Mục tiêu: Phân tích nguy cơ nhiễm fluor răng sữa của trẻ 5 tuổi sống ở vùng có fluor hoá nước máy ổn định
của thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu bệnh chứng được thực hiện trên 718 trẻ 5 tuổi trong điều tra sức
khỏe răng miệng năm 2011 tại thành phố Hồ Chí Minh. Các trẻ này được chia làm 2 nhóm bệnh và chứng. Nhóm
chứng gồm 554 trẻ không có tình trạng nhiễm fluor răng (Dean=0) và mẹ các trẻ này. Nhóm bệnh gồm 164 trẻ có
tình trạng nhiễm fluor răng từ mức độ nhẹ trở lên (Dean≥2) và mẹ các trẻ này. Hồi cứu tiền sử phơi nhiễm với
fluor qua các nguồn: nguồn nước, sữa bột, viên fluor, thuốc bổ đối với bà mẹ mang thai và trẻ từ khi sinh đến khi
tròn 1 tuổi thông qua bảng câu hỏi phỏng vấn.
Kết quả: Kết quả phân tích hồi quy logistic cho thấy sử dụng viên fluor ở bà mẹ mang thai trong thai kỳ quý
3 đã làm tăng nguy cơ nhiễm fluor trên răng sữa của trẻ 5 tuổi lên gấp 6,3 lần (KTC 95% 2,42-16,45; p<0,05) so
với những trẻ có mẹ không sử dụng viên bổ sung fluor trong giai đoạn này; trẻ bú sữa bình từ khi sinh đến 3
tháng tuổi làm tăng nguy cơ nhiễm fluor răng sữa lên 2,4 lần (1,53-3,82) (p<0,001) so với các trẻ không bú sữa
bình từ 0-3 tháng tuổi; và những trẻ có mẹ sử dụng sữa bột để uống trong 3 tháng cuối của thai kỳ có nguy cơ
nhiễm fluor răng sữa gấp 2,07 lần (1,25-3,45) so với các bà mẹ không uống sữa bột trong thời kì này.
Kết luận: Có những nguồn fluor khác ngoài fluor trong nước máy góp phần làm tăng tỉ lệ nhiễm fluor răng
sữa ở trẻ 5 tuổi sống trong vùng fluor hóa nước máy tại thành phố Hồ Chí Minh.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 324 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguy cơ nhiễm fluor răng ở hệ răng sữa của trẻ 5 tuổi sống trong vùng fluor hóa nước tại Thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 85
NGUY CƠ NHIỄM FLUOR RĂNG Ở HỆ RĂNG SỮA CỦA TRẺ 5 TUỔI
SỐNG TRONG VÙNG FLUOR HÓA NƯỚC TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Yến Nhi*, Hoàng Trọng Hùng*, Nguyễn Thị Thanh Hà*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Phân tích nguy cơ nhiễm fluor răng sữa của trẻ 5 tuổi sống ở vùng có fluor hoá nước máy ổn định
của thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu bệnh chứng được thực hiện trên 718 trẻ 5 tuổi trong điều tra sức
khỏe răng miệng năm 2011 tại thành phố Hồ Chí Minh. Các trẻ này được chia làm 2 nhóm bệnh và chứng. Nhóm
chứng gồm 554 trẻ không có tình trạng nhiễm fluor răng (Dean=0) và mẹ các trẻ này. Nhóm bệnh gồm 164 trẻ có
tình trạng nhiễm fluor răng từ mức độ nhẹ trở lên (Dean≥2) và mẹ các trẻ này. Hồi cứu tiền sử phơi nhiễm với
fluor qua các nguồn: nguồn nước, sữa bột, viên fluor, thuốc bổ đối với bà mẹ mang thai và trẻ từ khi sinh đến khi
tròn 1 tuổi thông qua bảng câu hỏi phỏng vấn.
Kết quả: Kết quả phân tích hồi quy logistic cho thấy sử dụng viên fluor ở bà mẹ mang thai trong thai kỳ quý
3 đã làm tăng nguy cơ nhiễm fluor trên răng sữa của trẻ 5 tuổi lên gấp 6,3 lần (KTC 95% 2,42-16,45; p<0,05) so
với những trẻ có mẹ không sử dụng viên bổ sung fluor trong giai đoạn này; trẻ bú sữa bình từ khi sinh đến 3
tháng tuổi làm tăng nguy cơ nhiễm fluor răng sữa lên 2,4 lần (1,53-3,82) (p<0,001) so với các trẻ không bú sữa
bình từ 0-3 tháng tuổi; và những trẻ có mẹ sử dụng sữa bột để uống trong 3 tháng cuối của thai kỳ có nguy cơ
nhiễm fluor răng sữa gấp 2,07 lần (1,25-3,45) so với các bà mẹ không uống sữa bột trong thời kì này.
Kết luận: Có những nguồn fluor khác ngoài fluor trong nước máy góp phần làm tăng tỉ lệ nhiễm fluor răng
sữa ở trẻ 5 tuổi sống trong vùng fluor hóa nước máy tại thành phố Hồ Chí Minh.
Từ khóa: yếu tố nguy cơ, tình trạng nhiễm fluor răng sữa, vùng fluor hóa nước máy.
ABSTRACT
PRIMARY TOOTH FLUOROSIS RISK AMONG 5-YEAR-OLD CHILDREN LIVING IN FLUORIDATED
AREA IN HO CHI MINH CITY, VIETNAM
Nguyen Thi Yen Nhi, Hoang Trong Hung, Nguyen Thi Thanh Ha
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 2 - 2013: 85 - 91
Objective: The objective of this study was to identify risk factors of primary tooth fluorosis among 5-year-old
children living in fluoridated area in Ho Chi Minh city, Vietnam.
Methods: A case-control study was designed. The study collected data of primary tooth fluorosis among
children at 5 years of age in Ho Chi Minh city from the survey in 2011. The case group included 164 children
with mild-to-moderate enamel fluorosis (Dean index≥2), the control one composed of 554 children without
fluorosis (Dean=0). 718 parents of these children participated in this study. Prenatal and postnatal fluoride
exposures were recruited by questionnaires to parents, including items: (1) during pregnancy: water sources for
cooking/drinking/reconstituting milk-based formulae and use of powdered formulae/fluoride
supplements/multivitamin supplements; (2) during the first year of child’s life: use of infant formulae, water
sources for reconstituting infant formulae and uingse of multivitamin supplements. Results: Logistic regression
indicated that children with their mothers tak fluoride supplement during the last three months of pregnancy had
* Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Yến Nhi, ĐT: 0909289955, Email: yennhinguyenthi@hotmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 86
increased the primary tooth fluorosis risk more than 6.30 times (2.45-16.45) in the ones without using the
supplement (p<0.05). Similarly, consumption of milk-based formulae in the third trimester pregnancy had raised
2.07 folds (1.25-3.45) the fluorosis risk in primary dentition among 5-year-old children (p<0.001). Furthermore, it
was also shown that children being fed by infant formulas during the first 3 months of their life had increased the
primary tooth fluorosis more than 2.42 times (1.53-3.82) comparing the ones with breast-fed (p<0.001).
Conclusion: These findings indicated that the additional fluoride sources, besides fluoridated water, had
contributed in increasing primary tooth fluorosis among 5-year-old children living in fluoridated area in Ho Chi
Minh city.
Keywords: primary tooth, fluorosis risk, fluoridated area.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Fluor đóng một vai trò then chốt trong dự
phòng và kiểm soát sâu răng hiện nay. Với nồng
độ tối ưu, fluor có thể gia tăng tối đa khả năng
dự phòng sâu răng, nhưng ít hoặc không gây ra
tình trạng nhiễm fluor răng (Dean, 1942).
Tại thành phố Hồ Chí Minh, chương trình
fluor hóa nước máy đã được thực hiện từ tháng
1/1990 với nồng độ fluor trong nước là 0,7±0,1
ppm(7). Tháng 6/2000, nồng độ này được điều
chỉnh xuống còn 0,5±0,1 ppm F và được duy trì
cho đến nay(6). Rất nhiều nghiên cứu tại thành
phố Hồ Chí Minh từ năm 1990 đến nay ghi nhận
hiệu quả cũng như tác dụng phụ của fluor do
chương trình đem lại(6,7,12),.
Ngoài các nghiên cứu cho thấy sự giảm tỉ lệ
sâu răng liên quan tới chương trình fluor hóa
nước máy, các nghiên cứu về tình trạng nhiễm
fluor răng cũng được thực hiện nhưng chủ yếu
là trên răng vĩnh viễn, ít có nghiên cứu trên hệ
răng sữa. Một nghiên cứu gần đây(6) cho thấy tỉ lệ
nhiễm fluor trên răng sữa ở trẻ 5 tuổi tại thành
phố Hồ Chí Minh từ mức độ nhẹ trở lên là
15,6%. Răng sữa nhiễm fluor được xem như là
một tín hiệu báo trước về tình trạng và mức độ
nhiễm fluor nặng ở hệ răng vĩnh viễn sau này(4).
Tuy nhiên, gần như chưa có công trình nghiên
cứu nào tại thành phố Hồ Chí Minh đánh giá
nguy cơ nhiễm fluor răng trên hệ răng sữa của
trẻ nhỏ theo sau chương trình fluor hóa nước.
Chính vì vậy nghiên cứu này được thực hiện
nhằm mục đích phân tích những yếu tố đã góp
phần cùng fluor trong nước máy làm tăng nguy
cơ nhiễm fluor răng sữa của trẻ 5 tuổi sống ở
vùng có fluor hoá nước máy ổn định của thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu bệnh chứng.
Đối tượng nghiên cứu
Dân số mục tiêu cụ thể
Trẻ 5 tuổi sống ở vùng fluor hóa nước máy
ổn định tại thành phố Hồ Chí Minh.
Tiêu chí đưa vào
- Trẻ 5 tuổi sống hoàn toàn trong vùng có
fluor hóa nước máy ổn định từ lúc sinh ra đến
năm 2011.
- Đối với bà mẹ: sống liên tục tại quận nghiên
cứu từ lúc mang thai đến khi sinh bé.
- Phụ huynh đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chí loại trừ
- Trẻ vệ sinh răng miệng kém, mảng bám
phủ đầy mặt răng và phụ huynh không đồng ý
cũng như không trả lời bảng câu hỏi phỏng vấn.
Cỡ mẫu và kỹ thuật chọn mẫu
Cỡ mẫu
718 trẻ 5 tuổi (554 trẻ không có nhiễm fluor
răng sữa và 164 có nhiễm fluor răng sữa mức độ
nhẹ theo chỉ số Dean trở lên) và 718 bà mẹ của
các trẻ này.
Kỹ thuật chọn mẫu
Dựa trên dữ liệu điều tra sức khỏe răng
miệng của trẻ 5 tuổi trong năm 2011 tại thành
phố Hồ Chí Minh của bộ môn Nha Khoa Công
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 87
Cộng, Khoa Răng Hàm Mặt Đại học Y Dược
thành phố Hồ Chí Minh, tiến trình chọn lọc mẫu
sẽ được tiến hành như sau:
Bước 1: Chọn lọc các trẻ 5 tuổi đã được khám
tình trạng nhiễm fluor răng sống trong vùng có
fluor hóa nước máy ổn định của thành phố Hồ
Chí Minh.
Bước 2: Phân loại tình trạng nhiễm fluor răng
của trẻ dựa theo chỉ số Dean.
Bước 3: Chọn trẻ vào nhóm bệnh và chứng.
Các đặc điểm nghiên cứu
Nhóm nghiên cứu
Nhóm bệnh: Trẻ 5 tuổi sống trong vùng fluor
hóa nước máy tại thành phố Hồ Chí Minh có
tình trạng nhiễm fluor răng từ mức độ nhẹ trở
lên (Chỉ số Dean ≥ 2).
Nhóm chứng: Trẻ 5 tuổi sống trong vùng
fluor hóa nước máy tại thành phố Hồ Chí
Minh hoàn toàn không có tình trạng nhiễm
fluor răng sữa.
Tiền sử phơi nhiễm với fluor
Đối với bà mẹ mang thai là: Nguồn nước nấu
ăn/uống/pha sữa; sữa bột; viên fluor; thuốc bổ
trong thời kì mang thai.
Đối với trẻ từ khi sinh đến khi tròn 1 tuổi là:
Nguồn nước pha sữa; sữa bột; thuốc bổ được trẻ
sử dụng từ lúc mới sinh đến khi tròn 1 tuổi.
Phương tiện nghiên cứu
Dữ liệu điều tra tình trạng răng nhiễm fluor
của trẻ 5 tuổi tại thành phố Hồ Chí Minh, năm
2011.
Phiếu khám tình trạng nhiễm fluor răng theo
chỉ số Dean của điều tra năm 2011.
Bảng trả lời câu hỏi từ phụ huynh của trẻ
(phụ lục).
Kiểm soát sai lệch thông tin
Dữ liệu về tình trạng nhiễm fluor răng đã
được ghi nhận bởi 3 điều tra viên được định
chuẩn trên lâm sàng: Kappa của nhóm là = 0.71.
Bảng câu hỏi được biên soạn, thử nghiệm trước
khi điều tra chính thức. Phụ huynh được giải
thích về mục đích của Bảng câu hỏi ngay tại
trường học.
Xử lý và phân tích dữ liệu
Dữ liệu nghiên cứu được nhập và phân
tích bằng phần mềm SPSS 11.05. Thống kê mô
tả: Tỉ lệ % và tần suất. Kiểm định χ2 và tỉ số số
chênh OR thô để đánh giá mối quan hệ giữa
nhiễm fluor răng và từng yếu tố liên quan
riêng biệt. Phân tích hồi quy logistic để xác
định yếu tố nguy cơ chính của tình trạng
nhiễm fluor răng sữa.
KẾT QUẢ
Mẫu nghiên cứu gồm 718 trẻ 5 tuổi sống
trong vùng có fluor hóa nước máy ổn định của
thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2011 và bà
mẹ của các trẻ này. Mẫu được hồi cứu dữ liệu
từ cuộc điều tra năm 2011. Kết quả sàng lọc
cuối cùng cho thấy có 554 trẻ (49,5% nam và
50,5% nữ) được xếp vào nhóm chứng (không
có tình trạng nhiễm fluor răng sữa) và 164 trẻ
(59,1% nam và 40,9% nữ) được xếp vào nhóm
bệnh (tình trạng nhiễm fluor răng sữa mức độ
nhẹ trở lên).
Bảng 1: Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
ðối tượng nghiên cứu N
Xác ñịnh cá thể vào nhóm bệnh-chứng
Số trẻ ñược khám tình trạng nhiễm fluor rng 1336
Số trẻ không có tình trạng nhiễm fluor rănăg 554
Số trẻ có tình trạng nhiễm fluor răng nghi ngờ 173
Số trẻ có tình trạng nhiễm fluor răng rất nhẹ 76
Số trẻ có tình trạng nhiễm fluor răng nhẹ trở lên 164
Hồi cứu tiền sử tiếp xúc với fluor
Số bảng câu hỏi gửi ñến phụ huynh học sinh 1336
Số bảng câu hỏi thu hồi lại ñược 1005
Số trẻ bị loại khỏi nhóm bệnh và chứng vì mẹ và/hoặc
bé không sống liên tục trong vùng có fluor hóa nước
máy tại thành phố Hồ Chí Minh từ khi mang thai ñến
khi bé ñược 1 tuổi
38
Số trẻ ở nhóm bệnh và chứng trong nghiên cứu 718
Số trẻ ñược xếp vào nhóm chứng (không có tình
trạng nhiễm fluor răng)
554
Nam 274
Nữ 280
Số trẻ ñược xếp vào nhóm bệnh (tình trạng nhiễm
fluor răng nhẹ trở lên)
164
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 88
ðối tượng nghiên cứu N
Nam 97
Nữ 67
Nước máy của thành phố là nguồn nước
chính (trên 80%) được sử dụng để nấu ăn và
uống của các bà mẹ trong mẫu nghiên cứu
trong thời kỳ mang thai và của trẻ từ khi sinh
đến 1 tuổi.
Thành phố Hồ Chí Minh hiện đang có
chương trình fluor hoá nước với nồng độ fluor
hóa nước máy là 0,5±0,1 ppm(6), điều này có
nghĩa là các cá thể trong mẫu nghiên cứu đang
được hưởng nguồn fluor từ chương trình này.
Sự phân bố đồng đều nguồn nước sử dụng giữa
2 nhóm nghiên cứu sẽ tạo tiền đề thuận lợi cho
các phân tích nguy cơ nhiễm fluor từ những
nguồn fluor thêm vào ngoài fluor trong nước
uống của trẻ trong nghiên cứu này(11).
Bảng 2: Phân tích hồi quy logistic về các yếu tố nguy cơ nhiễm fluor răng ở hệ răng sữa của trẻ 5 tuổi có tình
trạng nhiễm fluor răng từ mức độ nhẹ trở lên
Tham số
Chứng Bệnh Hệ số B OR thô
(KTC 95%)
OR** hiệu chỉnh
(KTC 95%)
P
N(%) N(%)
Nước nấu ăn của mẹ khi mang thai
Không phải nước máy * 21 (3,8) 4 (2,4)
-0,55
1,58 0,59
0,488
Nước máy 533(96,2) 160(97,6) (0,53-4,66) (0,14-2,60)
Nước uống của mẹ khi mang thai
Không phải nước máy * 106(19,1) 20(12,2)
0,68
1,70 1,92
0,114
Nước máy 448(80,9) 144(87,8) (1,02-2,85) (0,86-4,30)
Nước pha sữa cho mẹ khi mang thai
Không phải nước máy * 38(9,9) 10(7,8)
-0,13
1,30 0,93
0,822
Nước máy 347(90,1) 119(92,2) (0,63-2,70) (0,47-1,83)
Nước pha sữa cho trẻ
Không phải nước máy * 42(8,2) 11(7,1)
-0,43
1,16 0,67
0,569
Nước máy 470(91,8) 143(92,9) (0,58-2,32) (0,16-2,71)
Thời gian mẹ uống sữa bột trong thai kỳ
Thai kỳ 0-3 tháng Không* 360(65,0) 89(54,3)
0,28
1,56 1,34
0,224
Có 194(35,0) 75(45,7) (1,10-2,23) (0,83-2,16)
Thai kỳ 3-6 tháng Không* 289(52,2) 82(50,0)
-0,04
1,09 0,96
0,899
Có 265(47,8) 82(50,0) (0,78-1,55) (0,55-1,70)
Thai kỳ 6-9 tháng Không* 374(67,5) 82(50,0)
0,73
2,08 2,07
0,003
Có 180(32,5) 82(50,0) (1,46-2,96) (1,25-3,45)
Thời gian trẻ bú sữa bình
0-3 tháng tuổi Không* 362(65,3) 84(51,2)
0,88
1,80 2,42
<0,001
Có 192(34,7) 80(48,8) (1,26-2,56) (1,53-3,82)
3-6 tháng tuổi Không* 269(48,6) 87(53,0)
-0,40
0,84 0,66
0,110
Có 285(51,4) 77(47,0) (0,59-1,18) (0,40-1,10)
6 tháng-1 tuổi Không* 258(46,6) 81(49,4)
-0,04
0,89 0,97
0,910
Có 296(53,4) 83(50,6) (0,63-1,27) (0,54-1,72)
Thời gian sử dụng viên fluor trong thai kỳ
Thai kỳ 0-3 tháng Không * 540(97,5) 155(94,5)
-0,24
2,24 0,56 0,378
Có 14(2,5) 9(5,5) (0,95-5,27) (0,16-2,03)
Thai kỳ 3-6 tháng Không * 525(94,8) 151(92,1)
-0,25
1,56 0,46 0,212
Có 29(5,2) 13(7,9) (0,79-3,07) (0,14-1,55)
Thai kỳ 6-9 tháng Không * 539(97,3) 143(87,2)
1,84
5,28 6,30 0,025
Có 15(2,7) 21(12,8) (2,65-10,50) (2,41-16,45)
Thời gian sử sụng thuốc bổ trong thai kỳ
Thai kỳ 0-3 tháng Không* 390(70,5) 106(64,6)
0,24
1,31 1,24
0,440
Có 163(29,5) 58(35,4) (0,91-1,89) (0,72-2,13)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 89
Tham số
Chứng Bệnh Hệ số B OR thô
(KTC 95%)
OR** hiệu chỉnh
(KTC 95%)
P
N(%) N(%)
Thai kỳ 3-6 tháng Không* 319(57,7) 98(59,8)
-0,07
0,92 1,01
0,966
Có 234(42,3) 66(40,2) (0,64-1,31) (0,57-1,79)
Thai kỳ 6-9 tháng Không* 373(67,5) 110(67,1)
-0,17
1,02 0,83
0,534
Có 180(32,5) 54(32,9) (0,71-1,47) (0,47-1,49)
Thời gian trẻ sử dụng thuốc bổ từ khi sinh ñến 1 tuổi
0-3 tháng tuổi Không* 510(92,2) 159(97,0)
-1,01
0,37 0,34
0,050
Có 43(7,8) 5(3,0) (0,15-0,96) (0,11-1,00)
3-6 tháng tuổi Không* 474(85,7) 142(86,6)
-0,17
0,93 0,85
0,676
Có 79(14,3) 22(13,4) (0,56-1,55) (0,39-1,84)
6 tháng-1 tuổi Không* 438(79,2) 128(78,0)
0,17
1,07 0,94
0,872
Có 115(20,8) 36(22,0) (0,70-1,64) (0,45-1,99)
(*) Biến số tham chiếu, (**) Đã hiệu chỉnh với các tham số trong bảng và giới tính của trẻ
Nếu xét riêng từng yếu tố, bà mẹ dùng nước
máy để uống khi mang thai làm tăng nguy cơ
nhiễm fluor răng sữa lên 1,7 lần (p<0,05) so với
bà mẹ không dùng nước máy để uống trong thai
kỳ. Tuy nhiên, khi lượng giá chung các yếu tố
tiền sử sử dụng nước của bà mẹ mang thai và
của trẻ với nhau, không tìm thấy mối liên quan
giữa tiền sử sử dụng nước để nấu ăn/uống/pha
sữa cho bà mẹ mang thai và tiền sử sử dụng
nước để pha sữa cho trẻ từ lúc sinh đến 1 tuổi
với tình trạng nhiễm fluor răng sữa từ mức độ
nhẹ trở lên ở trẻ 5 tuổi.
Tuy nhiên, kết quả phân tích hồi quy tổng
thể các yếu tố nguy cơ (OR hiệu chỉnh, Bảng 2)
cho thấy: Sử dụng viên fluor trong 3 tháng cuối
thai kỳ được xem là yếu tố nguy cơ chính gây
nhiễm fluor răng sữa. Bà mẹ sử dụng viên fluor
trong giai đoạn mang thai tháng thứ 6 đến tháng
thứ 9 làm tăng nguy cơ gây nhiễm fluor răng sữa
lên gấp 6,30 lần (KTC 95%: 2,41-16,45) so với các
bà mẹ không sử dụng viên fluor trong giai đoạn
này (p<0,05).
Ngoài ra, cho trẻ bú sữa bình từ khi sinh đến
3 tháng tuổi cũng là yếu tố nguy cơ gây nhiễm
fluor răng sữa. Trẻ bú sữa bình từ khi sinh đến 3
tháng tuổi có nguy cơ nhiễm fluor răng sữa cao
gấp 2,42 lần (KTC 95%: 1,53-3,82) so với trẻ
không bú bình trong khoảng thời gian tương
ứng. Sự khác biệt này rất có ý nghĩa về mặt
thống kê (p<0,001).
Bà mẹ sử dụng sữa bột trong thai kỳ quý 3
cũng được xem là một yếu tố nguy cơ gây nhiễm
fluor răng sữa, trẻ có mẹ sử dụng sữa bột trong
thai kỳ từ tháng thứ 6 đến tháng thứ 9 có nguy
cơ nhiễm fluor răng sữa cao gấp 2,07 lần (KTC
95%: 1,25-3,45) so với những trẻ có mẹ không sử
dụng sữa bột trong cùng giai đoạn (p<0,01).
BÀN LUẬN
Tiền sử sử dụng sữa bột
Theo kết quả phân tích tổng thể của tất cả các
yếu tố liên quan (Bảng 2), chỉ những bà mẹ có
uống sữa bột trong thai kỳ quý 3 mới làm tăng
nguy cơ gây nhiễm fluor răng sữa của trẻ 5 tuổi,
cụ thể là những trẻ có mẹ sử dụng sữa bột trong
3 tháng cuối của thai kỳ có nguy tăng nhiễm
fluor răng ở trẻ 5 tuổi gấp 2,42 lần (KTC 95%:
1,53-3,82) so với những trẻ có mẹ không sử dụng
sữa bột trong giai đoạn này (p<0,001). Điều này
có vẻ phù hợp về mặt mô học vì giai đoạn thai
kỳ 6-9 tháng là giai đoạn các mầm răng sữa bắt
đầu khoáng hóa và do đó rất nhạy cảm với sự
phơi nhiễm fluor, dẫn đến tình trạng nhiễm
fluor răng sữa(8).
Những trẻ có bú bình từ khi sinh đến 3 tháng
tuổi sẽ làm tăng nguy cơ nhiễm fluor răng sữa
lên 2,45 lần so với những trẻ không dùng sữa bột
trong 3 tháng đầu đời. Không tìm thấy mối liên
quan này ở giai đoạn trẻ từ 3 tháng tuổi đến 12
tháng tuổi. Rõ ràng, tiền sử sử dụng sữa bột (sữa
bình) trong 3 tháng đầu đời của trẻ được xem là
yếu tố nguy cơ nhiễm fluor răng của trẻ 5 tuổi
trong nghiên cứu này.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 90
Thực tế, lúc trẻ mới sinh, các răng cối sữa chỉ
mới hình thành được các múi (hay đỉnh múi);
trong khi đó, các răng cửa sữa và răng nanh sữa
đã hình thành được 1/3 đến 5/6 men răng[1]. Đến
khoảng 3 tháng tuổi, hầu như các răng cửa sữa
và răng nanh sữa đã hình thành xong thân răng.
Tuy nhiên, tại thời điểm này, các răng cối sữa
vẫn còn trong giai đoạn đầu của quá trình
khoáng hóa. Đến giai đoạn 6-9 tháng tuổi, chỉ
còn các răng cối sữa tiếp tục quá trình khoáng
hóa ở giai đoạn cuối. Theo Denbesten (1999),
nguy cơ nhiễm fluor răng thấp nhất khi men
răng bị phơi nhiễm với fluor trong giai đoạn chế
tiết, và cao nhất khi phơi nhiễm trong giai đoạn
chế tiết và trưởng thành(2). Từ đó, có thể suy luận
rằng giai đoạn 3 tháng đầu đời của trẻ, khoảng
thời gian mà bộ răng sữa đang trong giai đoạn
chế tiết và trưởng thành men răng, là giai đoạn
có nguy cơ nhiễm fluor răng cao. Hơn nữa, các
bà mẹ uống sữa bột trong thai kỳ quý 3 trong
nghiên cứu này có nguy cơ gây nhiễm fluor răng
sữa cao cũng có thể góp phần làm tăng nguy cơ
nhiễm fluor răng sữa nói chung.
Levy (2002) đã đề cập đến giai đoạn nhạy
cảm nhất đối tình trạng nhiễm fluor răng sữa là
lúc trẻ đạt 6-9 tháng tuổi và tình trạng này chủ
yếu phát hiện trên răng cối sữa thứ hai(10). Thực
tế nghiên cứu ở trẻ 5 tuổi sống trong vùng fluor
hóa nước máy tại thành phố Hồ Chí Minh đã sử
dụng chỉ số Dean, tình trạng nhiễm fluor răng
sữa được ghi nhận trên cặp răng nặng nhất,
trong khi đó tình trạng nhiễm fluor răng sữa
được khám bằng chỉ số TSIF trong nghiên cứu
của Levy (2002) ở Iowa. Mặc dù nhấn mạnh giai
đoạn 6-9 tháng tuổi là nhạy cảm nhất với sự phơi
nhiễm fluor, nhưng Levy cũng không phủ nhận
sự phơi nhiễm quá mức fluor ở những giai đoạn
khác vẫn có thể làm gia tăng tình trạng nhiễm
fluor răng sữa của trẻ nhỏ.
Tiền sử sử dụng viên fluor của các bà mẹ
trong thời kỳ mang thai trẻ
Bà mẹ sử dụng viên fluor trong giai đoạn
mang thai tháng thứ 6 đến tháng thứ 9 làm
tăng nguy cơ gây nhiễm fluor răng sữa lên gấp
6,30 lần (KTC 95%: 2,41-16,45) so với các bà mẹ
không sử dụng viên fluor trong giai đoạn này
(p = 0,025).
Điều đáng quan tâm ở đây là có hiện tượng
sử dụng viên fluor để ngừa sâu răng cho trẻ từ
lúc các bà mẹ còn mang thai tại các quận có fluor
hoá nước máy tại thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay, mặc dầu CDC đã khuyến cáo, việc bổ sung
fluor này chỉ cần thiết cho những cá thể sống
trong cộng đồng có nồng