Nghiên cứu sự thay đổi chỉ số đông máu cơ bản ở thai phụ qua các thai kì

Sự thay đổi về sinh lý sinh hóa trong đó có hệ thống đông cầm máu khi mang thai là phù hợp với sự kích thích và phát triển của thai nhi. Nghiên cứu đặc điểm các chỉ số đông máu ở các thai kì giúp có biện pháp phòng chống chảy máu trong mang thai và khi sinh. Mục tiêu: Nghiên cứu sự thay đổi chỉ số xét nghiệm đông máu cơ bản ở từng quí thai kỳ và mối liên quan giữa những thay đổi đó với tuổi thai. Đối tượng và phương pháp: 2700 thai phụ tại bệnh viện phụ sản Hà Nội từ tháng 5/2012 đến tháng 12/2012; nghiêu cứu cắt ngang, mô tả. Kết quả: Quí 1 mang thai: PT%, rAPTT, nồng độ fibrinogen trung bình là: 101,39%; 0,97; 3,31 g/l. Có 11,56% thai phụ nồng độ fibrinogen > 4 g/l. Quí 2 mang thai: PT%, rAPTT, nồng độ fibrinogen trung bình là: 108,94 %; 0,96; 3,7 g/l. Có 0,67% thai phụ PT% trên 140%; 25,78% thai phụ nồng độ fibrinogen > 4g/l. Quí 3 mang thai: PT%, rAPTT, nồng độ fibrinogen trung bình là: 112,03 %; 0,94; 4,02 g/l. Có 2,33 % thai phụ PT% trên 140%; 52,67 % thai phụ nồng độ fibrinogen trên 4g/l. Tuổi thai càng lớn thì PT% và nồng độ fibrinogen càng tăng và rAPTT rút ngắn nhất ở quí 3 thai kỳ. Kết luận: Gặp một tỉ lệ phụ nữ mang thai bất thường xét nghiệm PT%, rAPTT, fibrinogen. Tuổi thai càng lớn thì tỉ lệ thai phụ bất thường các xét nghiện này càng nhiều.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 377 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu sự thay đổi chỉ số đông máu cơ bản ở thai phụ qua các thai kì, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học  284 NGHIÊN CỨU SỰ THAY ĐỔI CHỈ SỐ ĐÔNG MÁU CƠ BẢN   Ở THAI PHỤ QUA CÁC THAI KÌ  Phạm Quang Vinh*, Nguyễn Huy Bạo**, Nguyễn Tuấn Tùng*, Đỗ Tiến Dũng*  TÓM TẮT  Sự thay đổi về sinh lý sinh hóa trong đó có hệ thống đông cầm máu khi mang thai là phù hợp với sự kích  thích và phát triển của thai nhi. Nghiên cứu đặc điểm các chỉ số đông máu ở các thai kì giúp có biện pháp phòng  chống chảy máu trong mang thai và khi sinh.  Mục tiêu: Nghiên cứu sự thay đổi chỉ số xét nghiệm đông máu cơ bản ở từng quí thai kỳ và mối liên quan  giữa những thay đổi đó với tuổi thai.   Đối  tượng và phương pháp: 2700 thai phụ tại bệnh viện phụ sản Hà Nội từ tháng 5/2012 đến tháng  12/2012; nghiêu cứu cắt ngang, mô tả.   Kết quả: Quí 1 mang thai: PT%, rAPTT, nồng độ fibrinogen trung bình là: 101,39%; 0,97; 3,31 g/l. Có  11,56% thai phụ nồng độ fibrinogen > 4 g/l. Quí 2 mang thai: PT%, rAPTT, nồng độ fibrinogen trung bình là:  108,94 %; 0,96; 3,7 g/l. Có 0,67% thai phụ PT% trên 140%; 25,78% thai phụ nồng độ fibrinogen > 4g/l. Quí 3  mang thai: PT%, rAPTT, nồng độ fibrinogen trung bình là: 112,03 %; 0,94; 4,02 g/l. Có 2,33 % thai phụ PT%  trên 140%; 52,67 % thai phụ nồng độ fibrinogen trên 4g/l. Tuổi thai càng lớn thì PT% và nồng độ fibrinogen  càng tăng và rAPTT rút ngắn nhất ở quí 3 thai kỳ.   Kết luận: Gặp một tỉ lệ phụ nữ mang thai bất thường xét nghiệm PT%, rAPTT, fibrinogen. Tuổi thai càng  lớn thì tỉ lệ thai phụ bất thường các xét nghiện này càng nhiều.  Từ khóa: Đông máu cơ bản, các thai kì, tuổi thai  ABSTRACT  STUDY ON CHANGES OF SOME COAGULATION TESTING IN PREGNANCY  Pham Quang Vinh, Nguyen Huy Bao, Nguyen Tuan Tung, Do Tien Dung   * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 5 ‐ 2013: 284 ‐ 290  Changes  in physiological, biochemical,  including  the  system of coagulation during pregnancy  is  consistent with  the  stimulation  and development  of  the  fetus. Study  on  some  coagulation  testing  in  pregnancy, which helps prevention measures bleeding during pregnancy and childbirth.   Objective: To study the changes in some coagulation tests in each quarter of the pregnancy and  the relationship between these changes with gestational age.  Subjects and Methods: 2700 pregnant women at Hanoi maternity hospital from January 5/2012  of May 12/2012; studies have cross‐sectional, descriptive.   Results:  first  quarter  pregnancy:  PT%,  rAPTT,  fibrinogen  concentrations  average:  101.39%;  0.97;  3.31  g/l.  There  are  11.56%  of  pregnant  women  with  fibrinogen  levels  >  4  g/l.  2nd  quarter  pregnancy: PT%,  rAPTT,  average  fibrinogen  levels:  108.94%;  0.96;  3.7  g/l. There  are  0.67%  and  25.78%  of pregnant women with PT% > 140%  and  fibrinogen  concentrations > 4 g/l. 3rd quarter  * Bệnh viện Bạch Mai  ** Bệnh viện Phụ sản Hà Nội  Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Tuấn Tùng   ĐT: 0912 110 905   Email: tunghhbm@yahoo.com  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học  285 pregnancy: PT%,  rAPTT,  average  fibrinogen  levels: 112.03%; 0.94; 4.02 g/l. There  are 2.33%  and  52.67%  of  pregnant women with  PT%  >140%  and  fibrinogen  concentration  >  4  g/l.  The  greater  gestational age, the more increased PT% and concentrations of fibrinogen. 3rd quarter pregnancy is the  shortest rAPTT.   Conclusion: There are abnormal PT%, rAPTT, fibrinogen in some pregnant women. The greater  gestational age, the more increased proportion of women with abnormal those tests.  Keywords: Coagulation testing, pregnancy, gestational age.  ĐẶT VẤN ĐỀ  Mang  thai  là hiện  tượng  sinh  lý  của người  phụ nữ trong lứa tuổi sinh sản. Nhằm mục đích  đáp ứng với kích  thích sinh  lý do sự xuất hiện  của  thai,  phần  phụ  của  thai  và  tạo  một  môi  trường thuận lợi cho sự phát triển của thai nhi,  các  cơ  quan  trong  cơ  thể người mẹ  đều  có  sự  thay đổi về giải phẫu, sinh lý, sinh hoá, trong đó  có hệ  thống các  tế bào máu và đông máu. Tuy  nhiên, những biến đổi này đôi khi vượt quá giới  hạn  bình  thường  hoặc diễn  biến một  cách  bất  thường gây ra tác động có hại cho sức khoẻ của  thai phụ cũng như thai nhi(3).  Chảy máu có thể xảy ra vào bất kỳ thời điểm  nào:  trước,  trong và sau đẻ. Đây có  thể  là  triệu  chứng của một số bệnh lý sản khoa nhưng cũng  có  thể  là  dấu  hiệu  cảnh  báo  tình  trạng  bất  thường  của  hệ  thống  đông máu  trong  cơ  thể  người mẹ. Chảy máu  kéo  dài  trong  quá  trình  mang  thai  có  thể  gây  thiếu máu mẹ,  thai  nhi  chậm phát triển, có thể là nguyên nhân gây tăng  tỷ lệ thai chết lưu, sảy thai, trẻ sơ sinh non yếu,  là một gánh nặng cho gia đình và xã hội. Thậm  chí có những rối loạn đông máu chỉ thực sự gây  triệu  chứng  chảy  máu  dữ  dội  và  nhanh  khi  chuyển  dạ  và  sau  đẻ,  là một  trong  những  tai  biến  sản  khoa  gặp  hàng  đầu  để  lại  hậu  quả  nghiêm trọng như tử vong mẹ, suy thai, suy hô  hấp sơ sinh. Chính vì vậy, việc phát hiện được  sớm  và  đúng  những  trường  hợp  bất  thường  đông máu có nguy  cơ  chảy máu  trong  thời kỳ  mang  thai  là  rất  quan  trọng  để  đảm  bảo  cho  người phụ nữ có một thai kỳ khoẻ mạnh. Tránh  trường hợp bỏ sót hoặc lại được xử trí khi chưa  thực sự cần thiết gây hậu quả đáng tiếc(3,7,8).  Trên  thế  giới  đã  có  các  nghiên  cứu  về  sự  thay đổi đông máu ở phụ nữ mang thai như Liu  XH,  Jiang YM, Shi H và cộng sự  (2009) nghiên  cứu  232  sản phụ  có kết quả PTs,  INR, APTTs,  rAPTT  giảm,  SLTC  giảm  dần  trong  thời  kỳ  mang  thai(6). Ở Việt Nam  đã  có một  số nghiên  cứu  về  đông  máu  ở  phụ  nữ  mang  thai  như  nghiên  cứu  của  Đoàn  Thị  Bé  Hùng  (2007),  Hoàng Hương Huyền  (  2010),  Phan  Thị Minh  Ngọc (2011)(3,5,9). Nhưng những nghiên cứu này  chưa hệ thống được sự thay đổi của một số xét  nghiệm đông máu qua  từng  thời kì mang  thai.  Vì vậy,  để góp phần vào việc  tìm hiểu về  tình  trạng đông máu ở phụ nữ mang thai, chúng tôi  tiến hành nghiên cứu đề tài này với hai mục tiêu  sau:  ‐ Nghiên cứu một số đặc điểm xét nghiệm đông  máu cơ bản ở từng thời kì mang thai.  ‐ Tìm hiểu mối liên quan giữa sự thay xét nghiện  đông máu cơ bản với tuổi thai.   ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Đối tượng nghiên cứu  Nhóm thai phụ  Gồm 2700 phụ nữ mang  thai,  trong đó 900  phụ  nữ mang  thai  3  tháng  đầu,  900  phụ  nữ  mang thai 3 tháng giữa và 900 phụ nữ mang thai  3 tháng cuối đến khám tại Bệnh viện Phụ sản Hà  Nội từ tháng 5 năm 2011 đến tháng 11 năm 2012  đủ tiểu chuẩn nghiên cứu.   Được chẩn đoán xác định là có thai bằng các  phương pháp  lâm  sàng và  siêu âm: nhớ  chính  xác  ngày  đầu  chu  kỳ  kinh  cuối  hoặc  tuổi  thai  được khẳng định bằng kết quả siêu âm lần đầu  trong  quý  1  thai  kỳ  khi  không  nhớ  chính  xác  ngày đầu kỳ kinh cuối.   Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học  286 Tiêu chuẩn phân chia tuổi thai(1)  Quý  1  (3  tháng  đầu):  tuần  đầu  tiên  ‐  hết  tuần 13. Quý 2 (3 tháng giữa): tuần thứ 14 đến  hết tuần 27. Quý 3 (3 tháng cuối): từ tuần thứ  28 trở lên.  Tiêu chuẩn loại trừ  Loại trừ khỏi nhóm nghiên cứu các thai phụ:  có các bệnh lý liên quan đến rối loạn đông cầm  máu bẩm sinh, những thai phụ đang điều đang  điều trị các thuốc ảnh hưởng đến quá trình đông  cầm máu.   Nhóm chứng  Gồm  45  phụ  nữ  bình  thường  khoẻ mạnh  trong  lứa  tuổi sinh đẻ có độ  tuổi  tương đương  với nhóm nghiên cứu.  Phương pháp nghiên cứu  Thiết kế nghiên cứu   Sử dụng phương pháp nghiên cứu tiến cứu,  mô tả cắt ngang có đối chứng. Mỗi thai phụ có  một phiếu nghiên cứu theo mẫu thống nhất.  Các thông số nghiên cứu  Thông  tin chung: Tuổi mẹ,  tuổi  thai,  thứ  tự  lần sinh, bệnh lý mẹ.  Thông số đông máu: Các chỉ số xét nghiệm  đông máu cơ bản (APTT, PT và fibrinogen).  Vật liệu nghiên cứu: 2ml máu tĩnh mạch khi  bệnh nhân  chưa  ăn  sáng và  cách bữa  tối hôm  trước ít nhất 12 giờ.  Các kỹ thuật xét nghiệm và tiêu chuẩn đánh  giá  Các kỹ thuật xét nghiệm được thực hiện theo  quy  trình  đang  được  áp dụng  tại Khoa Huyết  học‐Truyền máu  Bệnh  viện  Bạch Mai. Các  xét  nghiệm  đông máu  cơ  bản  (ĐMCB)  PT, APTT,  định  lượng fibrinogen:  thực hiện  trên máy CA‐ 1500 và hóa chất của hãng Sysmex Nhật Bản.  ‐ PT %: bình thường 70‐140%.  ‐ APTT: Bình thường 26 đến 36 giây, rAPTT  bình thường 0,8‐1,2.   ‐ Nồng độ fibrinogen: bình thường 2‐4g/l.  KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU  Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu  Qua  nghiên  cứu  2700  thai  phụ,  tuổi  trung  bình là 27,615,22. Chủ yếu mang thai lần 1 và 2  (42,52% và 38,33%), mang thai lần 3 và trên 3 lần  chỉ chiếm 11,11% và 8,04%.   Đặc điểm đông máu cơ bản ở từng thời kỳ  mang thai   Đặc  điểm  đông máu  cơ  bản  của  thai  phụ  3  tháng đầu:  Qua  nghiên  cứu  900  thai  phụ  có  tuổi  thai  dưới  14  tuần  đến  khám  thai  định  kỳ  tại Bệnh  viện Phụ Sản Hà Nội  từ  tháng 3  đến  tháng 12  năm 2012, chúng tôi thu được kết quả như sau:  Bảng 1. So sánh kết quả xét nghiệm ĐMCB của  nhóm thai phụ ba tháng đầu với nhóm chứng  Nhóm Chỉ số Nhóm thai phụ (n=900) Nhóm chứng (n=45) p SDx  SDx  APTT (s) 27,68 ± 2,18 28,18 ± 1,63 >0,05 rAPTT 0,97 ± 0,07 1,04 ± 0,06 >0,05 PT (s) 11,56 ± 0,71 11,62 ± 0,52 >0,05 PT (%) 101,39 ± 12,32 100,37 ± 9,35 >0,05 Fibrinogen (g/l) 3,31 ± 0,58 2,75 ± 0,38 < 0,001 Nhận  xét:  từ  bảng  1  cho  chúng  tôi  thấy  lượng  fibrinogen  trung  bình  của  nhóm  thai  phụ  là 3,31g/l cao hơn có ý nghĩa  thống kê so  với nhóm chứng với p<0,001.  Bảng 2. Tỷ lệ thai phụ 3 tháng đầu có xét nghiệm  ĐMCB bất thường  Xét nghiệm Bình thường Tăng Giảm n % n % n % PT% 894 99,33 4 0,44 2 0,22 rAPTT 892 99,11 6 0,67 2 0,22 Fibrinogen (g/l) 791 87,88 104 11,56 5 0,56 Nhận  xét:  từ  bảng  2  cho  thấy  PT%  (tỷ  lệ  prothrombin) tăng >140% có 4/900 trường hợp  chiếm 0,44%. Lượng fibrinogen tăng trên 4 g/l  có 104/900 trường hợp chiếm 11,56%.  Đặc  điểm  đông máu  cơ  bản  của  thai  phụ  3  tháng giữa  Nghiên cứu 900  thai phụ có  tuổi  thai  từ 14  tuần đến dưới 28  tuần, chúng  tôi  thu được kết  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học  287 quả như sau:  Bảng 3. So sánh kết quả xét nghiệm ĐMCB của  nhóm thai phụ ba tháng giữa với nhóm chứng  Nhóm Chỉ số Nhóm thai phụ (n=900) Nhóm chứng (n=45) p SDx  SDx  APTT (s) 27,27 ± 2,12 28,18 ± 1,63 >0,05 rAPTT 0,96 ± 0,34 1,04 ± 0,06 >0,05 PT (s) 11,18 ± 0,64 11,62 ± 0,52 >0,05 PT (%) 108,94 ± 12,59 100,37 ± 9,35 <0,01 Fibrinogen (g/l) 3,70 ± 0,48 2,75 ± 0,38 < 0,001 Nhận  xét:  từ  bảng  3  cho  thấy  lượng  fibrinogen  trung  bình  của  nhóm  thai  phụ  3  tháng giữa là 3,70g/l cao hơn nhóm chứng với  p<0,001.  Bảng 4. Tỷ lệ thai phụ 3 tháng giữa có xét nghiệm  ĐMCB bất thường   Xét nghiệm Bình thường Tăng Giảm n % n % n % PT (%) 893 99,22 6 0,67 1 0,11 rAPTT 891 99,00 6 0,67 3 0,33 Fibrinogen (g/l) 666 74,00 232 25,78 2 0,22 Nhận  xét:  từ  bảng  4  cho  thấy  có  6/900  chiếm 0,67%  thai phụ 3  tháng giữa có  tăng  tỷ  lệ  prothrombin  >140%.  Có  232/900  chiếm  25,78%  thai  phụ  3  tháng  giữa  có  tăng  lượng  fibrinogen > 4g/l.  Đặc  điểm  đông máu  cơ  bản  của  thai  phụ  3  tháng cuối  Nghiên  cứu  900  thai phụ  có  tuổi  thai  ≥  28  tuần, chúng tôi thu được kết quả như sau:  Bảng 5. So sánh kết quả xét nghiệm ĐMCB của  nhóm thai phụ ba tháng cuối với nhóm chứng  Nhóm Chỉ số Nhóm thai phụ (n=900) Nhóm chứng (n=45) p SDx  SDx  APTT (s) 27,07 ± 2,13 28,18 ± 1,63 >0,05 rAPTT 0,94 ± 0,07 1,04 ± 0,06 >0,05 PT (s) 11,07 ± 0,65 11,62 ± 0,52 <0,01 PT (%) 112,02 ± 13,30 100,37 ± 9,35 <0,01 Fibrinogen (g/l) 4,02 ± 0,44 2,75 ± 0,38 < 0,001 Nhận xét:  từ bảng 5 chúng  tôi  thấy  lượng  fibrinogen  trung  bình  của  nhóm  thai  phụ  là  4,02g/l cao hơn nhóm chứng rõ rệt với p<0,001.  Bảng 6. Tỷ lệ thai phụ ba tháng cuối có xét nghiệm  ĐMCB bất thường  Xét nghiệm Bình thường Tăng Giảm n % n % n % PT (%) 878 97,56 21 2,33 1 0,11 rAPTT 880 97,78 10 1,11 10 1,11 Fibrinogen (g/l) 424 47,21 474 52,67 2 0,12 Nhận  xét:  từ  bảng  6  cho  thấy  lượng  fibrinogen  tăng nhiều  trong nhóm  thai phụ 3  tháng cuối là 474/900 chiếm 52,67%.  Thay  đổi  xét  nghiệm  đông máu máu  cơ  bản theo tuổi thai  Bảng 7: So sánh kết quả xét nghiệm đông máu cơ bản  theo tuổi thai  Quý 1 Quý 2 Quý 3 p PT (%) 101,39 ± 12,32 108,94 ± 12,59 112,02 ± 13,30 p1-2; p1-3; p2-3 < 0,01 rAPTT 0,97 ± 0,07 0,96 ± 0,34 0,94 ± 0,07 p1-2 > 0,05; p1-3 ; p2-3 < 0,01 Fibrinogen (g/l) 3,31 ± 0,58 3,70 ± 0,48 4,02 ± 0,44 p1-2; p1-3 < 0,01 p2-3 > 0,05 Nhận  xét:  bảng  7  cho  thấy  tỷ  lệ  prothrombin,  nồng  độ  fibrinogen  tăng  dần  theo  tuổi  thai và  tăng cao nhất vào quý 3 của  thai  kì,  rAPTT  rút  ngắn  nhất  vào  quý  3  của  thai kì.   Bảng 8. So sánh tỷ lệ xét nghiệm ĐMCB bất thường  theo tuổi thai  Xét nghiệm Bình thường Tăng Giảm Q1 Q2 Q3 Q1 Q2 Q3 Q1 Q2 Q3 PT% 894 893 878 4 6 21 2 1 1 rAPTT 892 891 880 6 6 10 2 3 10 Fibrinogen (g/l) 791 666 424 104 232 474 5 2 2 Nhận  xét: bảng  8  cho  thấy  tuổi  thai  càng  cao  thì  số  thai  phụ  có  PT%  và  nồng  độ  fibrinogen  tăng càng nhiều: PT% quí 1, quí 2,  quí 3  lần  lượt  là: 4, 6, 21  thai phụ; Fibrinogen  lần lượt là: 104, 232, 474. Số thai phụ có rAPTT  rút ngắn nhiều nhất ở quí 3 thai kì: 10 thai phụ  so với 2 thai phụ quí 1 và 3 thai phụ quý 2.  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học  288 BÀN LUẬN  Đặc điểm đông máu cơ bản ở từng thời kì  mang thai  Đặc điểm đông máu cơ bản ở quý 1 mang thai  Các  chỉ  số  xét  nghiệm  đông  máu  cơ  bản  (PT%, APTT và Fibrinogen) đánh giá vòng đầu  của quá  trình  đông máu,  rất cần  thiết  theo dõi  trong quá trình mang thai. Qua nghiên cứu 900  thai phụ mang thai quý 1, kết quả bảng 1 và 3.2  chúng  tôi  thấy  giá  trị  trung  bình  của  PT  %,  APTT  và  Fibrinogen  đều  nằm  trong  giới  hạn  bình thường. Khi so với nhóm chứng chúng tôi  thấy  nồng  độ  fibrinogen  cao  hơn  có  ý  nghĩa  thống kê, PT% và rAPTT thấp hơn nhưng không  có  ý  nghĩa  thống  kê.  Khi  phân  tích  tỉ  lệ  bất  thường trong các xét nghiệm này chúng tôi thấy  PT%, rAPTT và nồng độ fibrinogen giảm chiếm  0,22%; 0,22 và 0,56%. PT%,  rAPTT và nồng  độ  fibrinogen  tăng  chiếm  0,44%;  0,67  và  11,56%.  Như vậy, ở 3 tháng đầu mang thai có su hướng  tăng  đông  cả hai  con  đường ngoại  sinh và nội  sinh nhưng chưa rõ rệt. Kết quả nghiên cứu của  Phan Thị Minh Ngọc và CS (2011) ở 77 thai phụ  mang  thai  3  tháng  đầu  cũng  cho  thấy  có  su  hướng  tăng  đông:  rAPTT  rút  ngắn,  nồng  độ  fibrinogen tăng so với chứng(9).  Đặc điểm đông máu cơ bản ở quý 2 mang thai  Nghiên cứu chỉ số xét nghiệm PT %, APTT  và  Fibrinogen  ở  thại  phụ  mang  thai  3  tháng  giữa, kết quả bảng 3 và 3.4 cho  thấy xu hướng  tăng đông rõ rệt hơn so với ở thai phụ mang thai  3 tháng đầu: PT% và fibrinogen (108,94% và 3,7  g/l) cao hơn rõ rệt so với nhóm chứng (100,37%  và 2,75 g/l); rAPTT (0,96) rút ngắn so với nhóm  chứng (1,04) nhưng chưa rõ rệt. Khi phân tích tỉ  lệ bất thường các xét nghiệm này chúng tôi thấy  sự  tăng đông này  rõ  rệt hơn: PT% và nồng độ  fibrinogen tăng chiếm tỉ lệ 0,67% và 25,78%. Tuy  nhiên  chúng  tôi gặp  0,67%  thai phụ  có  rAPTT  tăng. Như  vậy  thai  phụ mang  thai  ở  3  tháng  giữa có  tăng hoạt hóa đông máu ngoại sinh và  tăng  nồng  độ  fibrinogen  rõ  rệt,  tăng  hoạt  hóa  đông máu nội sinh nhưng chưa rõ rệt.  Đặc điểm đông máu cơ bản ở quý 3 mang thai  Nghiên  cứu kết quả  các  xét nghiệm PT %,  APTT  và  Fibrinogen  ở  thai  phụ mang  thai  3  tháng  cuối,  kết  quả  bảng  5  và  6  cho  thấy  xu  hướng  tăng  đông  rõ  rệt  con  đường  đông máu  ngoại sinh: PT% (112,02%) cao hơn so với nhóm  chứng (100,37%), nồng độ fibrinogen  là 4,02 g/l  cao  hơn  rõ  rệt  so  với  nhóm  chứng  (2,75  g/l).  rAPTT (0,94) rút ngắn so với nhóm chứng (1,04)  nhưng  chưa  rõ  rệt.  Nghiên  cứu  của  tác  giả  Hoàng Hương Huyền  (2010)  ở  571  thai  phụ  3  tháng cuối cũng cho thấy PT%, fibrinogen tăng,  rAPTT  rút ngắn(5). Tác giả Uchikova  (2004) khi  nghiên cứu trên 35 phụ nữ mang thai từ tuần 35  đến  tuần  40  có nồng  độ  fibrinogen  trung bình  cao  hơn  nhóm  chứng  gồm  35  phụ  nữ  khoẻ  mạnh không mang thai(11).  Khi phân tích tỉ lệ bất thường các xét nghiệm  này chúng tôi thấy tỉ lệ bệnh nhân có giá trị PT%  và nồng  độ  fibrinogen cao hơn bình  thường  là  2,33% và 52,67%. Kết quả này càng  thể hiện rõ  sự  tăng  hoạt  hóa  đông máu  ngoại  sinh  ở  thai  phụ mang thai 3 tháng cuối. Đông máu nội sinh  có tăng hoạt hóa nhưng kết quả bảng 6 cho thấy  vẫn gặp 1,11% thai phụ có rAPTT tăng tức là có  1,11% bệnh nhân có APTT kéo dài.  Mối  liên  quan  giữa  sự  thay  xét  nghiện  đông máu cơ bản với tuổi thai  Nghiên cứu mối liên quan giữa thay đổi xét  nghiệm  đông máu  cơ  bản  của  thai  phụ  trong  quá  trình  mang  thai  sẽ  góp  phần  hiểu  thêm  được xu hướng thay đổi đông máu của thai phụ,  từ  đó  có  biện  pháp  đề  phòng  trong  quá  trình  sinh đẻ.  Kết quả bảng 7 và 8 cho thấy PT% tăng dần  theo  tuổi  thai  có ý nghĩa  thống kê  (PT%  trung  bình  quí  1,  quí  2,  quí  3  lần  lượt  là  101,39%;  108,94%;  112,02%),  nghĩa  là  tuổi  thai  càng  lớn  PT% càng  tăng. Như vậy  tuổi  thai càng  lớn  thì  sự hoạt hóa  đường  đông máu ngoại  sinh  càng  tăng. PT%  thể hiện khái quát  con  đường  đông  máu ngoại  sinh, vì vậy  để  tìm hiểu  rõ hơn  sự  tăng hoạt hóa đông máu ngoại sinh là do yếu tố  nào cần được nghiên cứu sâu hơn về các yếu tố  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học  289 đông máu  thuộc  đường  đông máu ngoại  sinh.  Tương tự, trong nghiên cứu này chúng tôi thấy  rAPTT giảm rõ rệt ở quí 3 thai kỳ so với hai quí  còn  lại  (quí  3:  0,94  so với quí  1:  0,97 và quí  2:  0,96). Nghiên cứu của Liu XH và CS (2009) về sự  thay  đổi  chỉ  số một  số  xét  nghiệm  đông máu  trên 232 thai phụ cho thấy có sự rút ngắn rAPTT  có  ý  nghĩa  thống  kê  so  với  nhóm  chứng(6).  Nghiên  cứu  này  cũng  cho  thấy  nồng  độ  fibrinogen  tăng  theo  tuổi  thai:  nồng  độ  fibrinogen  trung  bình  của  thai  phụ mang  thai  quí 1, quí 2, quí 3 lần lượt là: 3,31 g/l, 3,7 g/l, 4,02  g/l. Nghiên cứu của Federico Cerneca và cộng sự  nhận  thấy nồng  độ  fibrinogen bắt  đầu  tăng  từ  tuần  thứ  10  của  thai  kỳ(2). Như  vậy  trong  quá  trình mang thai khi tuổi thai càng lớn thì không  chỉ tăng hoạt hóa đông máu ngoại sinh mà còn  tăng hoạt hóa của cả đông máu nội sinh và con  đường chung.   Kết quả bảng 8 cho  thấy số  lượng  thai phụ  có  PT%  và  nồng  độ  fibrinogen  cao  hơn  bình  thường  tăng dần  theo  tuổi  thai:  số  thai phụ  có  PT% cao ở quí 1, quí 2, quí 3 lần lượt là: 2, 6, 21;  số  thai phụ có nồng độ  fibrinogen cao  ở quí 1,  quí 2, quí 3  lần  lượt  là: 104, 232, 474. Tỉ  lệ  thai  phụ có rAPTT rút ngắn nhiều nhất ở quí 3 thai  kì so với 2 quí còn lại (10 thai phụ so với 2 thai  phụ quí 1 và 3  thai phụ quý 2). Đây  là những  thai phụ cần  được  theo dõi và nghiên cứu  sâu  hơn nữa để tìm hiểu sự thay đổi của các yếu tố  đông máu trong quá trình mang thai.  Như vậy, qua nghiên cứu xét nghiệm đông  máu cơ bản, đánh giá  tỷ  lệ của các xét nghiệm  này  trên  toàn  thai  kỳ  cũng  như  từng  quý  với  nhau, chúng tôi nhận thấy có một tỷ lệ nhất định  sản phụ  tăng PT%, giảm  rAPTT,  tăng nồng độ  fibrinogen. Tuổi  thai  càng  lớn  thì  tỉ  lệ  các  thai  phụ có các xét nghiện PT% tăn