Chúng tôi báo cáo một trường hợp bạch cầu cấp tiền tủy bào bị phản ứng đỏ da toàn thân do ATRA (all‐
trans retinoic acid), thất bại với điều trị tấn công Daunorubicin liều chuẩn đơn thuần. Bệnh nhân đạt được lui
bệnh hoàn toàn về huyết tủy đồ với điều trị tái tấn công Arsenic trioxide đơn độc. Bệnh nhân cũng đạt được lui
bệnh về sinh học phân tử với t(15;17) và PML‐RARα (‐) sau điều trị củng cố bằng Arsenic trioxide. Chúng tôi
không ghi nhận tác dụng phụ của arsenic trioxide ngoại trừ tình trạng sạm da mức độ nhẹ.
6 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 222 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân điều trị thành công một trường hợp bạch cầu cấp tiền tủy bào kháng trị bằng arsenic trioxide đơn độc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 265
NHÂN ĐIỀU TRỊ THÀNH CÔNG MỘT TRƯỜNG HỢP BẠCH CẦU CẤP
TIỀN TỦY BÀO KHÁNG TRỊ BẰNG ARSENIC TRIOXIDE ĐƠN ĐỘC
Ngô Ngọc Ngân Linh*, Cồ Nguyễn Phương Dung**, Nguyễn Ngọc Quế Anh*, Võ Thị Kim Hoa**,
Trần Quốc Tuấn***
TÓM TẮT
Chúng tôi báo cáo một trường hợp bạch cầu cấp tiền tủy bào bị phản ứng đỏ da toàn thân do ATRA (all‐
trans retinoic acid), thất bại với điều trị tấn công Daunorubicin liều chuẩn đơn thuần. Bệnh nhân đạt được lui
bệnh hoàn toàn về huyết tủy đồ với điều trị tái tấn công Arsenic trioxide đơn độc. Bệnh nhân cũng đạt được lui
bệnh về sinh học phân tử với t(15;17) và PML‐RARα (‐) sau điều trị củng cố bằng Arsenic trioxide. Chúng tôi
không ghi nhận tác dụng phụ của arsenic trioxide ngoại trừ tình trạng sạm da mức độ nhẹ.
Từ khóa: Bạch cầu cấp tiền tủy bào, kháng trị, all‐trans retinoic acid, Arsenic trioxide
ABSTRACT
THE SUCCESSFUL TREATMENT OF A CASE OF REFRACTORY ACUTE PROMYELOCYTIC
LEUKEMIA USING ALONE ARSENIC TRIOXIDE
Ngo Ngoc Ngan Linh , Nguyen Ngoc Que Anh, Co Nguyen Phuong Dung , Vo Thi Kim Hoa ,
Tran Quoc Tuan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 5 ‐ 2013: 265 ‐ 270
We report a patient with acute promyelocytic leukemia who suffered a severe erythema reaction by all‐trans
retinoic acid (ATRA). The patient was failure to treatment with daunorubicin chemotherapy but achieved a
hematological complete remission after reinduction treatment with alone arsenic trioxide. After consolidation
therapy with arsenic trioxide, he got a molecular biological remission with disappearance of t(15;17) and PML‐
RARα fusion gene. No side effect of arsenic trioxide was found exception mild tanning reaction.
Key words: acute promyelocytic leukemia, all‐trans retinoic acid, arsenic trioxide, molecular biological
remission.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bạch cầu cấp tiền tủy bào (BCCTTB), được
gọi là BCCDT type M3 theo phân loại Pháp‐Mỹ‐
Anh (FAB), là một dưới nhóm đặc biệt của bạch
cầu cấp dòng tủy (BCCDT), với đặc tính sinh
học, đặc điểm lâm sàng và di truyền học khác
biệt. Bệnh gây ra do sự ngừng biệt hóa bạch cầu
ở giai đoạn tiền tủy bào và hầu hết bệnh nhân có
biểu hiện sản phẩm protein bất thường với
chuyển vị di truyền học đặc hiệu t(15;17)(14,15)
Việc phát hiện và giải thích về sinh bệnh học
phân tử cho BCCTTB đã dẫn đến việc điều trị
nhắm đích lần đầu tiên và duy nhất cho bệnh
bạch cầu cấp, nhờ đó đã cải thiện đáng kể hiệu
quả điều trị. Trước đó BCCTTB được xem là
bệnh ác tính gây tử vong cao, với điều trị bằng
hóa trị liệu phối hợp. Tuy nhiên, từ sau 1985 khi
Yi Zhen Wang chia sẻ các dữ liệu về hiệu quả
khi điềutrị all‐trans retinoic acid (ATRA) trong
BCCTTB, tỉ lệ lui bệnh đã tăng lên rõ rệt(12).
Song, dù có sự cải thiện ngoạn mục về đáp
ứng và về tỉ lệ tử vong do biến chứng xuất
huyết, các báo cáo vẫn ghi nhận một tỉ lệ khoảng
12‐30% trường hợp, tái phát với điều trị chuẩn
ATRA phối hợp Anthracyclin(2,8,11,21). Do vậy mà
* Bệnh viện Truyền Máu Huyết Học Tp.Hồ Chí Minh ** Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
*** Đại Học Y Dược Tp.Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Ngô Ngọc Ngân Linh ĐT: 0902 778 222 Email: nganlinhnn@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 266
vào tháng 10 năm 2000, sau nhiều thử nghiệm
lâm sàng khởi đầu tại Trung Quốc sau đó là Mỹ,
một loại thuốc được chứng minh có hiệu quả
như mong đợi, đó là Arsenic trioxide (ATO) đã
được Cục quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ
(FDA) chấp thuận cho điều trị những trường
hợp BCCDTTB kháng trị hay tái phát(22,24,25,26,31).
Tại Bệnh viện Truyền Máu Huyết Học (BV
TMHH) Tp.HCM, Arsenic trioxide vừa có mặt
từ tháng 5/2013. Chúng tôi báo cáo một trường
hợp bạch cầu cấp tiền tủy bào dị ứng nặng với
ATRA, kháng với điều trị anthracyclin, được
điều trị với Arsenic oxide đơn thuần. Qua mô tả
một trường hợp, chúng tôi tham khảo y văn và
các nghiên cứu, nhằm xem xét và phân tích để
có cái nhìn rõ nét hơn, rộng và sâu hơn trong
chọn lựa phương thức điều trị ATRA và Arsenic
trioxide cho bệnh BCCTTB, với các chỉ định đơn
thuần hay phối hợp, xem xét đến yếu tố nguy
cơ, cũng như quan điểm sử dụng trong giai
đoạn bệnh mới chẩn đoán hay kháng trị/ tái
phát.
CA LÂM SÀNG
Bệnh nhân nam, 25 tuổi, có khởi phát bệnh
khoảng 2 tuần với nhiều mảng bầm da tự nhiên
toàn thân và xét nghiệm máu ghi nhận bất
thường. Bệnh nhân nhập viện tại BV TMHH với
hội chứng thiếu máu và hội chứng xuất huyết
trên lâm sàng. Huyết đồ ghi nhận tình trạng
giảm 3 dòng tế bào máu với hemoglobin (Hb)
7,8 g/dl, tiểu cầu (TC) 7x103/ul và bạch cầu (BC)
1,87x103/ul , trong đó bạch cầu hạt (BCH) chiếm
0,38x103 /ul, tỉ lệ Blast 9%. Hình ảnh tủy đồ điển
hình của một trường hợp BCCTTB với tủy giàu
tế bào, giảm sinh 3 dòng tế bào tủy bình thường,
bên cạnh tăng sinh quần thể tế bào non khoảng
80% mật độ tế bào tủy, kích thước # 20 – 25
micrometres, nhiễm sắc chất hơi mịn, tỉ lệ nhân
và nguyên sinh chất khoảng 8 – 9/10, nguyên
sinh chất kiềm trung bình, chứa hạt; thể Aure,
cho phản ứng Peroxydase dương tính. Kết quả
dấu ấn miễn dịch tế bào (DAMDTB) trên máy
BD. FACS Canto II ghi nhận hình ảnh bạch cầu
cấp dòng tủy với HLA‐DR âm tính (CD45: Inter,
CD34 (‐), CD117 (+) 75%, HLA‐DR (‐),CD33(+)
99%, CD13(+) 40%, CD15 (‐), MPO (+) 97%, CD4
(+) 15%). Xét nghiệm đông máu ghi nhận tăng
D‐dimer 11.746 ng/ml, TQ 13 s, tỷ lệ Prothombin
96%, aPTT 30,1s và Fibrinogen 1,57 g/l. Kết quả
nhiễm sắc thể đồ (karyotype) ghi nhận chuyển
đoạn t(15;17) trên 14 metaphase
(46,XY,t(3;3)(q21;q26),t(15;17)(q22;q21)(14)/46,XY
(2)). Kỹ thuật lai huỳnh quang tại chỗ (FISH:
fluorescence in situ hybridization) thực hiện trên
200 tế bào, ghi nhận tỉ lệ chuyển vị
t(15;17)(q22;q21.1) là 94.5% trên. Tổ hợp gen
PML/RARA (+) với kỹ thuật RT –
PCR (reverse transcription – polymerase
chain reaction). Bệnh nhân được chẩn đoán
bạch cầu cấp tiền tủy bào với phân nhóm nguy
cơ trung bình.
Bệnh nhân được sử dụng ATRA liều 45
mg/m2. Tuy nhiên, bệnh nhân bị nổi sẩn hồng
ban kèm ngứa, khởi phát chỉ sau khoảng 12 giờ
sử dụng ATRA và diễn tiến nhanh với sốt cao,
đỏ da toàn thân và phù chỉ trong vòng 2 ngày
điều trị (Hình 1). Chúng tôi không ghi nhận biểu
hiện tổn thương tại phổi qua thăm khám lâm
sàng và xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh học. Với
chẩn đoán dị ứng da do ATRA, bệnh nhân được
ngưng ATRA và điều trị ngay với Daunorubicin
45 mg/m2/ngày trong 3 ngày. Phản ứng dị ứng
nặng do ATRA cải thiện với điều trị
Dexamethasone và thuốc kháng histamine. Bệnh
nhân không đạt được lui bệnh hoàn toàn (CR)
dù rằng tình trạng huyết học có cải thiện với xét
nghiệm đông máu và số lượng tiểu cầu về giới
hạn bình thường. Với tủy đồ thực hiện ở ngày
thứ 21 và ngày 39 ghi nhận tỉ lệ blast lần lượt là
39% và 8% với công thức máu ở ngày cho đến
ngày 39 của điều trị là Hb 8,9 g/dl (nhịp truyền
máu 3‐4 ngày/lần), TC 282x103/ul, BC 1,48x103/ul
(SN 0,65x103/ul) chúng tôi đánh giá bệnh nhân
chỉ đạt lui bệnh một phần sau điều trị tấn công
Daunorubicin và 2 ngày ATRA.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 267
Hình 1. Sang thương đỏ da toàn thân do dị ứng
ATRA
Qua hội chẩn bệnh viện chúng tôi quyết
định điều trị tiếp tái tấn công với Arsenic
trioxide truyền tĩnh mạch 10mg/ngày (0,15
mg/kg/ngày) trong 30 ngày. Tác dụng phụ về
huyết học ghi nhận là giảm BCH (BCH giảm
dưới 500/ul vào ngày thứ 19 của điều trị Arsenic
trioxide, thấp nhất là 350/ul, hồi phục BCH trên
500/ul vào ngày thứ N30). Tác dụng phụ trên da
với sạm da mu bàn tay và sẩn hồng ban rải rác 2
mu chân kèm ngứa, ghi nhận sau 4 ngày sử
dụng, đáp ứng điều trị bằng kháng histamine.
Tình trạng lâm sàng cải thiện với lâm sàng ổn
định, sẩn hồng ban và sạm da giảm dần rồi hết.
Chúng tôi không ghi nhận biến chứng khác về
tim mạch, gan, thận cũng như điện giải đồ. Bệnh
nhân đạt lui bệnh hoàn toàn với hồi phục hoàn
toàn về huyết đồ và tỉ lệ blast trên tủy đồ N28 và
N42 lần lượt là 4% và 3%.
Bệnh nhân được điều trị tăng cường với
phác đồ Arsenic trioxide đơn thuần với liều
10mg/ngày x 5 ngày/tuần x 5 tuần, sau đó
ngưng 3 tuần và tiếp tục lặp lại lần hai.
Bệnh nhân được điều trị đủ phác đồ với lâm
sàng ổn định và không ghi nhận biến chứng về
huyết học (không giảm BCH và huyết đồ ổn
định), cũng như không ghi nhận các biến chứng
khác. Tủy đồ đánh giá sau giai đoạn tăng cường
với blast # 3% và PML–RARα (‐).
BÀN LUẬN
Điều trị BCCTTB với Arsenic Trioxide
Lựa chọn phác đồ điều trị tấn công bệnh
BCCTTB được đồng thuận dựa vào phân nhóm
nguy cơ. Bệnh nhân BCCTTB có thể phân thành
3 nhóm nguy cơ dựa trên số lượng bạch cầu và
số lượng tiểu cầu. Nguy cơ thấp khi BC <
10x103/ul và TC > 40x103/ul, nguy cơ trung gian
khi BC < 10x103/ul và TC < 40x103/ul, nguy cơ
cao khi BC > 10x103/ul(21).
Chọn lựa đầu tay điều trị tấn công
BCCDTTB là ATRA kết hợp với các loại thuốc
khác(29) thường là nhóm anthracyclin như các
phác đồ BCCTTB Châu Âu(19,7), phác đồ theo
PETHEMA(21) và ở một số quần thể đặc biệt là
phác đồ ATRA kết hợp với arsenic trioxide(1). Sự
kết hợp của ATO với ATRA được xem xét cho
những bệnh nhân không dùng được nhóm
anthracycline(17).
BN của chúng tôi được dùng phác đồ phối
hợp ATRA và anthracyclin liều chuẩn, với
ATRA dẫn nhập trước. Tuy nhiên do tình trạng
dị ứng mức độ nặng, nên buộc phải ngưng dùng
ATRA. Bệnh nhân không có dấu hiệu chỉ điểm
của hội chứng ATRA và có số lượng bạch cầu <
10x103/ul nên ít quan ngại về hội chứng RAS khi
sử dụng ATRA. Trên BN này, dùng ATO thay
thế ATRA giai đoạn này là cần thiết. Các nghiên
cứu cho thấy đáp ứng về sinh học phân tử do
ATO cao hơn so với ATRA, cả trên nhóm BN
mới chẩn đoán(30). Tuy nhiên thời điểm trên, do
không có thuốc, nên chỉ có thể dùng
Daunorubicin đơn độc. Với tình trạng huyết học
không hồi phục ở N39 của điều trị Daunorubicin
và hình ảnh tủy đồ Blast 8%, BN được đánh giá
là kháng trị theo tiêu chuẩn đánh giá kháng trị
của the International Working Group and the
European Leukaemia Net(3,5).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 268
Hiệu quả của ATRA và ATO trên bệnh
BCCTTB với các phác đồ đơn trị liệu và phối
hợp.
ATRA và ATO làm phá vỡ liên kết gen
PML/RARα, gây giải phóng receptor RARα,
giúp lặp lại cấu trúc nhân tế bào, phục hồi quá
trình sinh sản và trưởng thành của tế bào tiền
tủy bào thành bạch cầu hạt trung tính, đồng thời
giải phóng đường tiêu hủy bình thường
(apoptosis), nhờ đó lặp lại vòng đời sống bình
thường của tế bào tiền tủy bào(29,30).
Tỉ lệ đáp ứng hoàn toàn của ATO trong điều
trị BCCTTB tái phát và kháng trị đã đưa đến
việc nghiên cứu sử dụng ATO cho cả trường
hợp mới chẩn đoán. Các nghiên cứu khác cũng
cho thấy ATO có hiệu quả hơn so ATRA trong
việc giảm mức độ của các tế bào tiền tủy bào tồn
dư tối thiểu. Ở những bệnh nhân mới được chẩn
đoán, ATRA giúp hồi phục huyết học hoàn toàn
trong hầu hết bệnh nhân, tuy nhiên tỉ lệ thuyên
giảm về mặt sinh học phân tử thường kém.
Ngược lại, ATO gây ra thuyên giảm phân tử ở
hầu hết các bệnh nhân điều trị tại bệnh tái phát.
Hơn nữa, một nghiên cứu của Trung Quốc cho
thấy, đáp ứng ở mức độ phân tử của ATO tốt
hơn ATRA ở quần thể bệnh mới được chẩn
đoán. Nhiều nghiên cứu cho thấy hiệu quả hiệp
đồng của điều trị phối hợp ATRA và ATO, với
đáp ứng vượt trội so với sử dụng ATRA hay
ATO đơn độc(4,13,23,30).
Bảng 1. Nghiên cứu sử dụng ATO đơn thuần hay phối hợp ATRA trong điều trị BCCTTB
Phác đồ N CR% Post remission PCR- % Phác đồ EFS OS
ATO + ATRA
Hu(13) 85 94.1 NR ATRA + ATO 89,2% tại 5 năm 91% tại 5 năm
Ravandi(17) 82 90 100 ATRA + ATO 80% tại 2 năm 85% tại 2 năm
Dai(4) 90 93.3 ATRA + ATO 92,2% tại 3 năm
ATO đơn trị liệu
Ghavamzadeh(10) 111 85.6 92 ATO x 1 63,7% tại 2 năm 87,6% tại 3 năm
Mathews(16) 72 86 76 ATO x 6 74,8% tại 3 năm 86,1% tại 3 năm
George(9) 11 91 100 ATO 81,3% tại 5 năm 91% tại 5 năm
Tác dụng phụ của ATO
ATO đã được biết đến từ rất lâu như là
một loại hóa chất rất độc. Tuy nhiên với liều
điều trị sử dụng trong BCCTTB, được chứng
minh qua nhiều giai đoạn nghiên cứu và qua
nhiều nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng, các
tác dụng phụ của ATO thường ở mức độ nhẹ
và trung bình, tác dụng phụ mức độ nặng ít
gặp. Khi sử dụng ATO cần theo dõi tác dụng
phụ như hội chứng giống RAS (retinoic acid
syndrome (RAS)‐like) như sốt, phát ban da,
phù nề thường cải thiện tốt khi dùng steroid.
Các tác dụng phụ khác cần theo dõi như mệt
mỏi, buồn nôn, nôn, chán ăn, tiêu chảy, đau
đầu, đau bụng, mất ngủ, ho, khó thở, viêm da,
nhịp tim nhanh, đau, hạ kali máu, hạ magne
máu và tăng đường huyết, rối loạn chức năng
gan, QT kéo dài, bệnh thần kinh ngoại biên
nhưng thường ở mức độ nhẹ và có thể kiểm
soát tốt(6,10,16,22,31). Bệnh nhân của chúng tôi
không ghi nhận tác dụng phụ gì ngoài vấn đề
sạm da, tự dung nạp và hết trong quá trình
vẫn điều trị tiếp ATO.
KẾT LUẬN
Trong vài chục năm qua, bệnh BCCTTB đã
chuyển đổi từ một bệnh gây tử vong cao trở
thành một bệnh rất có thể chữa khỏi được. Đã có
nhiều nghiên cứu cho thấy ngoài chỉ định cho
BCCTTB tái phát và kháng trị, ATO cho thấy có
hiệu quả hiệp đồng với ATRA trong đáp ứng về
mặt SHPT cũng như kéo dài thời gian sống toàn
bộ. Tác dụng phụ của ATO thường ở mức độ
nhẹ và trung bình, có thể kiểm soát được. ATO
phối hợp ATRA hay thay thế ATRA (khi có
chống chỉ định dung ATRA) mang lại hiệu quả
tốt về lâm sàng, huyết học và cả sinh học phân
tử trong điều trị bệnh BCCTTB.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 269
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Adès L, Sanz MA, Chevret S, et al (2008), “Treatment of newly
diagnosed acute promyelocytic leukemia (APL): a comparison
of French‐Belgian‐Swiss and PETHEMA results”, Blood, 111(3):
1078‐84.
2. Burnett AK, Grimwade D, et al. (1999), “Presenting white blood
cell count and kinetics of molecular remission predict prognosis
in acute promyelocytic leukemia treated with all‐trans retinoic
acid: result of the Randomized MRC Trial”, Blood, 93: 4131‐
4143.
3. Cheson, B.D. et al.(2003), “Revised recommendations of the
International Working Group for Diagnosis, Standardization of
Response Criteria, Treatment Outcomes, and Reporting
Standards for Therapeutic Trials in Acute Myeloid Leukemia”,
Journal of Clinical Oncology, 21: 4642–4649.
4. Dai CW, Zhang GS, Shen JK, et al (2009), “Use of all‐trans
retinoic acid in combination with arsenic trioxide for remission
induction in patients with newly diagnosed acute
promyelocytic leukemia and for consolidation/maintenance in
CR patients”, Acta Haematol, 121(1): 1‐8.
5. Dohner, H. et al. (2010), “Diagnosis and management of acute
myeloid leukemia in adults: recommendations from an
international expert panel, on behalf of the European
LeukemiaNet”, Blood, 115: 453–474.
6. Đỗ Trung Phấn, Nguyễn Thị Loan, Trần Kiều My, Nguyễn Văn
Trường, Bạch Quốc Khánh và cs (2008), “Lơ xê mi cấp tiền tủy
bào: chất lượng sống sau lui bệnh hoàn toàn bởi atra và arsenic
trioside”, Chuyên đề Hội nghị huyết học truyền máu quốc gia
lần thứ VIII: Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học chuyên
ngành huyết học truyền máu, 2(344): 490‐495.
7. Fenaux P, Chastang C, Chevret S, et al (1999), “A randomized
comparison of all trans retinoic acid (ATRA) followed by
chemotherapy and ATRA plus chemotherapy and the role of
maintenance therapy in newly diagnosed acute promyelocytic
leukemia. The European APL Group”, Blood, 94(4): 1192‐200.
8. Fenaux P, Chevret S, Guerci A et al. (2000), “Long term follow‐
up confirms the benefit of all‐trans retinoic acid in acute
promyelocytic leukemia”, Leukemia, 14: 1371‐1377.
9. George B, Mathews V, Poonkuzhali B, Shaji RV, et al. (2004),
“Treatment of children with newly diagnosed acute
promyelocytic leukemia with arsenic trioxide: a single center
experience, Leukemia, 18(10): 1587‐1590.
10. Ghavamzadeh A, Alimoghaddam K, Ghaffari SH, et al
(2006), “Treatment of acute promyelocytic leukemia with
arsenic trioxide without ATRA and/or chemotherapy”, Ann
Oncol, 17(1): 131‐134.
11. Hernandez JM, Martin G et al. (2001), “Additional cytogenetic
changes do not influence the outcome of patients with newly
diagnosed acute promyelocytic leukemia treated with an ATRA
plus anthracyclin based protocol. A report of the Spanish group
PETHEMA”, Haematologica, 86: 807‐813.
12. Huang ME, Ye YC et al. (1988), “Use of all‐trans retinoic acid in
the treatment of acute promyelocytic leukemia”, Blood, 72: 567‐
572.
13. Hu J, Liu YF, Wu CF, et al. (2009), “Long‐term efficacy and
safety of all‐trans retinoic acid/arsenic trioxide‐based therapy in
newly diagnosed acute promyelocytic leukemia”, Proc Natl
Acad Sci USA, 106(9): 3342‐3347.
14. Kakizuka A, Miller Jr WH, et al (1991), “Chromosomal
translocation t(15;17) in human acute promyelocytic leukemia
fuses RARα with a novel putative translocation factor, PML”,
Cell, 66: 663‐74.
15. Larson RA, Kondo K, et al. (1984), “Evidence for a 15;17
translocation in every patient with acute promyelocytic
leukemia”, Am J Med, 76: 827‐841.
16. Mathews V, George B, Lakshmi KM, et al. (2006), “Single‐agent
arsenic trioxide in the treatment of newly diagnosed acute
promyelocytic leukemia: durable remissions with minimal
toxicity”, Blood, 107(7): 2627‐2632.
17. Powell BL, Moser B, Stock W, et al (2010), “Arsenic trioxide
improves event‐free and overall survival for adults with acute
promyelocytic leukemia: North American Leukemia Intergroup
Study C9710”, Blood, 116(19): 3751‐7.
18. Ravandi F, Estey E, Jones D, et al (2009), “Effective treatment of
acute promyelocytic leukemia with all‐trans‐retinoic acid,
arsenic trioxide, and gemtuzumab ozogamicin”, J Clin Oncol,
27(4): 504‐510.
19. Sanz MA, Grimwade D, Tallman MS, et al (2009),
“Management of acute promyelocytic leukemia:
recommendations from an expert panel on behalf of the
European LeukemiaNet”, Blood, 113(9): 1875‐91.
20. Sanz MA, Martín G, González M, et al (2004), “Risk‐adapted
treatment of acute promyelocytic leukemia with all‐trans‐
retinoic acid and anthracycline monochemotherapy: a
multicenter study by the PETHEMA group”, Blood, 103(4):
1237‐43.
21. Sanz MA, Lo Coco F, Martin G et al (2000), “Definition of
relapse risk and role of nonanthracyclin drugs for consolidation
in patients with acute promyelocytic leukemia: a joint study of
the PETHEMA and GIMEMA cooperation groups”, Blood, 96:
1247‐1253.
22. Shen ZX, Chen GQ, Ni JH et al. (1997), “Use of arsenic trioxide
(As2O3) in the treatment of acute promyelocytic leukemia
(APL): Clinical