Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 535
NHÂN BA TRƯỜNG HỢP BỆNH GẠO HEO DƯỚI DA 
TẠI BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI TP HỒ CHÍ MINH 2010 
Trần Phủ Mạnh Siêu*, Trần Thị Kim Dung**, Trần Vinh Hiển* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Bệnh gạo heo rất phổ biến ở Việt Nam trước đây, khi tập quán nuôi heo thả rong còn phổ biến. 
Tuy nhiên, gần mười năm trở lại đây, bệnh hiếm dần nhưng không mất hẳn mà vẫn còn xuất hiện rải rác ở 
nhiều nơi. Trong năm 2010, bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới TP.HCM đã ghi nhận vài trường hợp bệnh gạo heo thể 
dưới da điển hình, bệnh nhân đi khám nhiều nơi nhưng không xác định được bệnh. Về dịch tễ học, các bệnh nhân 
đều cư trú tại TP.HCM, nguồn lây bệnh không rõ, gia đình không có ai mắc bệnh tương tự. Tất cả ba bệnh nhân 
đều đáp ứng tốt với điều trị đặc hiệu bằng albendazole 800 mg/ngày từ bốn –sáu tuần. Đây là những trường 
hợp lẻ tẻ nhưng vẫn gióng lên hồi chuông báo động về bệnh gạo heo trong cộng đồng cư dân TP.HCM, nơi được 
xem là tốt về an toàn vệ sinh thực phẩm. 
Mục tiêu nghiên cứu: Báo cáo ba trường hợp lâm sàng bệnh gạo heo dưới da điển hình. 
Vật liệu và Phương pháp: Các bệnh nhân được chẩn đoán bằng kỹ thuật ELISA phát hiện kháng thể IgG 
kháng cysticercosis, điều trị đặc hiệu bằng albendazole 800 mg/ngày trong vòng 4-6 tuần. 
Kết quả: Qua ba trường hợp lâm sàng điển hình, nghiên cứu ghi nhận bệnh gạo heo có biểu hiện lâm sàng 
ngoài da khá phong phú, từ nốt dưới da phân bố ở cẳng tay, cẳng chân, đến vùng da bụng và sau tai, triệu chứng 
có thể đỏ, đau hoặc không đỏ, nhưng đau, thời gian phát hiện bệnh từ 2 tuần đến hơn 1 năm. Huyết thanh chẩn 
đoán có hai trường hợp dương tính, 1 trường hợp âm tính. Đáp ứng tốt với điều trị đặc hiệu bằng albendazole 
800 mg/ngày trong vòng 4-6 tuần. 
Kết luận: Bệnh gạo heo vẫn còn tồn tại trong cộng đồng tại TP HCM, có biểu hiện lâm sàng phong 
phú;chẩn đoán bằng kỹ thuật ELISA kết hợp với lâm sàng, đáp ứng tốt với điều trị bằng albendazole 800 
mg/ngày trong vòng 4-6 tuần. 
Từ khóa: Bệnh gạo heo dưới da, bệnh gạo heo, albendazole. 
ABSTRACT 
3 CASES OF SKIN CYSTICERCOSIS AT HOSPITAL FOR TROPICAL DISEASES IN 2010 
Tran Phu Manh Sieu, Tran Thi Kim Dung, Tran Vinh Hien 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 536 - 539 
Background: Cysticercosis was common in the past 20 years, when the pigs were let on the farm. But in 
recent years, this disease is rare. In 2010, we still detected 3 cases of typical skin cysticercosis at hospital for 
Tropical Diseases of Hochiminh city. Those patients have habitated in HCM city; there were no similar case in 
their families. The clinical symptoms were variety from solid nodules under skin without pain to unhder skin 
nodules with red and pain. All three cases were responsed with albendazole 800mg /day for 4-6weeks. 
Objective: Describing typical clinical cases. 
Material and methods: Those patients were diagnosed by ELISA to detect IgG antibody to Cysticercus 
cellulosae and were treated by albendazole 800 mg/day within 4-6 weeks. 
*: Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới **: Bộ môn ký sinh học-Khoa Y-Đại học Y Dược TP. HCM 
Tác giả liên lạc: TS. BS Trần Phủ Mạnh Siêu ĐT: 0983990477, Email: 
[email protected]
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 536 
Outcome: All 3 cases had good response to specific therapy by albendazole. 
Conclusion: Skin cysticercosis is exist in Hochiminh community, the clinical features are variety. Diagnosis 
is ELISA technique and specific therapy is albendazole 800mg /day for 4-6weeks. 
Key words: Skin cysticercosis, cysticercosis, albendazole. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh nhiễm gạo heo các thể lâm sàng trước 
đây khá phổ biến ở nước ta. Tuy nhiên trong hai 
thập niên trở lại đây bệnh tương đối hiếm, có 
thể do điều kiện vệ sinh môi trường tốt hơn và 
giảm dần thói quen nuôi heo thả rong. Tuy vậy, 
tại bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới TP. HCM chúng 
tôi vẫn phát hiện những trường hợp bị gạo heo 
lẻ tẻ, hay gặp nhất là gạo heo dưới da. Điều này 
chứng tỏ bệnh gạo heo vẫn còn trong cộng đồng 
và các thầy thuốc không nên chủ quan để tránh 
bỏ sót bệnh. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Mô tả trường hợp lâm sang. 
Tìm hiểu phương pháp chẩn đoán phát hiện 
bệnh. 
Điều trị đặc hiệu và theo dõi đáp ứng với 
điều trị đặc hiệu. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Tiêu chuẩn đưa vào nghiên cứu 
Bệnh nhân có bệnh gạo heo thể ngoài da 
điển hình. 
Phương pháp nghiên cứu 
Mô tả từng ca. 
Cỡ mẫu nghiên cứu 
3 trường hợp nhiễm gạo heo dưới da điển 
hình. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Bệnh án 1 
Hành chánh 
Họ tên: Nguyễn Tường T., 48 tuổi, sinh năm 
1962. 
Địa chỉ: Nguyễn Đình Chính, P 15, quận Phú 
Nhuận. 
Khám bệnh ngày 23/6/2010. 
Lý do khám bệnh 
Nốt cục dưới da vùng bụng, tay, chân. 
Bệnh sử 
Khoảng 20 ngày nay bệnh nhân thấy xuất 
hiện những nốt cục ở dưới da vùng bụng, cẳng 
tay và cẳng chân, không đau, không đỏ nên đến 
BV BNĐ khám bệnh. 
Khám 
Bệnh tỉnh, không sốt, mạch, huyết áp bình 
thường. 
Nốt cứng dưới da ở vùng cẳng tay, cẳng 
chân, da bụng, kích thước 2x2 cm, vùng da phía 
trên không đỏ, ấn không đau, chắc, không di 
động dưới da. 
Cận lâm sàng 
CTM: BC 5120/mm3, bạch cầu toan tính 
(BCTT): 1,76%. 
Huyết thanh chẩn đoán Cysticercosis: dương 
tính 1,24. 
Soi phân: âm tính. 
Chẩn đoán 
Theo dõi nốt gạo heo dưới da. 
Điều trị 
Albendazole 400mg. 1viên X 2/ ngày, uống 3 
tuần. 
Tái khám sau 3 tuần 
Các nốt cũ có giảm kích thước, không thấy 
nổi thêm nốt mới. 
CTM: BC 7340 (BCTT: 3,6%). 
Tái khám sau 7 tuần 
Các nốt gạo heo biến mất hoàn toàn. 
Bệnh án 2 
Hành chánh 
Họ tên: Nguyễn Thi Thanh H., 16 tuổi. 
Địa chỉ: Lương Nhữ Học, Quận 5, TP HCM. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 537
Khám bệnh ngày 11/7/2010. 
Lý do khám bệnh 
Nốt cục dưới da vùng cẳng tay. 
Bệnh sử 
Khoảng 1 năm nay bệnh nhân thấy xuất hiện 
những nốt cục ở dưới da vùng cẳng tay, sau tai, 
ngứa nhẹ, không đau, đi khám ở nhiều BV 
không đỡ nên đến BV BNĐ khám bệnh. 
Khám 
Bệnh tỉnh, không sốt, mạch, huyết áp bình 
thường. 
Nốt cứng dưới da ở vùng cẳng tay, nhỏ, kích 
thước 1x1 cm, chắc, không di động dưới da, 
không đỏ, không đau. Vài nốt nhỏ kích thước 
tương tự vùng sau tai, cứng chắc, không đau. 
Cận lâm sàng 
CTM: BC 6189/mm3, BCTT: 2,13%. 
Huyết thanh chẩn đoán Cysticercosis: 
âm tính. 
Soi phân: âm tính. 
Chẩn đoán 
Theo dõi nốt gạo heo dưới da 
Điều trị 
Albendazole 400mg. 1viên X 2/ ngày, uống 2 
tuần. 
Tái khám sau 2 tuần 
Các nốt cũ một số biến mất, một số có giảm 
kích thước, không thấy nổi thêm nốt mới. 
CTM: BC 5327 (BCTT: 2,05%). 
Cho uống thuốc thêm 2 tuần. 
Tái khám sau 6 tuần 
Các nốt gạo heo hầu hết biến mất, chỉ còn 
hai nốt nhỏ ở mặt trong cẳng tay trái, 0,5cm x 
0,5cm. 
Bệnh án 3 
Hành chánh 
Họ tên: Lê Văn L., 54 tuổi. 
Địa chỉ:Quận Bình Chánh, TP HCM. 
Khám bệnh ngày 14/7/2010. 
Lý do khám bệnh 
Nốt cục dưới da vùng cẳng chân, cẳng tay. 
Bệnh sử 
Khoảng 2 tháng nay bệnh nhân thấy xuất 
hiện những nốt cục ở dưới da vùng cẳng 
chân,tay, đau, bề mặt da trên khối u xung 
huyết, màu đỏ, khối u cứng, chắc, bệnh nhân 
đi khám ở BV huyện không đỡ nên đến BV 
BNĐ khám bệnh. 
Khám 
Bệnh tỉnh, không sốt, mạch, huyết áp 
bình thường. 
Nốt cứng dưới da ở vùng cẳng chân, nhiều 
nốt trước xương chày kích thước 2x2cm, da 
trên nốt đỏ, hơi viêm. Các nốt ở tay nhỏ, kích 
thước 2x2 cm, chắc, không di động dưới da, 
không đau. 
Cận lâm sàng 
CTM: BC 5221/mm3, BCTT: 1,37%. 
Huyết thanh chẩn đoán Cysticercosis: dương 
tính 1,23. 
Soi phân: âm tính. 
Chẩn đoán 
Theo dõi nốt gạo heo dưới da. 
Điều trị 
Albendazole 400mg. 1viên X 2/ ngày, uống 2 
tuần. 
Tái khám sau 2 tuần 
Các nốt gạo heo ở cẳng chân biến mất, còn 
một số nốt ở cẳng tay, có giảm kích thước, 
không thấy nổi thêm nốt mới. 
CTM: BC: 6128/mm3 (BCTT: 1, 57 %). 
Cho uống thuốc thêm 2 tuần. 
Tái khám sau 4 tuần 
Các nốt gạo heo biến mất hoàn toàn. 
BÀN LUẬN 
Bệnh học 
Đặc tính của ký sinh trùng (1,9) 
Bệnh gạo heo là bệnh gây ra do nuốt phải 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Nội Khoa 538 
trứng sán từ môi trường hay do tự nhiễm: khi 
bệnh nhân có chứa con trưởng thành trong ruột 
non, nếu do bệnh nhân có phản nhu động ruột, 
đốt sán dải heo sẽ trào ngược lên dạ dày, vỡ ra, 
trứng sán được phóng thích. Ấu trùng thoát ra 
khỏi vỏ trứng xuyên qua thành ruột, theo máu 
đi chu du khắp cơ thể, tạo thành gạo. Nang gạo 
heo có thể lên não, mắt, gan, cơ tim, mô dưới da. 
Lâm sàng 
Theo y văn (1 ,9), triệu chứng lâm sàng điển 
hình của bệnh gạo heo dưới da do ấu trùng sán 
dải heo xâm nhập vào mô dưới da tạo nên 
những nốt cứng, chắc, lúc mới xuất hiện gây 
đau, có khi sốt, sau nhiều tháng nang gạo heo 
nhỏ dần và hóa vôi, bệnh nhân thấy giảm đau 
dần và hết đau, tuy nhiên vẫn có cảm giác cộm, 
khó chịu. Bệnh có thể tự khỏi mặc dầu có để lại 
những nốt vôi hóa dưới da. 
Ba trường hợp vừa trình bày, bệnh nhân đều 
nổi nốt cứng dưới da, mới đầu đau nhẹ, sau đó 
nốt cứng và nhỏ dần, tồn tại từ 1 tháng đến 2 
năm. Có một trường hợp bệnh nhân xuất hiện 
nốt cứng dưới da và đau, đỏ tại chỗ, hai trường 
hợp còn lại bệnh nhân không cảm thấy đau, 
không đỏ, xuất hiện mà bệnh nhân không biết. 
Một trường hợp bệnh nhân ở quận Phú 
Nhuận có nhiều nốt gạo heo ở da vùng cẳng tay, 
cẳng chân, da vùng bụng. Một trường hợp bệnh 
nhân ở Quận 5, chỉ có nốt cứng dưới da vùng 
cẳng tay, cổ, sau gáy và sau vành tai hai bên. 
Như vậy sự phân bố của các nốt gạo heo 
cũng như tính chất của nốt gạo heo dưới da 
cũng khác nhau trên từng bệnh nhân (sưng, 
nóng, đỏ, đau hoặc không có triệu chứng). 
Cận lâm sàng 
Theo y văn, bệnh gạo heo được chẩn đoán 
bằng phối hợp nhiều kỹ thuật(5,6). 
Công thức máu có bạch cầu toan tính tăng 
cao. 
Huyết thanh chẩn đoán ELISA tìm kháng 
thể IgG đặc hiệu. 
Chụp X quang vùng cơ thể nghi có nốt gạo 
heo, tìm hình ảnh nang hóa vôi. 
Sinh thiết mô dưới da, tìm thân ấu trùng sán 
trên tiêu bản. 
Bệnh gạo heo ở các cơ quan khác như não, 
mắt, nội tạng phải chụp CT scan, MRI não hoặc 
bụng để tìm vị trí và hình ảnh nang ấu trùng đặc 
trưng(7). 
Trên các bệnh nhân vừa trình bày ở trên, 
chúng tôi không có điều kiện làm sinh thiết mô 
dưới da, cũng không chụp CT Scan, MRI, chỉ 
làm huyết thanh chẩn đoán kết hợp với lâm 
sàng để chẩn đoán xác định. Đây cũng là hạn 
chế chung hiện nay ở các cơ sở y tế khi chưa có 
đủ phương tiện chẩn đoán hình ảnh học. Tuy 
nhiên có thể sử dụng các kỹ thuật đơn giản như 
làm công thức máu và ELISA để xác định bệnh. 
Chẩn đoán 
Có hai bệnh nhân có huyết thanh chẩn đoán 
dương tính với Cysticercus cellulosae, một bệnh 
nhân có huyết thanh chẩn đoán âm tính. 
Theo y văn (7,8), để chẩn đoán xác định bệnh 
gạo heo cần phối hợp nhiều kỹ thuật khác nhau 
như sinh thiết mô, chụp x quang, CT scan, MRI... 
Điều trị đặc hiệu và theo dõi đáp ứng với điều 
trị cũng là một cách chẩn đoán gián tiếp. 
Chúng tôi chỉ thực hiện huyết thanh chẩn 
đoán gạo heo(6,7), tuy nhiên theo y văn, khi 
nang gạo heo hóa vôi thì huyết thanh chẩn 
đoán ELISA cũng âm tính. Trong báo cáo trên, 
có một bệnh nhân bị gạo heo trên một năm, 
huyết thanh chẩn đoán gạo heo âm tính là phù 
hợp với y văn. 
Điều trị 
Chúng tôi tiến hành điều trị đặc hiệu bằng 
albendazole 800 mg/ngày trong 4 tuần, tất cả ba 
bệnh nhân đều đáp ứng tốt, hết hẳn các nốt gạo 
heo sau 4 tuần điều trị. 
Mặt khác, điều trị đặc hiệu và đáp ứng với 
điều trị cũng là chẩn đoán gián tiếp, trên cả ba 
bệnh nhân đều có đáp ứng tốt với điều trị, do đó 
có thể khẳng định các nốt dưới da bệnh nhân là 
nang gạo heo, điều này phù hợp với y văn(3,4). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 539
KẾT LUẬN 
Bệnh gạo heo hiện nay tuy có giảm đi nhiều 
song vẫn còn hiện diện trong cộng đồng, đây là 
vấn đề cần có sự quan tâm của các thầy thuốc, 
các nhà dịch tễ học và cán bộ thú y để cùng phối 
hợp đề ra biện pháp ngăn chặn hữu hiệu nhất 
cho cộng đồng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1 Botero D, Tanowitz HB, Weiss LM, Wittner M (1993). Taeniasis 
and cysticercosis. Infect Dis Clin North Am, 7 (3): 683-697. 
2 Das K, Mondal GP, Banerjee M, Mukherjee BB, Singh OP 
(2007). Role of antiparasitic therapy for seizures and resolution 
of lesions in neurocysticercosis patients: an 8 year randomised 
study. J Clin Neurosci, 14(12): 1172-1177. 
3 Del Brutto OH, Roos KL, Coffey CS, Garcia HH (2006). Meta-
analysis: Cysticidal drugs for neurocysticercosis: albendazole 
and praziquantel. Ann Intern Med, 145(1): 43-51. 
4 Gongora-Rivera F, Soto-Hernandez JL, Gonzalez Esquivel D, 
Cook HJ, Marquez-Caraveo C, Hernandez Davila R, et al 
(2006). Albendazole trial at 15 or 30 mg/kg/day for 
subarachnoid and intraventricular 
cysticercosis. Neurology, 66(3): 436-438. 
5 Kramer LD, Locke GE, Byrd SE (1989). Cerebral cysticercosis: 
documentation of natural history with CT. Radiology, 171 (2): 
459-62. 
6 Phan Anh Tuấn (2004). Ứng dụng kỹ thuật ELISA bằng kháng 
nguyên dịch nang để chẩn đoán Cysticercus cellulosae, Đại 
học Y Dược TP. Hồ Chí Minh và các đặc điểm của bệnh này tại 
các bệnh viện TP. Hồ Chí Minh 1992-2000. Luận Án Tiến Sĩ Y 
Học, thành phố Hồ Chí Minh. 
7 Richards F Jr, Schantz PM (1991). Laboratory diagnosis of 
cysticercosis. Clin Lab Med, 11(4): 1011-1028. 
8 Sciutto E, Chavarria A, Fragoso G, Fleury A, Larralde C 
(2007). The immune response in Taenia solium cysticercosis: 
protection and injury. Parasite Immunol, 29(12): 621-636. 
9 Trần Vinh Hiển, Trần Thị Kim Dung (2008). Bệnh động vật ký 
sinh do ăn phải ấu trùng trong thực phẩm. TRẦN VINH 
HIỂN, TRẦN THỊ KIM DUNG. Ký Sinh Trùng Liên Quan 
Giữa Thú Và Người, 1, 121-125. Nhà Xuất Bản Y Học, Tp. Hồ 
Chí Minh.