Nghiên cứu tác động của cạnh tranh đến sự ổn định ngân hàng bằng phương pháp hồi quy dữ liệu
bảng được thực hiện trên bộ dữ liệu 25 ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam giai đoạn 2006
– 2016. Kết quả cho thấy cạnh tranh có mối tương quan dương với sự ổn định ngân hàng. Ngoài
ra, nghiên cứu cũng tìm thấy các yếu tố: dư nợ tín dụng, vốn huy động, quy mô ngân hàng, tốc độ
tăng trưởng kinh kế và lạm phát cũng ảnh hưởng đến sự ổn định của hệ thống NHTM Việt Nam.
Thông qua đó, nghiên cứu gợi ý chính sách cho các nhà hoạch định chính sách và quản trị ngân
hàng nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh để giúp cho hoạt động kinh doanh của các NHTM
ngày càng ổn định hơn trong thời gian tới.
11 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 557 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tác động của cạnh tranh đến sự ổn định của các ngân hàng thương mại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 44, 04/2018
1
NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA CẠNH TRANH
ĐẾN SỰ ỔN ĐỊNH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM
THE IMPACT OF COMPETITION ON STABILITY OF
COMMERCIAL BANKS IN VIETNAM
Trầm Thị Xuân Hương1, Nguyễn Từ Nhu2
Ngày nhận: 12/3/2018 Ngày nhận bản sửa: 28/3/2018 Ngày đăng: 5/4/2018
Tóm tắt
Nghiên cứu tác động của cạnh tranh đến sự ổn định ngân hàng bằng phương pháp hồi quy dữ liệu
bảng được thực hiện trên bộ dữ liệu 25 ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam giai đoạn 2006
– 2016. Kết quả cho thấy cạnh tranh có mối tương quan dương với sự ổn định ngân hàng. Ngoài
ra, nghiên cứu cũng tìm thấy các yếu tố: dư nợ tín dụng, vốn huy động, quy mô ngân hàng, tốc độ
tăng trưởng kinh kế và lạm phát cũng ảnh hưởng đến sự ổn định của hệ thống NHTM Việt Nam.
Thông qua đó, nghiên cứu gợi ý chính sách cho các nhà hoạch định chính sách và quản trị ngân
hàng nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh để giúp cho hoạt động kinh doanh của các NHTM
ngày càng ổn định hơn trong thời gian tới.
Từ khóa: Cạnh tranh, hiệu quả kinh doanh, ổn định ngân hàng.
Abstract
This paper investagates impact of competition on bank stability through regression method with
data of 25 commercial banks in Vietnam covering the period from 2006 to 2016. Its results show
that there is a positive relationship betwwen them. In addition, the paper finds that factors affect
the stability of banks such as credit balance, deposits, bank size, economic growth rate and
inflation. At the end of our analysis, we provides useful suggestions for managers and
policymakers to strengthen banks’ competitiveness helped to improve the stability of the
Vietnamese commercial banking system in the next time.
Keyword: Competition, effective performance, bank stability.
1. Giới thiệu
Đứng trước thách thức hội nhập, hầu hết các
quốc gia trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh
là môi trường tạo động lực thúc đẩy kinh tế phát
triển. Kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ rất nhạy
cảm, chịu tác động bởi các yếu tố về kinh tế,
chính trị, xã hội, tâm lý, Các NHTM sử dụng
1 Trường Đại Học Kinh Tế.TP.HCM, email: txhuong@ueh.edu.vn
2 Trường Đại Học Kinh Tế.TP.HCM, email: nhunt@ueh.edu.vn
cạnh tranh như là chiến lược để mở rộng thị
trường, thu hút khách hàng, gia tăng thị phần,
nâng cao chất lượng sản phẩm giúp cho hệ
thống ngày càng ổn định và phát triển hơn.
Tùy theo thế mạnh và nguồn lực hiện có,
ngân hàng có thể lựa chọn nhiều chiến lược
cạnh tranh về số lượng, chất lượng sản phẩm,
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 44, 04/2018
2
lãi suất, công nghệ, Tuy nhiên, thực tiễn từ
trước đến nay tồn tại các tranh luận trái chiều
về tác động của cạnh tranh đến sự ổn định tài
chính trong hoạt động kinh doanh ngân hàng,
như vậy liệu cạnh tranh ngân hàng có dẫn đến
mối đe dọa cho sự ổn định ngân hàng hay
không?
Riêng ở Việt Nam, trong thời gian gần đây,
môi trường và thể chế hoạt động của hệ thống
ngân hàng có những chuyển biến đáng ghi nhận
về quản trị nội bộ, bộ máy tổ chức, ứng dụng
công nghệ và sự phát triển của các dịch vụ ngân
hàng hiện đại. Tuy nhiên, không nằm ngoài quy
luật chung, những sai lệch và bất ổn trong chiến
lược cạnh tranh có thể gây ra nhiều tổn thất
không nhỏ cho hệ thống ngân hàng trên mọi
mặt. Các ngân hàng Việt Nam không chỉ cạnh
tranh với các NHTM trong nước mà còn cạnh
tranh với các NHTM nước ngoài do các cam kết
hội nhập kinh tế. Sự xuất hiện của các ngân
hàng 100% vốn nước ngoài, loại bỏ dần các hạn
chế đối với hoạt động của chi nhánh ngân hàng,
nên mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày
càng trở nên gay gắt.
Xuất phát từ ảnh hưởng của cạnh tranh đến
ổn định ngân hàng cho thấy nghiên cứu này là
hoàn toàn thiết thực, đưa ra các gợi ý về chính
sách để phát triển toàn diện và ổn định hệ thống
trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập quốc tế.
2. Tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu
thực nghiệm:
Sự ổn định ngân hàng được xem xét trên khía
cạnh sự ổn định tài chính trong hoạt động ngân
hàng. Theo đó, ngân hàng là một doanh nghiệp
đặc biệt, nên trong quá trình nghiên cứu sẽ có
những sự khác biệt. Nghiên cứu về các yếu tố
ảnh hưởng sự ổn định của hệ thống ngân hàng
của hai tác giả Nadya Jahn và Thomas Kick
(2011) có nêu khái niệm về ổn định tài chính
ngân hàng như sau: “Sự ổn định tài chính của
hệ thống ngân hàng là trạng thái ổn định mà
trong đó hệ thống ngân hàng thực hiện các chức
năng của mình một cách có hiệu quả bao gồm
phân phối nguồn lực, phân tán rủi ro và phân
phối thu nhập”. Theo Pierre Monnin và Terhi
Jokipiia không có trong danh mục TLTK
(2010) khi nghiên cứu về tác động của ổn định
ngân hàng đến nền kinh tế của 18 nước trong
OECD đã đưa ra định nghĩa về ổn định ngân
hàng như sau: Sự bất ổn tài chính là xác suất
của ngành ngân hàng trở nên không có khả năng
trả được nợ trong quý tiếp theo. Do đó, xác suất
này càng thấp tương ứng với sự ổn định càng
tăng và ngược lại. Cụ thể, nếu giá trị thị trường
của tài sản ngân hàng nhỏ hơn tổng nợ phải trả,
tức là ngân hàng suy giảm hay thậm chí không
có khả năng trả nợ, tức là ngân hàng đang bất
ổn.
Như vậy, ổn định ngân hàng là việc ngân
hàng duy trì hoạt động có hiệu quả, có khả
năng ứng phó tốt đối với những tác động bên
trong và bên ngoài, trong hiện tại và cả tương
lai, đặc biệt là các cú sốc của nền kinh tế mà
vẫn duy trì được khả năng thanh toán cho các
khoản nợ đến hạn, duy trì hoạt động một cách
bình thường.
Ổn định tài chính của hệ thống ngân hàng
được xác định từ các phương pháp đo lường sự
ổn định của hệ thống tài chính của các doanh
nghiệp ra đời vào những năm 1930. Ban đầu,
các nghiên cứu ban đầu tập trung theo phương
pháp phân tích tỷ lệ (ratio analysis), sau đó là
phương pháp phân tích đơn biến, cuối cùng là
đến năm 1968, phương pháp phân tích kết hợp
các chỉ số được nhà kinh tế học Edward I.
Altman đưa ra để dự báo xác suất phá sản của
doanh nghiệp, dẫn đến sự bất ổn trong hoạt
động kinh doanh. Kế thừa chỉ số Z-Score của
Edward I. Altman, hàng loạt các nghiên cứu
thực nghiệm được mở rộng và chuyên sâu hơn,
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 44, 04/2018
3
trong đó có lĩnh vực Tài chính - Ngân hàng.
Ngoài ra, khi ứng dụng mô hình chỉ số Z-Score
cho các nghiên cứu trong tình hình kinh tế ở các
nước khác nhau, nhiều tác giả nhận thấy việc
đưa thêm các chỉ số khác như ROA, ROE
(Ariss, 2010; Uhde và Heimeshoff, 2009) sẽ
góp phần giúp cho việc đánh giá sự ổn định
ngân hàng được toàn diện hơn thông qua xem
xét khả năng sinh lợi trong hoạt động kinh
doanh ngân hàng.
Khi nghiên cứu về tác động của cạnh tranh
đến sự ổn định ngân hàng, có hai quan điểm
chính đã được phát triển về vấn đề này, quan
điểm thứ nhất: cho thấy rằng sự cạnh tranh
trong ngành ngân hàng dẫn đến mất ổn định,
trong khi quan điểm thứ hai cho rằng có mối
quan hệ tích cực tồn tại giữa cạnh tranh và ổn
định của các NHTM.
Quan điểm thứ nhất: Cạnh tranh - dễ tổn
thương, được đề xuất bởi Keeley (1990). Ý
tưởng chính của quan điểm này là sự cạnh tranh
của ngân hàng cao sẽ làm mất ổn định ngân
hàng. Ngân hàng sẽ hạ thấp các tiêu chuẩn để
lựa chọn đầu tư. Ngược lại, nếu các ngân hàng
có sức mạnh thị trường cao và có được giá trị
thương hiệu tích cực, các nhà quản lý ngân hàng
cũng như các cổ đông sẽ thận trọng hơn trong
việc chấp nhận rủi ro. Allen và Gale (2004) cho
rằng cuộc khủng hoảng tài chính sẽ có nhiều
khả năng xảy ra trong các ngân hàng ít tập
trung. Ý tưởng chính đằng sau quan điểm này
là sự cạnh tranh quá mức làm suy giảm giá trị
thương hiệu của các ngân hàng bằng cách giảm
ưu thế độc quyền của họ và do đó buộc họ phải
thực hiện hoạt động có nhiều rủi ro hơn.
Matutes và Vives (2000) cho rằng ngân hàng có
sức mạnh thị trường cao hơn sẽ giảm được rủi
ro phá sản của ngân hàng trong môi trường cạnh
tranh không hoàn hảo. Thomas F. Hellmann,
Kevin C. Murdock và Joseph E. Stiglitz (2000)
cũng khẳng định cạnh tranh có thể gây ảnh
hưởng tiêu cực đến hành vi thận trọng của các
ngân hàng. Quan điểm này cũng được kiểm
định bởi nghiên cứu của nhóm tác giả Allen N.
Berger, Leora F. Klapper, Rima Turk-Ariss
(2009), Fu, Liu và Molyneux (2014).
Quan điểm thứ hai: Cạnh tranh - ổn định
của Boyd và De Nicolo (2005) cho rằng có một
mối quan hệ tích cực giữa cạnh tranh và ổn
định. Ý tưởng chính cho rằng ít cạnh tranh hơn
dẫn đến lãi suất cho vay cao hơn, từ đó có thể
làm tăng khả năng vỡ nợ của khách hàng và vấn
đề rủi ro đạo đức của khách hàng. Do đó, các
ngân hàng sẽ đối diện với vấn đề gia tăng nợ
xấu. Franco Fiordelisi. và Davide S. Mare
(2014), Jin Q.Jeon và Kwang Kyu Lim (2013)
cũng bày tỏ rõ quan điểm ủng hộ cho kết quả
nghiên cứu của Boyd và De Nicolo (2005),
Martin Goetz (2016).
Bên cạnh đó, có nhiều bằng chứng nghiên
cứu thực nghiệm khác nhau về mối quan hệ
giữa cạnh tranh và ổn định ngân hàng. Ariss
(2010) kiểm tra mức độ khác nhau về sức mạnh
thị trường ảnh hưởng như thế nào đến hiệu quả
và sự ổn định của ngân hàng trong bối cảnh nền
kinh tế của các quốc gia đang phát triển. Kết
quả nghiên cứu cho thấy rằng sức mạnh thị
trường gia tăng dẫn đến sự ổn định của ngân
hàng lớn hơn và nâng cao hiệu quả ngân hàng.
Tương tự, Yeyati và Micco (2007), Raúl
Osvaldo Fernández và Jesús G. Garza-García
(2015), Klaus Schaeck và Martin Cihák (2007)
tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa cạnh tranh
và sự ổn định của ngân hàng.
Liu và cộng sự (2012) nghiên cứu mối quan
hệ tương tự với dữ liệu thu thập từ 5 quốc gia
Đông Nam Á, sử dụng một số chỉ số để đo
lường rủi ro của ngân hàng. Kết quả của họ chỉ
ra rằng sự cạnh tranh là có mối quan hệ ngược
chiều với hầu hết các chỉ số đo lường rủi ro.
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 44, 04/2018
4
Điều này cho thấy sự cạnh tranh không làm suy
giảm sự ổn định của ngân hàng. Kết quả này
cũng được khẳng định trong nghiên cứu của
Wahyoe Soedarmono và Amini Tarazi (2015).
Từ mẫu là các NHTM khu vực Châu Á Thái
Bình Dương (1994 – 2009), nghiên cứu chỉ ra
rằng các ngân hàng ít cạnh tranh sẽ có sự tăng
trưởng tín dụng thấp hơn và sự không ổn định
cao hơn, kéo theo đó là sự suy giảm tiền gửi.
Tại Việt Nam, nghiên cứu của Phan Thị
Thơm và Thân Thị Thu Thủy (2016) về “Mối
quan hệ giữa cạnh tranh và hiệu quả trong hệ
thống NHTM Việt Nam” đề cập tác động của
cạnh tranh đến hiệu quả chi phí và hiệu quả lợi
nhuận của hệ thống NHTM Việt Nam. Kết quả
nghiên cứu trên mẫu gồm 31 NHTM Việt Nam
cho thấy cạnh tranh không gây tổn hại đến hiệu
quả chi phí và lợi nhuận ngân hàng. Hay nghiên
cứu của Nguyễn Thị Hồng Vinh (2016) xác
định mối tương quan dương của mức độ tập
trung ngân hàng đến khả năng sinh lời và rủi ro
(rủi ro đạo đức) của ngân hàng trong giai đoạn
2007 – 2014. Như vậy, chưa tìm thấy nghiên
cứu nào tại Việt Nam xem xét tác động của cạnh
tranh ngân hàng đến sự ổn định của hệ thống
các NHTM, dưới ảnh hưởng của cạnh tranh các
ngân hàng hoạt động có thật sự đạt được hiệu
quả bền vững hay không. ?
Dựa trên các nghiên cứu lý thuyết và nghiên
cứu thực nghiệm nghiên cứu đặt ra giả thuyết
như sau: Khi ngân hàng càng gia tăng cạnh
tranh trong hoạt động sẽ làm tăng sự ổn định
ngân hàng.
3 Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy trên cơ
sở tiếp cận phương pháp nghiên cứu được đề
xuất bởi Martin Richard Goetz (2016), Allen N.
Berger và cộng sự (2009). Với nhận định sự ổn
định của ngân hàng cần gắn liền với khả năng
tạo ra lợi nhuận, mức lợi nhuận phải tăng trưởng
và ổn định. Mô hình nghiên cứu đề xuất:
Bankstabi,t = α0 + α1Bankstabi,t-1 +
α2Lerneri,t + βj,Controli,t + βj,,Control’i,t + εi,t
Trong đó :
Bankstab: là biến phụ thuộc, đo lường độ ổn
định ngân hàng, được xác định bằng chỉ số
ROA, ROE, Z-Score;
Lerner: là biến độc lập, đo lường mức độ
cạnh tranh của ngân hàng ;
Control: là tập hợp các biến kiểm soát mô tả
theo đặc điểm riêng có của từng ngân hàng (Bao
gồm: Logarit tự nhiên của tổng tài sản, Tỷ lệ dư
nợ tín dụng/Tổng tài sản, Tỷ lệ Vốn huy
động/Tổng tài sản);
it: ngân hàng i vào năm t;
α0 : hệ số chặn;
αj ( j = 1-2) : hệ số hồi quy của biến độc lập;
βj, (j, = 1-4) : hệ số hồi quy của biến kiểm
soát mô tả đặc điểm riêng của ngân hàng;
βj’, (j,, = 1,2): hệ số hồi quy của biến kiểm
soát mô tả đặc điểm nền kinh tế vĩ mô;
ε: phần dư mô hình.
Bảng 1: Tóm tắt các biến nghiên cứu sử dụng trong nghiên cứu
Tên biến Cách tính Các nghiên cứu liên quan
Kỳ vọng
tương quan
Biến phụ thuộc
ROA ROA =
𝐿ợ𝑖 𝑛ℎ𝑢ậ𝑛 𝑟ò𝑛𝑔
𝑇ổ𝑛𝑔 𝑡à𝑖 𝑠ả𝑛
Ariss (2010)
Uhde và Heimeshoff (2009)
Martin Richard Goetz (2016),
Raul Allen N. Berger và cộng sự
(2009)
ROE ROE =
𝐿ợ𝑖 𝑛ℎ𝑢ậ𝑛 𝑟ò𝑛𝑔
𝑉ố𝑛 𝑐ℎủ 𝑠ở ℎữ𝑢
Ariss (2010)
Martin Richard Goetz (2016)
Allen N. Berger và cộng sự (2009)
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 44, 04/2018
5
Z-Score Z-score =
𝑅𝑂𝐴+𝐸𝑇𝐴
𝜎𝑅𝑂𝐴
ETA =
𝑉ố𝑛 𝑐ℎủ 𝑠ở ℎữ𝑢
𝑇ổ𝑛𝑔 𝑡à𝑖 𝑠ả𝑛
Amidu và cộng sự (2013)
Ariss (2010)
Martin Richard Goetz (2016),
Allen N. Berger và cộng sự (2009)
Biến độc lập
Size Logarit (Tổng tài sản) Mirzaei, Moore và Liu (2013)
Fu và cộng sự (2014)
Martin Richard Goetz (2016),
Allen N. Berger và cộng sự (2009)
+
Loans 𝐷ư 𝑛ợ 𝑡í𝑛 𝑑ụ𝑛𝑔
𝑇ổ𝑛𝑔 𝑡à𝑖 𝑠ả𝑛
Heiko Hesse và Martin Cihák
(2007)
Martin Richard Goetz (2016),
Raul Allen N. Berger và cộng sự
(2009)
-
Deposits 𝑉ố𝑛 ℎ𝑢𝑦 độ𝑛𝑔
𝑇ổ𝑛𝑔 𝑡à𝑖 𝑠ả𝑛
Martin Richard Goetz (2016)
Allen N. Berger và cộng sự (2009) +
GDP Tổng sản phẩm quốc
nội
Heiko Hesse và Martin Cihák
(2007)
Martin Richard Goetz (2016)
Allen N. Berger và cộng sự (2009)
+
INF Tỷ lệ lạm phát Heiko Hesse và Martin Cihák
(2007)
Martin Richard Goetz (2016)
Allen N. Berger và cộng sự (2009)
+
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng không cân
bằng trong giai đoạn từ 2006 – 2016 của 25
ngân hàng TMCP ở Việt Nam. Toàn bộ dữ liệu
của được thu thập từ báo cáo tài chính được
kiểm toán, báo cáo thường niên công bố công
khai của các NHTM Việt Nam và từ cơ sở dữ
liệu của Bankscope.Về nguồn dữ liệu liên quan
đến tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam, chỉ
số của thị trường trong giai đoạn nghiên cứu,
thu thập từ cổng thông tin điện tử của Tổng cục
Thống kê Việt Nam.
Dữ liệu được xử lý dưới dạng bảng không
cân bằng thể hiện qua thống kê mô tả ở Bảng 2.
Bảng 2: Thống kê mô tả các biến nghiên cứu
Tên biến
Giá trị trung
bình
Giá trị tối đa
Giá trị tối
thiểu
Độ lệch chuẩn
Z-Score 26,25833 104,9722 0,5752318 14,91601
ROA 0,0095398 0,0595185 -0,0551174 0,0080297
ROE 0,103551 4,133617 -0,8200207 0,246976
Lerner 22,61405 69,5344 4,966029 12,46911
Size 17,67471 20,72965 13,13482 1,424538
Loans 0,5199846 0,9174093 0,1139036 0,1387936
Deposits 0,8766458 1,129474 0,0152707 0,0944134
GGDP 6,124819 7,129505 5,247367 0,6176414
INF 8,958727 23,11632 0,63 6,173841
Nguồn: Tính toán và tổng hợp số liệu từ Báo cáo tài chính được kiểm toán, Bankscope và Vietnam
Orbis Focus
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 44, 04/2018
6
Nhìn chung, cơ sở dữ liệu Bảng 2 cho thấy
số liệu phản ánh đầy đủ tình hình tài chính của
các NHTM Việt Nam trong thời gian qua. Các
giá trị tối đa và tối thiểu có sự chênh lệch đáng
kể do sự khác biệt về đặc điểm của các NHTM
nhưng xoay quanh giá trị trung bình ở các chỉ
số: ROA, ROE, Size, Loans. Ngoài ra, các biến
còn lại có biến động giữa các ngân hàng nhưng
kết quả cho thấy độ lệch chuẩn không đáng kể:
Z-Score, Deposits. Còn biến Lerner lại có độ
lệch chuẩn cao thể hiện sức cạnh tranh của các
NHTM cũng có sự khác biệt lớn.
Các chỉ tiêu về kinh tế vĩ mô không có sự
biến động lớn trong giai đoạn nghiên cứu. Như
vậy, kết quả nghiên cứu sẽ không bị ảnh hưởng
nhiều bởi các yếu tố này và sẽ khách quan hơn.
Nghiên cứu sử dụng chỉ số Lerner đại diện
cho cạnh tranh ngân hàng nhằm xem xét mối
quan hệ có thể có giữa cạnh tranh và ổn định
ngân hàng (Berger và cộng sự, 2009; Ariss,
2010; Jimenez cùng cộng sự, 2013; Amidu và
cộng sự, 2013; Fu và cộng sự, 2014; Sami
Mensi và Widede Labidi, 2015), cụ thể:
𝐿𝑒𝑟𝑛𝑒𝑟𝑖𝑡 =
𝑃𝑟𝑖𝑐𝑒𝑖𝑡− 𝑀𝐶𝑖𝑡
𝑃𝑟𝑖𝑐𝑒𝑖𝑡
Theo đó, Priceit là trị giá của tổng tài sản
ngân hàng i vào thời điểm t, được tính bằng tỷ
lệ Tổng thu nhập lãi và phi lãi chia cho Tổng tài
sản (Fu và cộng sự, 2014; Fiordelisi, F. và
Mare, D.S., 2014).
MCit là chi phí cận biên tính trên một đơn vị
sản lượng đầu ra, đây là đại lượng không quan
sát trực tiếp được nên ước lượng bằng công thức
sau (Fu và cộng sự, 2014; Kasman, A. và
Carvallo, O., 2014; Fiordelisi, F. và Mare, D.S.,
2014; Amidu và cộng sự, 2013):
𝑀𝐶𝑖𝑡 =
𝐶𝑜𝑠𝑡𝑖𝑡
𝑄𝑖𝑡
[β1 + β2 ln Qit + ∑ 𝛷3𝑘=1 k ln
Wk,it + υ trendit] (4)
Qit đại diện cho sản lượng đầu ra của ngân
hàng và được đo lường giống như tổng tài sản.
W1 là chi phí huy động vốn, bằng chi phí lãi
chia cho tổng tiền gửi.
W2 là chi phí lao động, bằng chi phí lao động
chia cho tổng tài sản.
W3 là chi phí vốn, bằng chi phí hoạt động
khác chia cho tổng tài sản.
Trend là biến phản ánh sự thay đổi công
nghệ.
Riêng Costit là tổng chi phí ngân hàng i vào
thời điểm t, bao gồm chi phí tài chính và chi phí
hoạt động, đại lượng này được tính toán bằng
hàm chi phí như sau:
𝑙𝑛𝐶𝑜𝑠𝑡𝑖𝑡 = 𝛽0 + 𝛽1𝑙𝑛𝑄𝑖𝑡 +
1
2
𝛽2(𝑙𝑛𝑄𝑖𝑡)
2 + ∑ ϒ𝑘𝑡𝑙𝑛𝑤𝑘 𝑖𝑡
3
𝑘=1
+ ∑ Φ𝑘𝑙𝑛𝑄𝑖𝑡
3
𝑘=1
𝑙𝑛𝑤𝑘 𝑖𝑡
+ ∑ ∑ 𝛿𝑖𝑗
3
𝑗=1
3
𝑘=1
𝑙𝑛𝑤𝑘 𝑖𝑡𝑙𝑛𝑤𝑗 𝑖𝑡 + ∑
𝛿𝑖
2
3
𝑖=1
(𝑙𝑛𝑤𝑗 𝑖𝑡)
2 +
1
2
∑ 𝜂𝑘𝑡𝑟𝑒𝑛𝑑
𝑘
2
𝑘=1
+ ∑ 𝜍𝑖
3
𝑖=1
𝑙𝑛𝑤𝑗 𝑖𝑡𝑡𝑟𝑒𝑛𝑑 +
1
2
𝜐𝑙𝑛𝑄𝑗 𝑖𝑡𝑡𝑟𝑒𝑛𝑑 + 𝜀𝑗
Để ước lượng hàm Tổng chi phí lnCost, đầu
tiên sẽ ước lượng các tham số của hàm chi phí.
Tác giả sử dụng hồi quy với mô hình FEM và
REM để tìm ra các tham số này, sau đó tiến
hành kiểm định Hausman để lựa chọn mô hình
phù hợp.
Sau khi ước lượng hàm Tổng chi phí, chi phí
biên được tính toán bằng cách lấy đạo hàm bậc
nhất của hàm Tổng chi phí.
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 44, 04/2018
7
Bảng 3: Kết quả ước lượng các hệ số hồi quy của hàm tổng chi phí theo FEM và REM
Tên biến Tác động cố định
(b)
FEM
Tác động ngẫu nhiên
(B)
REM
Sự khác
biệt
(b-B)
sqrt(diag(V_b-
V_B))
S.E.
lnQ 1,613834 1,505572 0,1082625 0,.1001707
halflnQ^2 -0,037477 -0,0298563 -0,0076207 0,007803
lnw1 -0,5537117 -0,5228358 -0,030876 0,1384921
lnw2 0,6530018 0,5909949 0,0620069 0,0658556
lnw3 0,7508025 0,7157057 0,0350968 0,0895223
lnQlnw1 0,0068712 -0,0021583 0,0090295 0,0064678
lnQlnw2 -0,0019522 -0,001004 -0,0009482 0,0066387
lnQlnw3 -0,0107005 -0,0010508 -0,0096497 0,0043443
halflnw1^2 -0,2840523 -0,2768422 -0,0072101 0,0089338
halflnw2^2 0,1494762 0,1388251 0,010651 0,0168072
halflnw3^2 0,1817886 0,1850501 -0,0032616 0,0080061
lnw1lnw2 -0,0043905 -0,0330434 0,0286529 0,0161974
lnw1lnw3 -0,0757278 -0,073991 -0,0017368 0,0083264
lnw2lnw3 -0,0510896 -0,0300003 -0,0210893 0,0118144
trend -0,2240921 -0,1856539 -0,0384383 0,030866
halftrend^2 -0,0011608 -0,000531 -0,0006298 0,0007535
lnw1trend -0,008259 -0,0050392 -0,0032197 0,0024
lnw2trend 0,0041775 0,0014661 0,0027114 0,0025169
lnw3trend -0,011061 -0,0133649 0,0023039 0,0011504
halflnQtrend 0,0194658 0,0134956 0,0059702 0,0042662
Kiểm định H0: Không có sự khác biệt
chi2(18) = (b-B)'[(V_b-V_B)^(-1)](b-B) = 4,45 ; Prob>chi2 = 0,9995
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả nghiên cứu
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận:
Bảng 4: Bảng tổng hợp kết quả nhân tử phóng đại phương sai VIF
Tên biến ROA ROE Z-Score
Lerner 1,06 1,06 1,06
Size 1,63 1,68 1,63
Loans 1,06 1,07 1,07
Deposits 1,52 1,52 1,52
GDP 1,15 1,15 1,15
INF 1,19 1,14 1,13
ROAt-1 1,08
ROEt-