Việc nghiên cứu hoàn thiện quy trình vi nhân giống cây khoai môn (Colocasia
esculenta L.) để cung cấp nguồn cây giống cho người dân An Giang là hết sức
cần thiết. Kết quả cho thấ,y môi trường tốt nhất tái sinh chồi khoai môn là môi
trường MS + 2 mg/l BA với khả năng tái sinh chồi 100% đạt 5,2 chồi sau 6 tuần
nuôi cấy; môi trường thích hợp cho giai đoạn nhân nhanh chồi khoai môn là môi
trường MS + 3 mg/l BA + 0,5 mg/l NAA (đạt 3,6 chồi và cao 4,37 cm); kiểu cấy
chẻ đôi và cắt ngang cho hiệu quả tạo chồi tối ưu hơn so với kiểu cấy thông
thường, với kiểu cấy chẻ đôi số chồi/mẫu cấy ban đầu đạt tối đa trung bình là
4,89 chồi; môi trường tạo rễ tốt nhất là MS + 1 mg/l NAA cho rễ to, số rễ đạt
20,43 rễ sau 6 tuần nuôi cấy và cây khoai môn vitro đạt tỷ lệ cây sống tuyệt đối
100% trên giá thể tro trấu giai đoạn thuần dưỡng.
12 trang |
Chia sẻ: thuylinhqn23 | Ngày: 08/06/2022 | Lượt xem: 415 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân giống cây khoai môn (colocasia esculenta l.) An Giang bằng phương pháp nuôi cấy mô, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 7 – 18
7
NHÂN GIỐNG CÂY KHOAI MÔN (COLOCASIA ESCULENTA L.) AN GIANG BẰNG
PHƯƠNG PHÁP NUÔI CẤY MÔ
Nguyễn Thị Mỹ Duyên1
1Trường Đại học An Giang
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 09/09/2017
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
06/11/2017
Ngày chấp nhận đăng: 04/2018
Title:
The process of
micropropagation Taro
(Colocasia esculenta L)in An
Giang mountain area by tissue
culture
Keywords:
Taro, Colocasia esculenta L.,
tissue culture, propagation in
vitro, micropropagation, thin
cell layer
Từ khóa:
Cây khoai môn, Colocasia
esculenta L., nuôi cấy mô,
nhân giống vitro, vi nhân
giống, nuôi cấy lát mỏng
ABSTRACT
A study on completing the process of micropropagation Taro (Colocasia
esculenta L) to provide local people in An Giang seedlings is essential. The
results show that the MS environment with +2 mg/l BA is the best for the shoot
regeneration through the tissue culture, standing at 100% shoot regeneration and
5.2 shoot after six weeks; the MS + 3 mg/l BA + 0.5 mg/l NAA is good for the
multiplication of the shoot, with 3.6 shoot and 4.37cm after six weeks; the
longitudinally thin cell layer (lTCL) and transversally thin cell layer (tTCL) have
shoots earlier than normal shoot, in which the lTCL has 4.89 shoot; the MS + 1
mg/l NAA solution is best for rooting, standing at 20.43 big root after six weeks
of culture; In vitro Taro achieved the absolute survival rate of 100% in the
nursery seedling.
TÓM TẮT
Việc nghiên cứu hoàn thiện quy trình vi nhân giống cây khoai môn (Colocasia
esculenta L.) để cung cấp nguồn cây giống cho người dân An Giang là hết sức
cần thiết. Kết quả cho thấ,y môi trường tốt nhất tái sinh chồi khoai môn là môi
trường MS + 2 mg/l BA với khả năng tái sinh chồi 100% đạt 5,2 chồi sau 6 tuần
nuôi cấy; môi trường thích hợp cho giai đoạn nhân nhanh chồi khoai môn là môi
trường MS + 3 mg/l BA + 0,5 mg/l NAA (đạt 3,6 chồi và cao 4,37 cm); kiểu cấy
chẻ đôi và cắt ngang cho hiệu quả tạo chồi tối ưu hơn so với kiểu cấy thông
thường, với kiểu cấy chẻ đôi số chồi/mẫu cấy ban đầu đạt tối đa trung bình là
4,89 chồi; môi trường tạo rễ tốt nhất là MS + 1 mg/l NAA cho rễ to, số rễ đạt
20,43 rễ sau 6 tuần nuôi cấy và cây khoai môn vitro đạt tỷ lệ cây sống tuyệt đối
100% trên giá thể tro trấu giai đoạn thuần dưỡng.
1. GIỚI THIỆU
Cây khoai môn (Colocasia esculenta L.) là cây một
lá mầm thuộc họ ráy Araceae, chi Colocasia. Cây
có giá trị dinh dưỡng cao khi làm thức ăn, chữa
được hư lao, yếu sức. Trong y học, cây còn có tác
dụng chữa bệnh như phong ngứa, mụn mủ. Lá tươi
giã đắp trị mụn nhọt, ghẻ, rắn cắn, ong đốt,... (Võ
Văn Chi, 2012). Hiện nay, giá trị lợi nhuận từ việc
trồng khoai môn đã mang lại cho người dân khá
cao. Tuy nhiên, cây chủ yếu được trồng bằng củ
con hay các chồi mắt ngủ được ủ nảy mầm từ củ
nên có hệ số nhân giống thấp, lượng củ làm giống
cần nhiều mà chất lượng giống không đồng đều.
Ngoài ra, việc nhân giống bằng phương pháp
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 7 – 18
8
truyền thống từ củ có nguy cơ truyền mầm bệnh từ
thế hệ mẹ sang thế hệ con rất cao.
Hiện nay, các huyện trong tỉnh An Giang có nhu
cầu trồng khoai môn rất lớn, nên nguồn củ giống
không đủ đáp ứng nhu cầu, củ giống lại mang nguy
cơ mầm bệnh rất cao. Do đó, vấn đề đặt ra là cần
phải cung cấp kịp thời nguồn cây giống sạch bệnh
đáp ứng cho nhu cầu trồng khoai môn của người
dân. Từ đó, chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu
“Nhân giống cây khoai môn (Colocasia esculenta
L.) An Giang bằng phương pháp nuôi cấy mô”
nhằm hoàn thiện quy trình vi nhân giống cây khoai
môn An Giang để tạo nguồn cây giống khoai môn
chuyển giao cho Trung tâm Khuyến nông tỉnh An
Giang.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
2.1 Nguyên vật liệu
Củ giống khoai môn sau khi được thu thập tại
huyện Chợ Mới, An Giang sẽ được ươm tạo mầm.
Sau đó, các mầm mọc lên sẽ được khử trùng và tạo
mẫu cấy vô trùng in vitro dùng làm nguồn vật liệu
cho các thí nghiệm nghiên cứu.
2.2 Điều kiện nghiên cứu
Các thí nghiệm được thực hiện trong điều kiện
phòng thí nghiệm với môi trường nền là MS
(Murashige & Skoog, 1962), cùng 30 g/l đường
sucrose, 8 g/l agar. Điều kiện phòng thí nghiệm
nuôi cấy với nhiệt độ 25 – 28 oC và thời gian chiếu
sáng là 16 giờ/ngày.
2.3 Phương pháp nghiên cứu
- Tái sinh chồi: thí nghiệm được thực hiện với 5
nghiệm thức từ A0 đến A4, tương ứng với 5 loại
môi trường MS có bổ sung BA từ 2 – 3 mg/l và
NAA từ 0 – 0,5 mg/l (Bảng 1). Mỗi nghiệm
thức 5 lần lặp lại, mỗi lần lặp lại là 1 bình, cấy
2 chồi trên bình. Thời gian lấy chỉ tiêu: 2, 4, 6
tuần sau khi cấy.
- Nhân nhanh chồi: thí nghiệm được bố trí trong
phòng nuôi cấy mô theo thể thức hoàn toàn
ngẫu nhiên với 9 nghiệm thức (B0 đến B8 tương
ứng với 9 loại môi trường MS có bổ sung BA
(từ 0 – 3 mg/l), TDZ (0 – 1,5 mg/l) và NAA (0
– 0,5 mg/l). Mỗi nghiệm thức 5 lần lặp lại, mỗi
lần lặp lại 1 bình, cấy 2 chồi/bình. Thời gian lấy
chỉ tiêu: 2, 4, 6, 8 tuần sau khi cấy.
- Khảo sát kiểu cấy giúp tăng hệ số nhân chồi
khoai môn: thí nghiệm được bố trí trong phòng
nuôi cấy mô theo thể thức hoàn toàn ngẫu nhiên
với 9 nghiệm thức gồm 2 nhân tố là 3 môi
trường và 3 kiểu cấy (nguyên chồi, chẻ đôi, cắt
ngang). Mỗi nghiệm thức 3 lần lặp lại, mỗi lần
lặp lại là 1 bình, cấy 2 mẫu/bình. Thời gian lấy
chỉ tiêu: 2, 4, 6 tuần sau khi cấy.
- Tạo rễ: thí nghiệm được thực hiện với 7 nghiệm
thức (D1 đến D7 tương ứng với 7 loại môi
trường MS có bổ sung IAA và NAA ở nồng độ
từ 0 – 1,5 mg/l). Mỗi nghiệm thức 3 lần lặp lại,
mỗi lần lặp lại là 1 bình, cấy 2 chồi/bình. Thời
gian lấy chỉ tiêu: 2, 4, 6 tuần sau khi cấy.
- Thuần dưỡng cây khoai môn cấy mô ngoài điều
kiện tự nhiên (vườn ươm): thí nghiệm được bố
trí trong nhà lưới theo thể thức hoàn toàn ngẫu
nhiên với 6 nghiệm thức từ E1 đến E6 tương ứng
với 6 loại giá thể có tỉ lệ cát, tro trấu và xơ dừa
khác nhau (Bảng 9). Mỗi nghiệm thức 6 lần lặp
lại, mỗi lần lặp lại là 1 chậu, 6 cây/chậu
2.4 Xử lý số liệu
Các thí nghiệm đều được bố trí theo kiểu hoàn toàn
ngẫu nhiên (CRD), 3 lần lặp lại. Các số liệu được
xử lý thống kê bằng phần mềm SAS 9.1.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Thí nghiệm 1: Khảo sát nồng độ chất điều
hòa sinh trưởng BA và NAA tối ưu để tạo chồi
khoai môn
Qua 2 tuần ta thấy, chồi bắt đầu xuất hiện ở vài mẫu
cấy, sang đến tuần thứ 4 chồi được tạo thành ở hầu
hết các mẫu cấy. Tuy nhiên, số chồi được tái sinh
mới trên các mẫu cấy vẫn chưa cao và ít có sự khác
biệt (Bảng 1). Sau khi cấy 4 tuần, tất cả nghiệm
thức đều đã xuất hiện chồi, dao động từ 1,4 - 3,4
chồi, trung bình đạt 2,12 chồi. Kết quả nghiên cứu
có số chồi đạt được là 3,4 chồi trên môi trường MS
+ 2 mg/l BA, cao hơn so với nghiên cứu của Trần
Thị Lệ và Trần Thị Triệu Hà (2011) chỉ đạt 2,63
chồi trên môi trường cho kết quả cao nhất là MS +
3 mg/l BA.
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 7 – 18
9
Bảng 1. Số chồi khoai môn (chồi) sau khi cấy
Nghiệm thức
Chất điều hòa
sinh trưởng Số chồi khoai môn (chồi)
Chiều cao chồi khoai môn
(cm)
BA
(mg/l)
NAA
(mg/l) 4 tuần 6 tuần 4 tuần 6 tuần
A0 0 0 1,4 2,2 0,42 c 1,14 b
A1 2 0 3,4 5,2 2,06 a 2,88 a
A2 2 0,5 2,0 3,4 2,20 a 3,28 a
A3 3 0 2,0 3,6 1,04 bc 1,34 b
A4 3 0,5 1,8 3,0 1,80 ab 2,78 a
TB 2,12 3,48 1,50 2,28
Mức ý nghĩa ns ns ** **
CV (%) 64,33 71,55 48,57 34,87
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trong cột chỉ sự khác biệt ở mức ý nghĩa thống kê, ns: khác biệt không ý
nghĩa thống kê; **: khác biệt ý nghĩa thống kê ở mức 1%.
Đến thời điểm 6 tuần sau khi cấy, số chồi tiếp tục tăng và dao động từ 2,2 - 5,2 chồi, trung bình đạt được
là 3,48 chồi (Hình 1). Tuy nhiên, vì chồi tái sinh có sự biến động rất nhiều trên các mẫu cấy, có mẫu tạo từ
4 đến 5 chồi, có mẫu chỉ có một chồi, dẫn đến chỉ số CV biến động rất cao, hơn 50%.
Hình 1. Sự tái sinh chồi khoai môn sau 6 tuần nuôi cấy
A: nghiệm thức A0; B: nghiệm thức A1; C: nghiệm thức A3; D: nghiệm thức A4
Trong khi đó, chiều cao chồi khoai môn tại thời
điểm 4 tuần SKC có sự khác biệt thống kê giữa các
nghiệm thức thí nghiệm. Nghiệm thức A2 đạt chiều
cao chồi cao nhất là 2,20 cm không khác biệt thống
kê với nghiệm thức A1 (2,06 cm) và A4 (1,80 cm),
có sự khác biệt thống kê ý nghĩa 1% so với hai
nghiệm thức đối chứng A0 (0,42 cm) và A3 (1,04
cm).
Sang 6 tuần SKC, chiều cao chồi tiếp tục gia tăng,
trung bình chồi cao 2,28 cm. Trong đó, nghiệm
thức A2 vẫn đạt chiều cao chồi cao nhất là 3,28 cm.
Như vậy, môi trường có sử dụng BA nồng độ 2
mg/l (nghiệm thức A1) hoặc khi có sự kết hợp với
0,5 mg/l NAA (A2) cho kết quả tạo chồi tốt hơn, sự
tạo chồi mới sớm, số chồi nhiều. Kết quả này phù
hợp nghiên cứu của Yongwei Li và cs. (2002), 28%
A
B
C
D
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 7 – 18
10
mẫu đỉnh sinh trưởng có khả năng tái sinh chồi trên
môi trường MS + 2 mg/l BA.
3.2 Thí nghiệm 2: Khảo sát hàm lượng auxin và
cytokinin thích hợp nhân chồi khoai môn
3.2.1 Số chồi khoai môn
Đến tuần thứ 6 đã có sự tạo chồi ở hầu hết các mẫu
cấy trên tất cả 9 nghiệm thức thí nghiệm (Bảng 2).
Thời điểm này số chồi đã xuất hiện đều, trung bình
đạt 1,93 chồi. Nghiệm thức có số chồi cao nhất (3,4
chồi) là nghiệm thức B4, không khác biệt thống kê
so với nghiệm thức B2, B3, và B6. Nghiệm thức có
số chồi thấp nhất là B0 (1 chồi), nhưng không khác
biệt thống kê so với nghiệm thức B1, B5, B7 và B8.
Kết quả này tương đối phù hợp với nghiên cứu của
Nguyễn Quang Thạch và cs. (2010), sau 6 tuần
nuôi cấy số chồi đạt được cao nhất là 4,08 chồi trên
môi trường MS + 3 mg/l BA + 0,5 mg/l NAA.
Bảng 2. Số chồi khoai môn (chồi) sau 8 tuần nuôi cấy
NT
Chất điều hòa sinh trưởng Số chồi khoai môn (chồi)
BA (mg/l) TDZ (mg/l) NAA (mg/l) 6 tuần 8 tuần
B0 0 0 0 1,0 b 1,0 c
B1 2 0 0 1,6 b 1,6 bc
B2 2 0 0,5 2,0 ab 2,4 abc
B3 3 0 0 2,4 ab 2,8 ab
B4 3 0 0,5 3,4 a 3,6 a
B5 2 0,5 0 1,8 b 2,0 bc
B6 0 1,5 0 2,4 ab 2,4 abc
B7 0 1,5 0,5 1,2 b 1,4 bc
B8 0 1,0 0,5 1,6 b 1,8 bc
TB 1,93 2,11
Mức ý nghĩa * *
CV (%) 54,25 48,41
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trong cột chỉ sự khác biệt ở mức ý nghĩa thống kê; *: khác biệt ý nghĩa
thống kê ở mức 5%.
Hình 2. Sự phát triển chồi khoai môn trên môi trường nhân nhanh
A: nghiệm thức B0; B: nghiệm thức B3; C: nghiệm thức B4; D: nghiệm thức B6
A
B
C
D
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 7 – 18
11
Bước sang tuần thứ 8, số chồi trung bình có sự gia
tăng lên đến 2,11 chồi, kết quả khác biệt giữa các
nghiệm thức tương tự 6 tuần. Nghiệm thức B4 có
số chồi cao nhất (3,6 chồi) (Hình 2C), không khác
biệt so với nghiệm thức B2, B3, và B6. Nghiệm thức
B0 có số chồi thấp nhất (1 chồi), không khác biệt
thống kê so với nghiệm thức B1, B2, B5, B6, B7 và
B8. Nghiên cứu ghi nhận ở nghiệm thức B0 ít có sự
tạo chồi mới, trong khi rễ lại xuất hiện dài (Hình
2A).
3.2.2 Chiều cao chồi khoai môn
Thời gian 2 và 4 tuần sau khi cấy, chồi chỉ xuất hiện
trên một số mẫu nên khó thực hiện thống kê chiều
cao chồi; đến 6 tuần thì chồi đã phát triển đầy đủ
trên tất cả các mẫu cấy. Chiều cao chồi được thu
thập dựa trên chồi cao nhất. Sau khi phân tích thống
kê, ta thấy chiều cao chồi giữa các nghiệm thức có
sự khác biệt thống kê ở mức 1% (Bảng 3).
Bảng 3. Sự phát triển chiều cao chồi khoai môn sau 8 tuần nuôi cấy
NT
Chất điều hòa sinh trưởng Chiều cao chồi khoai môn (cm)
BA
(mg/l)
TDZ (mg/l) NAA
(mg/l)
6 tuần 8 tuần
B0 0 0 0 3,17 bcde 3,80 abc
B1 2 0 0 2,58 e 3,10 c
B2 2 0 0,5 3,71 abcd 3,93 abc
B3 3 0 0 2,98 cde 3,43 bc
B4 3 0 0,5 4,11 ab 4,37 ab
B5 2 0,5 0 4,04 abc 4,30 ab
B6 0 1,5 0 4,50 a 4,70 a
B7 0 1,5 0,5 2,84 de 3,17 c
B8 0 1,0 0,5 3,63 abcde 3,95 abc
TB 3,51 3,86
Mức ý nghĩa ** **
CV (%) 22,23 17,06
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trong cột chỉ sự khác biệt ở mức ý nghĩa thống kê; *: khác biệt ý nghĩa thống kê ở mức 5%,
**: khác biệt ý nghĩa thống kê ở mức 1%.
Thời điểm 6 tuần và 8 tuần sau khi cấy, chiều cao
chồi có sự gia tăng trung bình là 3,51 cm đến 3,86
cm. Trong đó, nghiệm thức B6 đạt chiều cao chồi
cao nhất (4,70 cm) (Hình 2D), không có sự khác
biệt thống kê so với 4 nghiệm thức B2 (3,93 cm),
B4 (4,37 cm), B5 (4,3 cm), B8 (3,95 cm) và cả B0
(3,80 cm); thấp nhất là nghiệm thức B1, cao 3,10
cm.
Như vậy, sau quá trình nuôi cấy, chúng ta nhận thấy
khi bổ sung cytokinin (BA hay TDZ) có sự xuất
hiện chồi mới cao hơn so với đối chứng. Trong đó,
các nghiệm thức cho số chồi khá sớm, nhiều chồi
và chất lượng chồi tốt nhất là các nghiệm thức B2,
B4 và B6. Tuy nhiên, nghiệm thức B6 sử dụng TDZ
là chất điều hòa tăng trưởng có giá thành khá đắt so
với BA. Do đó, để sử dụng môi trường nhân chồi,
ta chọn nghiệm thức tốt nhất là B4 (3 mg/l BA +
0,5 mg/l NAA) và kế đến là nghiệm thức B2 (2 mg/l
BA + 0,5 mg/l NAA). Hai môi trường này sẽ được
chọn sử dụng cho thí nghiệm tiếp theo.
3.3. Thí nghiệm 3: Khảo sát kiểu cấy giúp tăng
hệ số nhân chồi Khoai môn
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 7 – 18
12
3.3.1 Tỷ lệ phần trăm mẫu cấy
Thí nghiệm thực hiện với 3 kiểu cấy (K1: nguyên
mẫu; K2: chẻ đôi và K3: cắt lát ngang) trên 3 loại
môi trường (MT1: 3mg/l BA + 0,5mg/l NAA;
MT2: 2mg/l BA + 0,5mg/l NAA; MT3: 3mg/l BA
+ 0,5mg/l 2,4D). Sau 14 ngày (2 tuần) nuôi cấy,
hầu hết các nghiệm thức đều có sự tạo chồi mới trừ
nghiệm thức C7 (MT3, K1). Đến 6 tuần sau khi cấy,
hầu hết các nghiệm thức có sự tạo chồi đạt 100%
trừ nghiệm thức C4 và C7. Tuy nhiên giữa các
nghiệm thức vẫn không có sự khác biệt thống kê
(Bảng 4). Về môi trường nuôi cấy, ta thấy môi
trường MT1 (3mg/l BA + 0,5mg/l NAA) cho tỷ lệ
phần trăm mẫu tạo chồi tối đa và cao nhất (100%),
trong khi 2 môi trường còn lại MT2 và MT3 đạt
88,89% tỷ lệ mẫu tạo chồi. Về kiểu cấy thì ta thấy
hai kiểu cấy K2 (chẻ đôi) và K3 (cắt ngang) đều
cho tỷ lệ mẫu tạo chồi đạt 100% ở cả 3 loại môi
trường; còn với kiểu cấy nguyên chồi (K1) thì tỷ lệ
mẫu tạo chồi thấp hơn chỉ đạt 77,78%.
Bảng 4. Tỷ lệ phần trăm (%) mẫu tạo chồi sau 6 tuần nuôi cấy
Môi trường (MT)
Kiểu cấy (K)
Trung bình
(MT) Nguyên
chồi (K1)
Chẻ
đôi (K2)
Cắt ngang
(K3)
MT1: 3mg/l BA + 0,5mg/l NAA 50,00 83,33 50,00 61,11
MT2: 2mg/l BA + 0,5mg/l NAA 66,67 66,67 83,33 72,22
MT3: 3mg/l BA + 0,5mg/l 2,4D 50,00 50,00 50,00 50,00
Trung bình (K) 55,56 66,67 61,11
FMT ns
FK ns
FMT,K ns
CV (%) 30,32
Ghi chú: ns không khác biệt ở ý nghĩa thống kê.
3.3.2 Số chồi mới tạo thành
Sau 6 tuần nuôi cấy, các nghiệm thức đều có chồi
mới tạo thành trên mẫu cấy (Bảng 5). Trong đó,
nghiệm thức C4 (K1, MT2) có số chồi thấp nhất
(1,33 chồi), cao nhất là nghiệm thức C2 (K2, MT1)
và C6 (K3, MT2) đạt 3,33 chồi. Tuy nhiên, xét
trung bình tổng thể thì số chồi mới hình thành trên
mẫu cấy không có sự khác biệt ý nghĩa thống kê
giữa 3 kiểu cấy và 3 loại môi trường nuôi cấy.
Bảng 5. Số chồi khoai môn/mẫu cấy (chồi) sau 6 tuần nuôi cấy
Môi trường (MT)
Kiểu cấy (K)
Trung bình
(MT) Nguyên
chồi (K1)
Chẻ
đôi (K2)
Cắt ngang
(K3)
MT1: 3mg/l BA + 0,5mg/l NAA 1,67 ab 3,33 a 1,67 ab 2,22
MT2: 2mg/l BA + 0,5mg/l NAA 1,33 b 2,00 ab 3,33 a 2,22
MT3: 3mg/l BA + 0,5mg/l 2,4D 2,67 ab 2,00 ab 1,67ab 2,11
Trung bình (K) 1,89 2,44 2,22
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 7 – 18
13
Môi trường (MT)
Kiểu cấy (K)
Trung bình
(MT) Nguyên
chồi (K1)
Chẻ
đôi (K2)
Cắt ngang
(K3)
FMT ns
FK ns
FMT,K *
CV (%) 44,04
Ghi chú: ns không khác biệt ở ý nghĩa thống kê, *: khác biệt ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Số liệu đã được chuyển đổi
với √x + 0,5.
Trong khi đó, nếu xét về số chồi mới tạo thành từ
mẫu cấy ban đầu (Bảng 6) thì ta thấy có sự khác
biệt rõ về số chồi mới tạo thành trên mỗi kiểu cấy.
Trong đó, kiểu cấy chẻ đôi (K2) và kiểu cấy cắt
ngang (K3), cho số chồi cao hơn rất nhiều so với
kiểu cấy thông thường (K1), đạt lần lượt là 4,89 và
4,44 chồi. Điều này cho thấy, kiểu cấy chẻ đôi ưu
thế hơn trong việc nhân nhanh chồi so với kiểu cấy
thông thường. Cũng như nghiên cứu của Vũ Thị
Lan và ctv. (2013) trên đoạn thân khoai lang chẻ
đôi cho số chồi trung bình là 2,11 cao hơn khi tái
sinh đoạn thân khoai lang không chẻ đôi là 1,53
trên cùng môi trường nuôi cấy.
Bảng 6. Số chồi khoai môn/mẫu cấy ban đầu (chồi) sau 6 tuần nuôi cấy
Môi trường (MT)
Kiểu cấy (K)
Trung bình
(MT) Nguyên
chồi (K1)
Chẻ
đôi (K2)
Cắt ngang
(K3)
MT1: 3mg/l BA + 0,5mg/l NAA 1,67 6,67 3,33 3,89
MT2: 2mg/l BA + 0,5mg/l NAA 1,33 4,00 6,67 4,00
MT3: 3mg/l BA + 0,5mg/l 2,4D 2,67 4,00 3,33 3,33
Trung bình (K) 1,89 b 4,89 a 4,44 a
FMT ns
FK **
FMT,K ns
CV (%) 49,08
Ghi chú: ns không khác biệt ở ý nghĩa thống kê, **: khác biệt ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Số liệu đã được chuyển
đổi với √x + 0,5.
Tóm lại, sau 6 tuần nuôi cấy trên ba loại môi trường
MT1, MT2 và MT3 với ba kiểu cấy K1, K2, K3, ta
nhận thấy rằng, trên 9 nghiệm thức không nghiệm
thức nào có mẫu chết hoặc mẫu tạo mô sẹo, ngay
cả trên môi trường MT3 (3mg/l BA + 0,5mg/l
2,4D). Có lẽ vì, nồng độ 2,4 D thấp hơn nhiều so
với BA nên không gây hiện tượng tạo mô sẹo. Số
chồi trung bình trên ba loại môi trường không khác
biệt, nhưng xét về kiểu cấy thì có sự khác biệt rất ý
nghĩa. Hai kiểu cấy chẻ đôi (K2) và kiểu cấy cắt
ngang (K3) cho số chồi cao hơn rất nhiều so với
kiểu cấy thông thường (K1).
3.4. Thí nghiệm 4: Nghiên cứu môi trường ra rễ
tạo cây khoai môn hoàn chỉnh
3.4.1 Số rễ và dài rễ (cm)
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 7 – 18
14
Trong nhân giống cây in vitro cần phải qua giai
đoạn tạo rễ để tạo cây hoàn chỉnh mới có thể đưa
ra ngoài trồng. Do đó, việc tìm loại môi trường
thích hợp giúp cho chồi khoai môn ra rễ tốt là hết
sức quan trọng. Qua nghiên cứu khảo sát trên 7 loại
môi trường với 3 nồng độ NAA và IAA so với đối
chứng, ta nhận thấy chồi khoai môn khá dễ tạo rễ.
Kết quả khả năng tạo rễ chồi khoai môn được trình
bày tại Bảng 7.
Bảng 7. Sự hình thành rễ và chiều dài rễ (cm) khoai môn sau 6 tuần nuôi cấy
NT
Chất điều hòa
sinh trưởng 2 tuần 4 tuần 6 tuần
NAA
(mg/l)
IAA
(mg/l) Số rễ
Dài rễ
(cm) Số rễ
Dài rễ
(cm) Số rễ
Dài rễ
(cm)
D1 0 0 2,00 b 0,91a 3,29 c 3,56a 3,93 d 6,46ab
D2 0,5 0 - - 7,64ab 1,00 c 14,00 b 4,86 bc
D3 1,0 0 - - 6,79ab 0,66 c 20,43a 4,07 c
D4 1,5 0 - - 5,50 bc 0,49 c 19,07a 3,14 c
D5 0 0,5 2,93 b 0,08 b 7,93ab 0,99 c 10,43 bc 4,83 bc
D6 0 1,0 4,14ab 0,17 b 6,64ab 2,17 b 8,79 c 7,43a
D7 0 1,5 5,93a 0,26 b 9,07a 2,83ab 11,57 bc 7,00a
TB 3,75 0,36 6,69 1,67 12,60 5,40
Mức ý nghĩa * ** ** ** ** **
CV (%) 32,08 13,23 39,98 56,19 30,94 32,42
Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trong cột chỉ sự khác biệt ở mức ý nghĩa thống kê; *: khác biệt ý nghĩa thống kê ở
mức 5%, **: khác biệt ý nghĩa thống kê ở mức 1%.
Trong tuần thứ 2 sau khi cấy, ta thấy 3 nghiệm thức
có chất điều hòa sinh trưởng IAA là D5, D6 và D7
đều xuất hiện nhiều rễ. Trong khi 3 nghiệm thức có
chứa NAA là D2, D3 và D4 chưa xuất hiện rễ, dù
rằng nghiệm thức đối chứng D1 (không có chất điều
hòa sinh trưởng) vẫn có rễ.
Đến tuần thứ 6, số rễ tiếp tục tăng ở tất cả các
nghiệm thức nhưng có sự chuyển biến mới. Thời
điểm này nhóm môi trường sử dụng NAA có chiều
biến gia tăng tích cực, 2 nghiệm thức D3 và D4 có
số rễ nhiều nhất lần lượt là 20,43 và 19,07 rễ, khác
biệt thống kê hoàn toàn so với 3 nghiệm thức có
IAA là D5, D6 và D7. Khả năng tạo rễ thấp nhất là
trên nghiệm thức đối chứng D1 chỉ có 3,93 rễ, rễ
dài và ốm, khác biệt thống kê hoàn toàn so với các
nghiệm thức khác.
Như vậy, ta nhận thấy, các nghiệm thức môi trường
có bổ sung NAA là D2, D3 và D4, m