Kết quả kiểm toán của kiểm toán độc lập có vai trò quan trọng bởi nó
tạo niềm tin không chỉ cho các nhà đầu tư trong việc ra quyết định,
mà còn cung cấp các thông tin cho các cơ quan quản lý nhà nước,
các nhà cung cấp và cho cả chính ban quản lý doanh nghiệp. Đây là
một trong nhiều lý do thúc đẩy một tổ chức chủ động lựa chọn thuê
một công ty kiểm toán độc lập, ngay cả khi tổ chức đó không bị các
cơ quan quản lý yêu cầu bắt buộc phải kiểm toán. Tuy nhiên, sự lựa
chọn một công ty kiểm toán cụ thể thường được gắn với việc phát
sinh chi phí quản lý. Chính vì thế, lựa chọn một công ty kiểm toán
không phải là quyết định đơn giản đối với một nhà quản lý. Bài viết
đề cập đến các yếu tố đặc điểm của doanh nghiệp ảnh hưởng đến
việc lựa chọn công ty kiểm toán của các doanh nghiệp Việt Nam.
Đặc điểm của doanh nghiệp bao gồm các yếu tố: (1) Quy mô doanh
nghiệp, (2) Tỷ lệ nợ phải thu và hàng tồn kho, (3) Tỷ lệ nợ phải trả
trong tổng tài sản, (4) Tỷ lệ lãi ròng, (5) Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư
nước ngoài trong doanh nghiệp, (6) Biến giả chỉ một doanh nghiệp
có công ty con.
11 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 496 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu yếu tố đặc điểm của doanh nghiệp ảnh hưởng đến lựa chọn công ty kiểm toán của các doanh nghiệp ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
26
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 191- Tháng 4. 2018
Nghiên cứu yếu tố đặc điểm của doanh nghiệp
ảnh hưởng đến lựa chọn công ty kiểm toán của
các doanh nghiệp ở Việt Nam
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ
Hoàng Thị Hồng Vân
Ngày nhận: 16/10/2017 Ngày nhận bản sửa: 10/04/2018 Ngày duyệt đăng: 23/04/2018
Kết quả kiểm toán của kiểm toán độc lập có vai trò quan trọng bởi nó
tạo niềm tin không chỉ cho các nhà đầu tư trong việc ra quyết định,
mà còn cung cấp các thông tin cho các cơ quan quản lý nhà nước,
các nhà cung cấp và cho cả chính ban quản lý doanh nghiệp. Đây là
một trong nhiều lý do thúc đẩy một tổ chức chủ động lựa chọn thuê
một công ty kiểm toán độc lập, ngay cả khi tổ chức đó không bị các
cơ quan quản lý yêu cầu bắt buộc phải kiểm toán. Tuy nhiên, sự lựa
chọn một công ty kiểm toán cụ thể thường được gắn với việc phát
sinh chi phí quản lý. Chính vì thế, lựa chọn một công ty kiểm toán
không phải là quyết định đơn giản đối với một nhà quản lý. Bài viết
đề cập đến các yếu tố đặc điểm của doanh nghiệp ảnh hưởng đến
việc lựa chọn công ty kiểm toán của các doanh nghiệp Việt Nam.
Đặc điểm của doanh nghiệp bao gồm các yếu tố: (1) Quy mô doanh
nghiệp, (2) Tỷ lệ nợ phải thu và hàng tồn kho, (3) Tỷ lệ nợ phải trả
trong tổng tài sản, (4) Tỷ lệ lãi ròng, (5) Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư
nước ngoài trong doanh nghiệp, (6) Biến giả chỉ một doanh nghiệp
có công ty con.
Từ khóa: Quy mô, tỷ lệ nợ, công ty con, tỷ lệ lãi ròng, kiểm toán viên
1. Đặt vấn đề
oạt động kiểm
toán do công
ty kiểm toán
độc lập thực
hiện đóng vai
trò như giám sát bên ngoài đối
với doanh nghiệp. Sự giám sát
bên ngoài là hữu ích để thỏa
mãn mục đích khác nhau (đôi
khi là mâu thuẫn) của các bên
liên quan và doanh nghiệp với
thông tin cần giám sát. Kết
quả kiểm toán của kiểm toán
độc lập có vai trò quan trọng
bởi nó tạo niềm tin không chỉ
cho các nhà đầu tư trong việc
ra quyết định, mà còn cung
cấp các thông tin cho các cơ
quan quản lý nhà nước, các
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
27Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 191- Tháng 4. 2018
nhà cung cấp và cho cả chính
ban quản lý doanh nghiệp.
Đây là một trong nhiều lý
do thúc đẩy một tổ chức chủ
động lựa chọn thuê một công
ty kiểm toán độc lập, ngay cả
khi tổ chức đó không bị các
cơ quan quản lý yêu cầu bắt
buộc phải kiểm toán.
Các tài liệu đề cập đến lý do
một công ty cần thuê kiểm
toán và chấp nhận sự giám
sát bổ sung từ bên ngoài có
nguồn gốc từ Lý thuyết người
đại diện (hay lý thuyết quản
lý- Agency Theory). Nhà quản
lý đưa ra quyết định thuê kiểm
toán với mục đích giảm các
chi phí đại diện do sự bất đối
xứng thông tin gia tăng trong
môi trường nội bộ. Sự lựa
chọn một công ty kiểm toán
cụ thể thường được gắn với
việc phát sinh chi phí quản lý.
DeAngelo (1981) cho rằng chi
phí quản lý của doanh nghiệp
có thể biến đổi cũng như nhu
cầu về mức chất lượng của
giám sát bên ngoài cũng có
thể thay đổi. Chính vì thế, lựa
chọn một công ty kiểm toán
không phải là quyết định đơn
giản đối với một nhà quản lý.
Liên quan các lý thuyết đại
diện, Jensen and Meckling
(1976), cho rằng các nhà quản
lý sẽ sẵn sàng cung cấp thông
tin minh bạch của doanh
nghiệp cho các bên liên quan.
Trong môi trường của một
doanh nghiệp, DeFond (1992)
xác định hai nhân tố liên quan
tới nhu cầu về giám sát bên
ngoài của doanh nghiệp, đó
là (1) sự khác nhau trong vai
trò giữa người quản lý và chủ
sở hữu, người sở hữu phải
tôn trọng các hành động của
người quản lý; và (2) khả
năng quan sát không hoàn hảo
của chủ sở hữu đối với các
hành động của các nhà quản
lý (DeFond, 1992). Meckling
(1976), De Ketelaere (2007)
đưa ra những giải thích cho
việc thuê giám sát bên ngoài
bởi các kiểm toán viên và
đồng ý với nhân tố đầu tiên
của DeFond (1992): Chủ sở
hữu luôn cố gắng để bảo vệ
quyền lợi của họ, ngăn ngừa
việc có thể giảm giá trị của
các khoản đầu tư ban đầu của
họ và giảm bồi thường quản lý
Các nhà quản lý doanh nghiệp
nếu không đồng sở hữu
thường có động cơ thuê một
công ty kiểm toán chất lượng
cao nhằm nâng cao chất lượng
thông tin cung cấp và đảm bảo
cho họ không phải bồi thường
thiệt hại hay tổn thất xảy ra.
Việc thực hiện những hợp
đồng giám sát bên ngoài như
đối với dịch vụ kiểm toán, đòi
hỏi các doanh nghiệp phải chi
trả các khoản chi phí giám sát
bổ sung. Giám sát bên ngoài
bởi một công ty kiểm toán
làm giảm những thông tin bất
đối xứng xảy ra giữa các nhà
quản lý và chủ sở hữu, do đó
đảm bảo rằng các chủ sở hữu
doanh nghiệp sẽ kiểm soát
được mọi hành động của các
nhà quản lý và chỉ rõ với các
nhà quản lý rằng hành động
của các nhà quản lý cần phù
hợp với lợi ích của các chủ sở
hữu.
2. Mô hình nghiên cứu và
giả thuyết nghiên cứu các
yếu tố tác động đến lựa chọn
công ty kiểm toán của các
doanh nghiệp
2.1. Giả thuyết nghiên cứu
Quyết định lựa chọn công ty
kiểm toán là biến phụ thuộc
trong mô hình nghiên cứu biểu
diễn qua biến AUDCHOICE.
Biến AUDCHOICE (Công ty
kiểm toán được chọn) nhận
giá trị bằng 1 khi công ty
kiểm toán được chọn là Big
Four (Big4), bằng 0 nếu công
ty kiểm toán được chọn không
phải là Big4 (Non-Big4).
Theo thống kê của Hội Kiểm
toán viên hành nghề Việt Nam
(VACPA), số lượng các công
ty đang hoạt động trong lĩnh
vực cung cấp dịch vụ kế toán,
kiểm toán ở Việt Nam hiện là
hơn 140 doanh nghiệp. Theo
đó, thị trường dịch vụ kiểm
toán Việt Nam hiện nay có sự
phân cấp đáng kể. Các hãng
kiểm toán lớn như Ernst &
Young, Deloitte Việt Nam,
KPMG, Price Waterhouse
Coopers- PWC (còn gọi là
Big Four) có doanh thu và số
lượng khách hàng lớn hơn rất
nhiều các hãng kiểm toán còn
lại.
Theo thông tin từ cuộc họp
thường niên Giám đốc các
doanh nghiệp kiểm toán ngày
24/6/2016 do Bộ Tài chính
phối hợp với VACPA tổ chức,
số liệu Tổng kết hoạt động
kiểm toán độc lập năm 2015
có 10 doanh nghiệp kiểm
toán lớn nhất được đánh giá
theo 4 tiêu chí: Doanh thu, số
lượng khách hàng, số lượng
nhân viên, số lượng kiểm
toán viên. Trong đó, Big4 là
các doanh nghiệp kiểm toán
có tổng doanh thu lớn nhất,
2.799 tỷ đồng trong tổng số
3.393 tỷ đồng của 10 công
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
28 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 191- Tháng 4. 2018
ty, chiếm 82,5% doanh thu
của 10 công ty lớn nhất, và
cũng là 4 doanh nghiệp có
tổng số lượng khách hàng,
tổng số nhân viên cao nhất.
Big4 cũng là những doanh
nghiệp kiểm toán lớn, có
thương hiệu và chất lượng
kiểm toán vượt trội so với các
hãng kiểm toán khác. Đây là
lý do tác giả chọn biến phụ
thuộc AUDCHOICE để biểu
thị sự lựa chọn doanh nghiệp
kiểm toán thuộc Big4 hay
nhóm doanh nghiệp kiểm toán
không phải là Big4.
Quy mô doanh nghiệp (SIZE)
là một biến xác định bởi
logarit tự nhiên của tổng tài
sản của một doanh nghiệp
được đề cập trong tài liệu
của các nhà nghiên cứu như
Chow (1982) DeFond năm
1992; Blouin, Grein, and
Roundtree ( 2007), Broye
(2008), Knechel, Niemi, and
Sundgren (2008). Có nhiều lý
do giải thích tại sao nhu cầu
về kiểm toán chất lượng cao
tăng cùng với quy mô của một
thực thể (Chow 1982). Với
doanh nghiệp có quy mô càng
lớn, chủ sở hữu có nhiều khả
năng để yêu cầu cuộc kiểm
toán hoặc công ty kiểm toán
chất lượng cao hơn như một
phương tiện giám sát hoạt
động của doanh nghiệp. Ngoài
ra, chi phí kiểm toán sẽ không
tăng nhanh như sự gia tăng
quy mô doanh nghiệp Do vậy,
lợi ích của kiểm toán có thể
gia tăng nếu xét theo tỷ lệ chi
phí kiểm toán gia tăng trong
tương quan với gia tăng quy
mô doanh nghiệp. Dựa trên
các nghiên cứu trên, có thể
đưa ra giả thuyết rằng có một
mối liên hệ thuận giữa quy
mô doanh nghiệp và lựa chọn
công ty kiểm toán chất lượng
cao. Quy mô doanh nghiệp có
thể được đo lường bằng tổng
tài sản, doanh thu, số lượng
lao động. Tuy nhiên, doanh
thu và số lượng lao động có
sự biến động khác nhau giữa
các loại hình và ngành nghề
kinh doanh khác nhau. Do đó,
trong nghiên cứu, tác giả sử
dụng Tổng tài sản là tiêu chí
đo lường quy mô của doanh
nghiệp.
Giả thuyết 1: H
1
- Quy mô
doanh nghiệp có ảnh hưởng
tích cực đến việc lựa chọn
công ty kiểm toán Big4
Mức độ phức tạp hoạt động
của một doanh nghiệp được
đo lường thông qua chỉ tiêu
Nợ phải thu và Hàng tồn kho
trên tổng tài sản. Phù hợp với
Knechel và cộng sự (2008),
tác giả nghiên cứu sự lựa
chọn công ty kiểm toán chất
lượng cao trong mối quan hệ
với sự phức tạp bên trong của
tổ chức. Knechel và cộng sự
(2008) cho rằng có một mối
quan hệ giữa số lượng giao
dịch thực hiện trong doanh
nghiệp và tính phức tạp của
nó, hay nói cách khác số
lượng các giao dịch mua bán
thể hiện tính phức tạp trong
hoạt động của một doanh
nghiệp, được đo lường qua
chỉ tiêu Nợ phải thu và hàng
tồn kho, hợp với Stice (1991)
và Hay, Knechel và Wong
(2006). Vì vậy, INVREC - tỷ
lệ hàng tồn kho và các khoản
phải thu trên tổng tài sản
được đề cập bởi Abdel-khalik
(1993), Hay and Davis (2004)
là có ảnh hưởng đến lựa chọn
doanh nghiệp kiểm toán.
Giả thuyết 2: H
2
- Tỷ lệ hàng
tồn kho và nợ phải thu trên
tổng tài sản có ảnh hưởng tích
cực đến việc lựa chọn công ty
kiểm toán Big4.
Theo nghiên cứu của Ge và
Mc.Vay (2005) khi doanh
nghiệp có quy mô lớn với
nhiều công ty con thì thường
nảy sinh nhiều vấn đề phức
tạp hơn và do đó sự kiểm soát
của công ty mẹ với công ty
con sẽ yếu hơn. Do vậy cần
có sự gia tăng giám sát với
các công ty con thông qua các
công ty kiểm toán chất lượng
cao. Nghiên cứu của Hay và
Knechel (2005) cũng cung cấp
bằng chứng cho thấy một công
ty có công ty con có nhiều khả
năng sử dụng cùng một công
ty kiểm toán với mục đích
giảm sự phức tạp trong quản
lý và rủi ro về thông tin. Do
đó biến GROUP dùng để biểu
diễn một doanh nghiệp có
công ty con hay không được
đề xuất có mối liên quan tích
cực đến việc lựa chọn công ty
kiểm toán chất lượng cao như
Big4.
Giả thuyết 3: H
3
- Doanh
nghiệp có công ty con thường
có xu hướng lựa chọn các
công ty kiểm toán Big4
Tại Việt Nam rất khó để xác
định sở hữu trong các doanh
nghiệp một cách chính xác
bởi có nhiều loại hình doanh
nghiệp và hình thức sở hữu.
Các nhà đầu tư trên thị trường
chứng khoán thường là các
nhà đầu tư nhỏ lẻ, những am
hiểu về kiểm toán và vai trò
của kiểm toán đối với nền
kinh tế và trong việc ra quyết
định còn hạn chế. Trái lại, các
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
29Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 191- Tháng 4. 2018
nhà đầu tư nước ngoài lại là
những người có kinh nghiệm
đầu tư, am hiểu vai trò của
kiểm toán độc lập, am hiểu
thông tin và chất lượng dịch
vụ kiểm toán báo cáo tài chính
do các công ty kiểm toán độc
lập cung cấp. Các nhà đầu tư
nước ngoài sẽ gia tăng tỷ lệ
sở hữu vốn trong các doanh
nghiệp khi họ tin tưởng vào
hoạt động kinh doanh và kết
quả kinh doanh của các doanh
nghiệp đã được các công ty
kiểm toán độc lập có uy tín
xác nhận. Do vậy, tác giả lựa
chọn biến về sở hữu là Tỷ
lệ sở hữu của các nhà đầu tư
nước ngoài (FORSHA) trong
doanh nghiệp với mong muốn
xem xét nhân tố này có ảnh
hưởng đến sự lựa chọn công
ty kiểm toán của các doanh
nghiệp Việt Nam hay không.
Đây cũng là điểm mới trong
nghiên cứu của tác giả bởi
một số nghiên cứu của các nhà
nghiên cứu trước chưa đề cập
đến biến này.
Các doanh nghiệp tìm kiếm tài
chính ở nước ngoài hoặc các
đối tác nước ngoài có nhiều
khả năng để thuê một công
ty kiểm toán quốc tế, bởi các
công ty kiểm toán này có sự
hiểu biết với hệ thống kế toán
và chuẩn mực kế toán quốc tế.
Các công ty kiểm toán quốc tế
được cho là đáng tin cậy hơn,
có thể giúp doanh nghiệp gia
tăng độ tin cậy cho các báo
cáo tài chính đối với người sử
dụng thông tin này (Citrone và
Manalis, 2000).
Thực tế hiện nay cho thấy,
tỷ lệ cổ phần của khối ngoại
đang gia tăng tại các công ty
niêm yết trên sàn chứng khoán
Việt Nam. Qua các nghiên
cứu trên, tác giả kỳ vọng rằng
mức độ cổ phần nước ngoài
(tỷ lệ sở hữu của khối ngoại)
có tác động tích cực đến việc
lựa chọn công ty kiểm toán có
chất lượng cao như các công
ty thuộc Big4. Theo đó, giả
thuyết 4 được đưa ra: H
4
- Tỷ
lệ sở hữu của các nhà đầu
tư nước ngoài trong vốn của
doanh nghiệp có ảnh hưởng
tích cực đến việc lựa chọn một
công ty kiểm toán Big4.
Knechel và cộng sự (2008),
sử dụng hệ số tổng nợ phải
trả trên tổng tài sản (DEBT-
ASSETS) như là một biến để
đo tỷ lệ nợ trong một công
ty. Một số nghiên cứu trước
đây (ví dụ Sundgren năm
1998; Broye và Weill, 2008),
sử dụng các định nghĩa khác
nhau của đòn bẩy tài chính
này, họ đã điều tra tác động
của đòn bẩy tài chính dựa
vào sự lựa chọn một công ty
kiểm toán. Mặc dù mối quan
hệ thường được giả thuyết là
tích cực, tuy nhiên kết quả đã
không thực sự thuyết phục.
Ngoài các nghiên cứu trước
đây sự tập trung vào các nước
châu Âu, các nghiên cứu được
thực hiện bởi Broye và Weill
(2008) đã cung cấp cho chúng
ta một cái nhìn rõ ràng hơn.
Theo nghiên cứu của họ, việc
sử dụng đòn bẩy tài chính như
một tiêu chí trong quá trình
lựa chọn của công ty kiểm
toán có sự khác nhau đáng kể
giữa các bối cảnh ở châu Âu.
Trong nghiên cứu của họ, họ
điều tra mối quan hệ này trong
10 nước châu Âu và tìm thấy
bằng chứng cho thấy các dạng
của đòn bẩy tiêu chuẩn có liên
quan đến các mức độ khác
nhau khi tiếp xúc với trách
nhiệm của kiểm toán viên.
Sau này được chứng minh
là có tác động tiêu cực đến
mối quan hệ giữa đòn bẩy tài
chính và sự lựa chọn công ty
kiểm toán. Mặc dù phát hiện
này cung cấp bằng chứng về
một sự thay đổi trong tác động
của đòn bẩy tài chính, chúng
tôi xem đó như là một biến
duy nhất mà không bị ảnh
hưởng của hệ thống pháp luật
trong nước để có được những
nghiên cứu xa hơn so với dự
kiến.
Giả thuyết 5: H
5
- Tỷ lệ nợ
phải trả doanh nghiệp có ảnh
hưởng tích cực với việc lựa
chọn công ty kiểm toán Big4
Johnson và Lys (1990) xác
định ROA là một biến mà có
thể liên quan đến việc lựa
chọn công ty kiểm toán. Phù
hợp với lập luận này, Abbott
và Parker (2000) đưa ra giả
thuyết rằng ROA có ảnh
hưởng tích cực đến việc thúc
đẩy ngành dịch vụ đặc biệt,
ngành kiểm toán. Các nhà
nghiên cứu đã tìm thấy mối
tương quan tích cực, nhưng
không đáng kể, giữa ROA
và việc lựa chọn các công ty
kiểm toán. Tuy nhiên, Citron
và Manalis (2000) đã không
thấy một sự khác biệt đáng
kể giữa các mức ROA của
hai nhóm khách hàng sử dụng
dịch vụ kiểm toán của hai
nhóm công ty kiểm toán Big6
và Non-Big6 trong thị trường
Hy Lạp. Họ cũng tìm thấy
rằng khách hàng của Big6 có
lợi nhuận cao hơn so với các
khách hàng của các doanh
nghiệp kiểm toán hạng hai.
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
30 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 191- Tháng 4. 2018
Nhưng đáng ngạc nhiên hơn
khi các khách hàng của công
ty kiểm toán địa phương có
ROA cao hơn (nhưng không
đáng kể) so với các công ty
kiểm toán hạng hai. Đây là lý
do tác giả đưa biến ROA vào
mô hình nghiên cứu để kiểm
tra sự tác động của nhân tố
này đến việc lựa chọn công
ty kiểm toán của các doanh
nghiệp tại Việt Nam.
Giả thuyết 6: H
6
- Các doanh
nghiệp có Tỷ lệ lãi ròng trên
tổng tài sản (ROA) cao có xu
hướng lựa chọn các công ty
kiểm toán Big4.
2.2. Đề xuất mô hình nghiên
cứu
Dựa trên tổng quan nghiên
cứu, các giả thuyết nghiên
cứu tác giả đề xuất mô hình
nghiên cứu như sau:
AUDCHOICE = β
0
+ β
1
SIZE
+ β
2
INVREC + β3GROUP
+ β
4
FORSHA + β
5
DEB_
ASSETS + β
6
ROA + U
i
Trong đó:
- AUDCHOICE: Công
ty kiểm toán được chọn.
AUDCHOICE nhận giá trị
bằng 1 khi công ty kiểm toán
được chọn là Big4, bằng 0 nếu
công ty kiểm toán được chọn
không phải là Big4.
- SIZE: quy mô doanh nghiệp
được tính bằng Logarithm của
tổng tài sản.
- INVREC: Tỷ lệ Nợ phải thu
+ Hàng tồn kho trong Tổng tài
sản.
- GROUP: Biến giả biểu hiện
một công ty có công ty con
hay không. GROUP bằng 1
khi một công ty có công ty
con, bằng 0 nếu không có.
- FORSHA: Phần trăm sở
hữu của các nhà đầu tư nước
ngoài trong doanh nghiệp
(Percentage of shares held by
foreign shareholders).
- DEB_ASSETS: Tỷ lệ nợ
trên tổng tài sản.
- ROA: Tỷ lệ lãi ròng, đo
bằng Lợi nhuận sau thuế chia
cho tổng tài sản.
- U
i
: Phần dư/đại diện cho các
nhân tố khác không có trong
mô hình.
3. Phương pháp nghiên cứu
và nguồn dữ liệu
3.1. Phương pháp nghiên
cứu
Để thực hiện nghiên cứu, tác
giả đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
- Tổng quan các công trình
nghiên cứu của các tác giả
trong và ngoài nước nhằm tìm
hiểu các yếu tố ảnh hưởng
đến quyết định lựa chọn công
ty kiểm toán của các doanh
nghiệp nước ngoài, xác định
các yếu tố lựa chọn tương
đồng với đặc điểm của Việt
Nam.
- Xây dựng mô hình và giả
thuyết nghiên cứu về các yếu
tố ảnh hưởng đến quyết định
lựa chọn công ty kiểm toán tại
Việt Nam, với các biến trong
mô hình là các yếu tố mà tác
giả dự kiến doanh nghiệp Việt
Nam sử dụng làm căn cứ lựa
chọn công ty kiểm toán.
- Thiết kế nội dung thông tin
khảo sát, thu thập, thực hiện
việc điều tra các doanh nghiệp
để thu thập thông tin phục vụ
cho kiểm định và đánh giá mô
hình nghiên cứu.
- Thu thập thông tin và xử
lý dữ liệu. Tác giả sử dụng
phần mềm SPSS20 để hỗ trợ
xử lý dữ liệu nghiên cứu. Do
biến phụ thuộc AUDCHOICE
trong mô hình là biến nhị
phân, nhận 2 giá trị là 0 hoặc
1 (=1 khi doanh nghiệp chọn
công ty kiểm toán Big4 hoặc
=0 khi doanh nghiệp chọn
công ty kiểm toán không phải
là Big4). Do đó tác giả thực
hiện phương pháp phân tích
hồi quy Binary Logistic. Hồi
quy Binary Logistic sử dụng
biến phụ thuộc dạng nhị phân
để ước lượng xác suất một
sự kiện sẽ xảy ra với những
thông tin của biến độc lập.
3.2. Nguồn dữ liệu
Tác giả lựa chọn 100 doanh
nghiệp trên địa bàn Hà Nội
và Thành phố Hồ Chí Minh
để gửi phiếu khảo sát. Về
ngành nghề, các doanh nghiệp
được khảo sát là những doanh
nghiệp với các ngành nghề
kinh doanh như bất động sản,
vật liệu xây dựng, thực phẩm,
dược phẩm hóa chất, sản
xuất các sản phẩm gia dụng,
nhựa, bao bì, doanh nghiệp
thương mại. Các doanh nghiệp
được chọn vào mẫu có đặc
thù là có giá trị hàng tồn kho
trong tổng tài sản của doanh
nghiệp cao. Về quy mô, những
doanh nghiệp được chọn vào
mẫu bao gồm những doanh
nghiệp có quy mô vừa và
nhỏ (chiếm 50% trong mẫu).
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là
doanh nghiệp có giá trị tài
sản nhỏ hơn 100 tỷ đồng theo
Nghị định 56/2009/NĐ-CP
và TT16/2013/TT-BTC. 50%
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
31Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 191- Tháng 4. 2018
doanh nghiệp còn lại trong
mẫu là các doanh nghiệp có
giá trị tài sản lớn hơn 100 tỷ
đồng. Các doanh nghiệp được
chọn để khảo sát chủ yếu là
những doanh nghiệp kiểm
toán với các mục đích quyết
toán thuế, hoàn thiện hồ sơ
thầu, hoàn thiện hồ sơ vay
vốn.
Dữ liệu được thu thập để thực
hiện nghiên cứu là dữ liệu sơ
cấp, được tác giả thu thập trực
tiếp thông qua gửi phiếu khảo
sát trực tiếp tới các nhà quản
lý của các doanh nghiệp như:
Giám đốc hoặc Phó Giám
đốc, kế toán trưởng các doanh
nghiệp được kiểm toán bởi
các công ty kiểm toán độc lập
trong năm 2015. Để đảm bảo
số phiếu khảo sát thu về phù
hợp cho nghiên cứu và kết
quả nghiên cứu là đáng tin
cậy, trong quá trình khảo sát,
tác giả đã gia tăng số doanh
nghiệp được gửi phiếu khảo
sát lên 130 doanh nghiệp. Tuy
nhiên, số phiếu khảo sát thu
về là 105 phiếu, sau khi loại
bỏ 07 phiếu khảo sát không
đầy đủ thông tin