vong trong 2 tháng điều trị,
1 mất theo dõi).
Trong số 62 bệnh nhân còn lại chúng tôi chia
thành 2 nhóm: lao mới, và lao tái trị. Lao mới
điều trị theo phác đồ 2SRHZ(E)/6HE, lao tái trị
điều trị theo phác đồ 2SRHZE/RHZE/5R3H3E3,
liều lượng thuốc tính theo cân nặng, sử dụng
viên thuốc hỗn hợp cố định liều do Chương
trình chống Lao quốc gia cung cấp.
Đối với mỗi bệnh nhân, chúng tôi tiến hành:
‐ Lúc vào viện: Ghi nhận về thời gian phát
hiện bệnh, cân nặng, xét nghiệm AFB đờm 3
mẫu liên tiếp trong 3 buổi sáng, chụp XQ phổi.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 52
‐ Sau 2 và 4 tuần điều trị: đánh giá lại
cân nặng.
‐ Sau 8 tuần điều trị: đánh giá lại cân nặng,
xét nghiệm AFB đờm, chụp XQ phổi.
Các biến và định nghĩa
‐ Tuổi: bệnh nhân được phân thành 2 nhóm:
nhóm tuổi ≤ 40 và nhóm tuổi > 40.
‐ Cân nặng: bệnh nhân được cân lúc đói, sử
dụng cân bàn Nhơn Hòa, tính bằng đơn vị Kg.
+ Mức tăng cân được tính theo công thức:
Mức tăng cân (%) = (Cân nặng sau 2 tháng – cân
nặng ban đầu) x 100/cân nặng ban đầu.
+ Phân 2 nhóm: nhóm có tăng cân ≤ 5%,
nhóm tăng cân >5% sau 2 tháng điều trị.
‐ Thời gian trễ (đơn vị tuần) là tổng của hai
thời gian:
+ Trễ do bệnh nhân: từ lúc có triệu chứng
lâm sàng nghi lao (ho > 2 tuần, sụt cân, sốt về
chiều, ho máu) cho đến khi nhập viện.
+ Trễ do thầy thuốc: từ lúc nhập viện đến khi
được điều trị theo phác đồ của Chương trình
chống Lao quốc gia. Nếu dưới 4 ngày tính là 0
tuần, từ 4 ngày đến 7 ngày tính là 1 tuần, từ 7
đến 14 ngày tính 2 tuần. Chúng tôi phân bệnh
nhân thành 2 nhóm: phát hiện sớm khi thời gian
trễ ≤ 4tuần, phát hiện muộn khi trễ >4 tuần.
‐ Phân loại tải lượng vi khuẩn trong đờm:
Dựa vào phân loại của WHO: Dương tính: từ 1‐9
AFB/100 vi trường; (+) từ 10‐99 AFB/100 vi
trường; (++): 1‐10 AFB/1 vi trường; (+++): >10
AFB/1 vi trường. Trong 3 mẫu đàm, chúng tôi
phân loại theo mẫu có số lượng trực khuẩn lao
cao nhất. Chúng tôi phân bệnh nhân thành 2
nhóm: nhóm tải lượng thấp gồm: dương tính và
(+), nhóm tải lượng cao gồm: (++) và (+++).
‐ Phân loai mức độ tổn thương trên phim XQ
dựa.vào phân độ của Hiệp hội Lao Quốc Gia
Hoa kỳ (4) với 3 mức độ: Nhẹ (độ 1), vừa (độ 2),
nặng (độ 3). Chúng tôi chia 2 nhóm: nhóm1 có
tổn thương độ 1 và 2, nhóm 2 có tổn thương độ
3
KẾT QUẢ
Giới
Trong nghiên cứu nam chiếm tỉ lệ 79%, nữ
chiếm 21%. Sau 2 tháng điều trị, tỉ lệ âm hóa
đờm ở nam là 79,6%, ở nữ là 100%. Nam có xu
hướng âm hóa thấp hơn nữ, tuy nhiên sự khác
biệt này không có ý nghĩa thống kê [RR =0,796;
CI (0,691‐0,917), p = 0,103].
Tuổi
Tuổi trung bình là: 47,62 ± 2,54. Trong đó
nhóm tuổi tử 15‐55 chiếm tỷ lệ cao (66,1%).
Bệnh nhân ≤ 40 tuổi chiếm 40,3%; > 40 tuổi
chiếm 59,7%. Tỉ lệ âm hóa đàm sau 2 tháng
điều trị ở nhóm ≤ 40 tuổi là 96%, nhóm > 40
tuổi là 75,7%. Nhóm >40 tuổi ít âm hóa đàm
hơn so với nhóm ≤ 40 tuổi, sự khác biệt này có
ý nghĩa thống kê (p= 0,04).
Nhóm bệnh
Nhóm lao mới có 54 chiếm tỉ lệ 87,1%, nhóm
lao tái trị 8 bệnh nhân chiếm 12,9%. Tỉ lệ âm hóa
sau 2 tháng của nhóm lao mới chiếm 88,9%.
Trong khi đó ở nhóm lao tái trị là 50% (xem
bảng 1). Nhóm lao mới có tỉ lệ âm hóa cao hơn
nhóm lao tái trị có ý nghĩa thống kê (p=0,019).
Bảng 1: Tỉ lệ âm hóa đờm của nhóm bệnh nhân theo
thời gian điều trị
Âm hóa
Nhóm bệnh
Âm hóa sau 8
tuần
Âm hóa sau 12
tuần
N=52 % N= 57 %
Lao mới (54) 48 88,9 53 98,2
Lao tái trị (08) 4 50 4 50
Thời gian trễ
Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian
trễ là: 9,0 ± 1,2 tuần. Trong đó trễ do thầy thuốc
0,6 ± 0,8 tuần, trễ do bệnh nhân 8,4 ± 1,2 tuần.
Nhóm phát hiện sớm có tỉ lệ âm hóa là 90,5% so
với nhóm phát hiện muộn 82,5%, và có xu
hướng âm hóa nhiều hơn.
Tải lượng vi khuẩn
Sự thay đổi tải lượng vi khuẩn trong đờm
theo thời gian điều trị như sau (xem bảng 2):
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 53
Bảng 2: Sự thay đổi tải lượng vi khuẩn theo thời
gian điều trị
Vi khuẩn Ban đầu Sau 2 tháng Sau 3 tháng
N = 62 % N = 62 % N=62 %
Âm tính 0 0 52 83,9 57 91,9
Dương tính 5 8,1 4 6,5 2 3,2
+ 23 37,1 2 3,2 2 3,2
++ 15 24,2 3 4,8 1 1,6
+++ 19 30,6 1 1,6 0 0
Chúng tôi nhận thấy nhóm có tải lượng thấp
có xu hướng âm hóa nhiều hơn so với nhóm có
tải lượng cao, tuy nhiên sự khác biệt này không
có ý nghĩa thống kê [RR= 1,124; CI 95% (0,980‐
1,392), p = 0,49].
Cân nặng
Sự thay đổi cân nặng trong quá trình điều trị
như sau (xem bảng 3).
Bảng 3: Sự thay đổi cân nặng theo thời gian điều trị
Cân nặng(kg)
Nhóm bệnh
Ban đầu Sau 4
tuần
Sau 8
tuần
Sau 12
tuần
Mới 44,58 ±
1,17
46,98 ±
1,18
47,98
±8,94
Tái trị 40,00 ±
2,37
41,25 ±
2,45
41,63 ±
6,43
41,75±
2,10
Chung 43,99 ±
1,07
46,24±
2,04
47,17 ±
1,13
Cân nặng ban đầu của nhóm lao tái trị thấp
hơn nhóm lao mới (44,58 kg so với 40,00kg),
Tăng cân sau 8 tuần là 3,18 ± 0,31 kg, nhóm
lao tái trị tăng cân ít hơn so với nhóm lao mới,
sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,01).
Nhóm tăng cân ≤ 5% có xu hướng âm hóa đờm
ít hơn nhóm tăng cân > 5%.
Tổn thương trên phim XQ
Sự thay đổi trên phim XQ sau 8 tuần điều trị
như sau (xem bảng 6).
Bảng 6: Sự thay đổi tổn thương trên phim XQ sau 8
tuần điều trị
Độ tổn thương
Ban đầu Sau 8 tuần
N = 62 % N=62 %
Độ 1 3 (4,8) 23 (37,1)
Độ 2 33 (53,2) 23 (37,1)
Độ 3 26 (41,9) 16 (25,8)
Hang 28 (45,2) 12 (19,4)
Trong nghiên cứu chúng tôi nhận thấy
nhóm bệnh nhân có tổn thương ban đầu ở
mức độ nhẹ và vừa (độ 1 và độ 2) có xu hướng
âm hóa đàm cao hơn mức độ nặng (độ 3), tuy
nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống
kê [RR = 1,156; CI (0,909 – 1,469), p = 0,297].
Nhóm không có hang có xu hướng âm hóa
đàm cao hơn nhóm có hang, tuy nhiên sự khác
biệt này không có ý nghĩa thống kê [RR =
1,038; 95% CI (0,832‐ 1,297), p = 0,744].
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nam nhiều
hơn nữ (79% so 21%), tuổi trung bình của bệnh
nhân là: 47,62 ± 2,537. Trong đó nhóm tuổi từ 15‐
55 chiếm 66,1%, đây là nhóm ở trong độ tuổi lao
động, điều này cũng phù hợp với các nghiên
cứu khác(1), có lẽ do nam giới trong độ tuổi lao
động, hoạt động và làm việc trong môi trường
rộng.
Trọng lượng cơ thể đã được đề xuất như
một dấu hiệu nhân trắc học thực tế để dự đoán
kết quả điều trị lao(3,7,8,10). Theo dõi cân nặng
trong quá trình điều trị dễ thực hiện và không
tốn kém. Khan và cộng sự trong một nghiên
cứu điều trị thử nghiệm bệnh lao đã có nhận
xét: Những bệnh nhân nhẹ cân lúc chẩn đoán
có tăng cân ≤ 5% trong 2 tháng đầu điều trị thì
có nguy cơ tái phát cao(8). Tương tự Krapp
nhận xét ở những bệnh nhân tăng cân ≤ 5%
(nhưng ở cuối liệu trình) thì nguy cơ điều trị
không thành công(7).
Trong nghiên cứu của chúng tôi cân nặng
trung bình trước điều trị là 43,99 ± 1,07 kg, trong
đó nhóm lao mới 44,58kg± 1,17 kg, lao tái trị
40,00 ± 2,37 kg. Sau 8 tuần điều tri tăng cân
trung bình là 3,18kg, nhóm lao mới tăng 3,4kg,
lao tái trị tăng 1,63kg, khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (p < 0,01). Cân nặng trung bình trước
điều tri của chúng tôi thấp hơn báo cáo của
N,B.Hoa (46,3 kg) và của Peru (54,7kg)(3,10), tương
đương với báo cáo từ nghiên cứu của Ấn Độ
(42kg)(14). Tuy nhiên sau 8 tuần điều trị tăng cân
của chúng tôi là 3,18kg, trong khi đó cuối đợt
điều trị tăng cân ở Ấn Độ là 3,2 kg, ở Peru là
3,3kg(3,14). Điều này cũng phù hợp vì tăng cân
chủ yếu xảy ra trong vòng 2 tháng đầu.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 54
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ âm hóa
đàm sau 2 tháng là 83,9%. Tỉ lệ này tương
đương với nghiên cứu của R Singla (89,9%)(12), và
Aylin Babalik (88,1%)(1). Trong nghiên cứu của
chúng tôi nhóm lao mới âm hóa chiếm 88,9%
(tương đương với tỉ lệ chung trong nước(1) của
Gopi (82,4%)(6) và Aylin Babalik (89,8%)(1). Nhóm
tái trị âm hóa 50%, thấp hơn tỉ lệ chung trong
nước(3), và Aylin Babalik (80,6%)(1). Điều này có
thể do số bệnh nhân điều trị lại trong nghiên
cứu của chúng tôi ít (8 bệnh nhân), cũng có thể
do tình trạng kháng thuốc cao trong nhóm này.
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ âm hóa
đàm sau 8 tuần điều trị ở nhóm lao phổi mới cao
hơn nhóm lao tái trị, khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (p= 0,019).
Trong nghiên cứu của chúng tôi bệnh nhân
ở nhóm tuổi >40 ít âm hóa đàm hơn so với nhóm
≤ 40 tuổi, khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p=
0,04). R. Singla, trong nghiên cứu của mình cũng
có nhận xét: Bệnh nhân từ 41‐60 tuổi có tỉ lệ đờm
dương tính sau 2 tháng gấp 2 lần bệnh nhân từ
21‐40 tuổi và bệnh nhân trên 60 tuổi gấp 6 lần(12).
Tương tự Aylin Babalik cũng có nhận xét, âm
hóa đàm thấp hơn ở nam, và tuổi >40 có ý nghĩa
thống kê(1). Điều này có thể giải thích là do bệnh
nhân lớn tuổi có hệ miễn dịch kém hơn.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho
thấy những bệnh nhân tăng cân ≤ 5% có xu
hướng ít âm hóa đờm hơn so với nhóm tăng
cân >5%
Trong nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy
nhóm có tải lượng vi khuẩn cao trước điều trị có
tỉ lệ âm hóa đàm thấp hơn so với nhóm có tải
lượng vi khuẩn thấp, tuy nhiên sự khác biệt này
không có ý nghĩa thống kê [RR= 1,124; CI 95%
(0,980‐1,392), p = 0,49].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ âm hóa
đàm ở bệnh nhân có tổn thương phổi mức độ
vừa (độ 1+độ 2) là 88,9%, so với 76,9% của mức
độ nặng. Tỉ lệ bệnh nhân có hang trên phim XQ
ban đầu chiếm tỉ lệ 42,5 %, sau 2 tháng điều trị tỉ
lệ hang trên phim XQ còn 19,4%. Bệnh nhân có
tổn thương phổi nhẹ có xu hướng âm hoá đờm
cao hơn nhóm có tổn thương phổi nặng. Bệnh
nhân có hang trên phim XQ ban đầu có xu
hướng âm hóa đàm thấp nhóm bệnh nhân
không có hang.
Thời gian trễ trung bình trong chẩn đoán và
điều trị ở nghiên cứu của chúng tôi là: 9,0 ± 1,2
tuần, trong đó trễ do bệnh nhân: 8,4 ± 1,2 tuần,
chậm trễ do thầy thuốc: 0,6 ± 0,8 tuần, cao hơn
so với nghiên cứu của Nguyen Thi Huong cùng
cộng sự (7,5 tuần)(11).
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy bệnh
nhân phát hiện sớm âm hóa đờm sau 2 tháng
nhiều hơn, so với bệnh nhân phát hiện muộn
(90,5% so với 82,5%).
KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy
những yếu tố như: tuổi >40, bệnh nhân có tiền
sử điều trị lao trước đây là những yếu tố nguy
cơ của âm hóa đờm, sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê. Các yếu tố như: chẩn đoán chậm trễ,
tải lượng vi khuẩn cao trước điều trị, không tăng
cân hoặc tăng < 5% sau 2 tháng điều trị, tổn
thương phổi rộng, có hang trên phim XQ ban
đầu có xu hướng làm chậm âm hóa đờm sau 2
tháng điều trị, tuy nhiên sự khác biệt này không
có ý nghĩa thống kê.
KIẾN NGHỊ
‐ Đối với bệnh nhân không tăng cân hoặc
tăng cân ≤ 5% trong 2 tháng đầu điều trị cần chú
ý bổ sung dinh dưỡng trong quá trình điều trị.
‐ Nhóm lao phổi tái trị có tỉ lệ âm hóa đờm
thấp (50%) cần phải được quan tâm và nên làm
xét nghiệm nhạy cảm thuốc sớm từ ban đầu và
sử dụng phác đồ điều trị phù hợp.
‐ Thời gian chậm trễ còn cao chủ yếu là do
bệnh nhân cần phải tăng cường công tác giáo
dục truyền thông sức khỏe, nâng cao nhận thức
về bệnh lao cho cộng đồng, thay đổi quan niệm
về bệnh lao.
‐ Đối với nhóm bệnh nhân có tải lượng vi
khuẩn cao, tổn thương rộng, có hang trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 55
phim XQ ban đầu, người lớn tuổi cần đặc biệt
quan tâm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Babalik A, Kiziltas Ş, Arda H, et at (2012) Factors affecting
smear conversion in tuberculosis management. Medicine
Science ;1(4):pp: 351‐362 (16)
2. Bộ Y tế (2012). Chương trình chống lao quốc gia, Báo cáo hoạt
động giai đoạn 2007‐2011 và phương hướng 2011‐2015, trang 10‐
14 (3)
3. Bernabe‐Ortiz A, Carcamo CP, Sanchez JF, Rios J. et at, (2011)
Weight Variation over Time and Its Association with
Tuberculosis Treatment Outcome: A L