Nhân một trường hợp bệnh lý rối loạn chuyển hoá Galactose

Cho đến nay, tại Việt Nam, việc phát hiện các bệnh lý rối loạn chuyển hóa còn gặp nhiều khó khăn, đa phần phát hiện trễ do chưa có chương trình tầm soát thường qui cho tất cả các trẻ sơ sinh. Hơn nữa, ngay sau sanh việc cho trẻ ăn để thích nghi với cuộc sống ngoài tử cung. Tuy nhiên, nếu trẻ có rối loạn trong chuyển hoá một trong các thành phần có trong thức ăn của trẻ thì việc cho ăn này sẽ trở nên nguy hiểm. Rối loạn chuyển hoá galactose là một trong các bệnh rối loạn chuyển hoá có thể gặp ở trẻ sơ sinh. Việc phát hiện bệnh thường muộn và trẻ thường được chẩn đoán khi tử vong là chết chưa rõ nguyên nhân. Báo cáo ca bệnh này nhằm mục đích thông tin cho các đồng nghiệp về diễn tiến một trường hợp đã được chẩn đoán nhằm phát hiện và xử trí sớm. Nếu chương trình tầm soát 48 loại bệnh lý rối loạn chuyển hoá bẩm sinh được triển khai thì việc phát hiện rối loạn chuyển hoá galactose không khó. Tuy nhiên hiện nay tại Việt Nam, do chưa có chương trình tầm soát này nên có nhiều gia đình có nhiều con bị tử vong sớm sau sinh mà không rõ nguyên nhân. Việc tầm soát dù không quá phức tạp nhưng lại tốn kém vì phải gửi mẫu ra nước ngoài, kết quả trả về cũng khá chậm. Trường hợp rối loạn chuyển hóa bẩm sinh này đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về các bệnh lý rối loạn chuyển hoá có thể là nguyên nhân gây tử vong sớm cho trẻ sơ sinh mà không rõ nguyên nhân. Rất mong chương trình tầm soát các bệnh lý rối loạn chuyển hoá sớm được triển khai và được thực hiện ngày càng rộng rãi cho các trẻ được sơ sinh Việt Nam.

pdf5 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 252 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân một trường hợp bệnh lý rối loạn chuyển hoá Galactose, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Hội Nghị Việt Pháp Châu Á Thái Bình Dương lần XII Ngày 16‐17 Tháng 5 Năm 2013 98 NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP BỆNH LÝ RỐI LOẠN CHUYỂN HOÁ  GALACTOSE  Ngô Minh Xuân*, Vũ Tề Đăng**  TÓM TẮT  Cho đến nay, tại Việt Nam, việc phát hiện các bệnh lý rối loạn chuyển hóa còn gặp nhiều khó khăn, đa phần  phát hiện trễ do chưa có chương trình tầm soát thường qui cho tất cả các trẻ sơ sinh. Hơn nữa, ngay sau sanh  việc cho trẻ ăn để thích nghi với cuộc sống ngoài tử cung. Tuy nhiên, nếu trẻ có rối loạn trong chuyển hoá một  trong các thành phần có trong thức ăn của trẻ thì việc cho ăn này sẽ trở nên nguy hiểm. Rối loạn chuyển hoá  galactose là một trong các bệnh rối loạn chuyển hoá có thể gặp ở trẻ sơ sinh. Việc phát hiện bệnh thường muộn và  trẻ thường được chẩn đoán khi tử vong là chết chưa rõ nguyên nhân. Báo cáo ca bệnh này nhằm mục đích thông  tin cho các đồng nghiệp về diễn tiến một trường hợp đã được chẩn đoán nhằm phát hiện và xử trí sớm. Nếu  chương trình tầm soát 48 loại bệnh lý rối loạn chuyển hoá bẩm sinh được triển khai thì việc phát hiện rối loạn  chuyển hoá galactose không khó. Tuy nhiên hiện nay tại Việt Nam, do chưa có chương trình tầm soát này nên có  nhiều gia đình có nhiều con bị tử vong sớm sau sinh mà không rõ nguyên nhân. Việc tầm soát dù không quá  phức tạp nhưng lại tốn kém vì phải gửi mẫu ra nước ngoài, kết quả trả về cũng khá chậm. Trường hợp rối loạn  chuyển hóa bẩm sinh này đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về các bệnh lý rối loạn chuyển hoá có thể là nguyên  nhân gây tử vong sớm cho trẻ sơ sinh mà không rõ nguyên nhân. Rất mong chương trình tầm soát các bệnh lý  rối  loạn chuyển hoá sớm được triển khai và được thực hiện ngày càng rộng rãi cho các trẻ được sơ sinh Việt  Nam.  Từ khóa: galactosemia, rối loạn chuyển hóa.  ABSTRACT  A REPORT OF GALACTOSEMIA DIAGNOSED AND MANAGED AFTER BIRTH AT TU DU  HOSPITAL, VIETNAM  Ngo Minh Xuan, Vu Te Dang * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 2 ‐ 2013: 98 ‐ 102  In the treatment of infant diseases, the detection of pathological metabolic disorders is very difficult. Because  there are no screening programs for all newborns after births at Vietnam. Infact, feeding an infant immediately  after birth is necessary for children to survive outside the womb, but it may cause a severe problem if the baby  have a metabolic disorders. Pathological galactose metabolic disorders is one of the metabolic disorders in infants.  The disease is usually detected late and the baby may die before having a final cause. This report aims to inform  other colleague a special case that has been diagnosed and help us to have more experience about galactosemia.  Detecting pathological galactose metabolic disorders is not too difficult, but it requires a good screening and a  careful treatment. In Vietnam, families that have a children suffering from this disease have to sacrify one or two  first  baby  because  we  have  not  implemented  a  screening  program  of  48  types  of  these  diseases  congenital  metabolic disorders. The screening is not too complicated but is quite expensive and we have to send samples to  others  countries,  so  the  returned  results  is also quite  slow. Through  this  report  cases may help  to  find  out  a  solution for diagnosis of pathological metabolic disorders in children that may be diagnosed as dead of unknown  causes. We  hope  the  program  of medical  screening  for metabolic  disorders  can  be  deployed  in  and  is widely  implemented for all children born in Vietnam.  Key words: galactosemia, diagnose.  *: Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch   ** Bệnh viện Từ Dũ  Tác giả liên lạc: PGS.TS.BS Ngô Minh Xuân.  ĐT: 0903861784  Email: xuanlien62@yahoo.com  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Nhi Sơ Sinh 99 ĐẶT VẤN ĐỀ   Hiện  nay  tại Việt Nam,  việc  phát  hiện  các  bệnh  lý  rối  loạn chuyển hoá bẩm sinh còn gặp  nhiều  khó  khăn  do  chúng  ta  chưa  có  chương  trình tầm soát một cách tự động cho tất cả các trẻ  được sinh ra. Thông thường, trẻ sơ sinh sẽ được  cho bú ngay từ ngày đầu sau sanh. Nhưng việc  này cũng  tiềm ẩn một nguy cơ cao cho  trẻ nếu  trẻ có rối  loạn  trong chuyển hoá một  trong các  thành phần có trong thức ăn của trẻ. Bệnh lý rối  loạn chuyển hoá galactose là một trong các bệnh  rối loạn chuyển hoá có thể gặp ở trẻ sơ sinh. Việc  phát hiện bệnh  thường chậm  trễ và  trẻ  thường  được chẩn đoán khi tử vong là tử vong không rõ  nguyên nhân. Báo  cáo  ca bệnh này nhằm mục  đích  thông  báo  cho  các  đồng nghiệp diễn  tiến  một trường hợp đã được chẩn đoán nhằm tìm ra  cách chẩn đoán, phát hiện sớm cũng như hướng  xử trí khi bé mắc phải.  TỔNG QUAN Y VĂN VỀ BỆNH LÝ RỐI  LOẠN CHUYỂN HÓA GALACTOSE  Bệnh Galactosemia là một rối loạn di truyền  liên  quan  tới  chu  trình  chuyển  hóa  đường  galactose.   Các nhà nghiên cứu đã xác định có một số  týp bệnh galactosemia. Người bệnh mắc mỗi týp  này là do đột biến ở các gen cụ thể và có những  tác  động  khác  nhau  đến  các  enzyme  cần  thiết  cho  quá  trình  phân  cắt  đường  galactose.  Galactosemia thể cổ điển, hay còn được biết đến  như là galactosemia týp I (thiếu hụt galactose‐1‐ phosphate  uridyl  transferase),  là  loại  phổ  biến  nhất  và mang  lại  hậu  quả  nghiêm  trọng  nhất.  Galactosemia  týp  II  (hay  còn  gọi  là  thiếu  hụt  galactosekinase) và  týp  III  (có  tên khác  là  thiếu  galactose epimerase) mang các dấu hiệu và triệu  chứng đặc trưng khác nhau.  Nếu  trẻ  sơ  sinh mắc  bệnh  galactosemia  cổ  điển không được điều trị ngay lập tức bằng việc  hạn chế đồ ăn chứa galactose, các biến chứng đe  dọa tính mạng sẽ xuất hiện trong vòng vài ngày  sau khi sinh. Trẻ sơ sinh bị biến chứng sẽ có biểu  hiện điển hình như khó cho bú, chậm phát triển,  cân nặng và chiều cao không tăng như dự kiến,  vàng da và mắt, tổn thương gan và bị chảy máu.  Các biến chứng nguy hiểm khác của bệnh này có  thể  bao  gồm  nhiễm  trùng  nặng  (sepsis)  và  bị  shock. Trẻ bị  tổn  thương cũng bị  tăng nguy cơ  chậm phát triển, khó phát âm, và thiểu năng trí  tuệ. Phụ  nữ  với di  chứng  của  galactosemia  có  thể có vấn đề về sinh sản do suy buồng trứng(1).  Galactosemia týp II gây ra ít vấn đề sức khỏe  hơn  thể cổ điển. Trẻ mắc bệnh bị gia  tăng  đục  thủy tinh thể, nhưng ngược lại ít các biến chứng  lâu  dài  hơn.  Dấu  hiệu  và  triệu  chứng  của  galactosemia  týp  II  thì  biến  thiên  từ  nhẹ  đến  nặng và có thể bao gồm đục thủy tinh thể, chậm  lớn và chậm phát triển, thiểu năng trí tuệ và mắc  các bệnh về thận(1).  Tần  suất  mắc  bệnh  loại  cổ  điển  khoảng  1/30.000 –  60.000  trẻ  sơ  sinh. Loại  II và  loại  III  xảy ra ít phổ biến hơn, loại II với tỷ lệ 1/100.000  trẻ sơ sinh. Loại III hầu như  là rất hiếm xảy ra,  chỉ một vài bệnh nhân được báo cáo ở mỗi quốc  gia. Tỷ  lệ mắc bệnh khác nhau  theo  các nhóm  dân  tộc,  các  vùng miền.  Ở  châu Âu  tỷ  lệ mắc  GALT là 30.000 đến 40.000(7). Ở Nhật Bản 1 trong  1 triệu trẻ sơ sinh(4).   Các nhà khoa học  đã xác  định một  số  loại  rối loạn chuyển hóa Galactosemia. Các loại bệnh  này gây  ra  bởi  đột  biến  ở một  số  các  gen  đặc  biệt,  và  ảnh  hưởng  đến  hoạt  động  của  các  enzym khác nhau  liên quan đến việc quá  trình  chuyển  hóa  đường  Galactose.  Bệnh  Galactosemia  cổ  điển,  còn  được  gọi  là  týp  I  (thiếu  enzym  galactose‐1  phosphate  uridyltransferase  ‐  GALT),  là  loại  hay  gặp  và  nghiêm  trọng  nhất.  Bệnh  Galactosemia  týp  II  (thiếu enzym galactokinase  ‐ GALK) và  týp  III  (thiếu  enzym  UDP‐galactose‐4‐epimerase  ‐  GALE) thường chiếm tỷ  lệ  ít hơn và gây ra các  triệu chứng lâm sàng khác nhau.   Người bị bệnh Glactosemia cổ điển có rất ít  hoặc  thiếu  loại enzym GALT, giúp phá vỡ cấu  trúc đường Galactose.  Các nhà khoa học đã phát hiện có  tới hơn  180  đột  biến  trên  gen  GALT  gây  nên  bệnh  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Hội Nghị Việt Pháp Châu Á Thái Bình Dương lần XII Ngày 16‐17 Tháng 5 Năm 2013 100 Galactosemia  cố điển. Hầu hết  các biến  đổi  ở  gen GALT  là thay đổi các axit amin trong cấu  trúc protein.  GALT đột biến nhiều nhất được  tìm  thấy ở  người da  trắng (Châu Âu và Bắc Mỹ),  thay  thế  axit min Glutamine với axit amin Arginine ở vị  trí 188  trong gen. Một đột biến  trên gen GALT  xảy ra đối với người gốc châu Phi là sự thay thế  axit amin Leuxin cho axit amin Serin ở vị trí 135  của gen này.  Bệnh galactosemia là bệnh di truyền lặn trên  nhiễm  sắc  thể  thường.  Người  không  bị  bệnh  galactosemia mang hai alen bình thường để sản  xuất  các  enzyme  GALT  (enzyme  cần  thiết  để  chuyển  đổi  galactose  thành  glucose  sử  dụng  được bởi cơ  thể). Kiểu gen của người này sẽ  là  N/N và hoạt động enzyme của họ bình thường.  Người được  thừa hưởng một alen bình  thường  và một alen gây bệnh  từ cha mẹ. Kiểu gen của  người này sẽ  là G/N và hoạt động enzyme của  họ  sẽ yếu hơn bình  thường, nhưng không yếu  hơn quá nhiều. Một người mang hai alen bị đột  biến sẽ gây ra bệnh galactosemia cổ điển. Kiểu  gen của người này sẽ là G/G và enzyme của họ  không hoạt động.  Về mặt triệu chứng và biểu hiện lâm sàng   Trẻ  sơ  sinh  bị  bệnh  Galactosemia  cổ  điển  thường có biểu hiện sau khi sinh. Trẻ càng được  cho bú sớm thì các dấu hiệu xuất hiện càng sớm,  nhiều khi các dấu hiệu xuất hiện từ lúc trẻ được  2 ngày tuổi.   Các  triệu  chứng  sớm  của  bệnh  có  thể  bao  gồm: Vàng da vàng mắt, ói mửa, tăng cân chậm,  hạ đường huyết, bú kém, trẻ khó chịu, hôn mê,  co giật   Nếu không được điều trị, các triệu chứng có  thể  gồm:  đục  thủy  tinh  thể,  gan  lách  to,  tổn  thương não, sưng phù các chi hoặc  tổn  thương  dạ dày, nhiễm vi khuẩn Escherichia coli  (nhiễm  trùng huyết) xơ gan, suy gan, tổn thương thận,  tử vong.  Khi chẩn đoán trẻ bị bệnh Galactosemia, cần  có chế độ ăn uống hạn chế  thực phẩm có chứa  Galactose  ngay  lập  tức  nhằm  ngăn  chặn  tình  trạng ngộ độc cấp.  Tuy nhiên các biến chứng lâu dài có thể xảy  ra. Bao gồm: Tăng  trưởng  chậm, học  tập kém,  rối loạn ngôn ngữ, chậm phát triển.  Xét  nghiệm  máu  để  phát  hiện  bệnh  Galactosemia  bằng  cách  đo  nồng  độ  đường  Galactose trong máu. Cũng có thể tiến hành đo  nồng độ đường Galactose  trong nước  tiểu. Đối  với trẻ sơ sinh chỉ cần tiến hành lấy vài giọt máu  ở gót chân trong thời gian 48‐72 giờ sau khi sinh  là  có  thể  phát  hiện  được  trẻ  có  bị  bệnh  Galactosemia  hay  không,  việc  xác  định  chẩn  đoán  sẽ được  tiến hành bằng cách kiểm  tra  lại  máu lần thứ hai. Chẩn đoán sớm và điều trị kịp  thời  cho  trẻ  để  tránh  những  biến  chứng  ảnh  hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của trẻ.  Hiện nay không  có  cách  điều  trị dứt  điểm  được bệnh Galactosemia. Việc điều trị là loại bỏ  đường Galactose trong thức ăn để tránh tái diễn  các  triệu chứng, và việc điều  trị này  là  lâu dài.  Người bị bệnh Galactosemia thường phải loại bỏ  những thực phẩm có chứa đường galactose khỏi  phần ăn, nhất là loại bỏ hẳn sữa và các sản phẩm  sữa. Vì  sữa và  các  sản phẩm  sữa  thường  chứa  nhiều canxi, nên phải thường bổ sung canxi cho  những người  bị  bệnh Galactosemia dưới dạng  những  thực phẩm  bổ  sung  và  có  thể  thay  thế  sữa bằng các sản phẩm sữa đậu nành.  PHẦN BÁO CÁO CA BỆNH  Bệnh  nhân  được  nhập  vào  khoa  với  chẩn  đoán theo dõi bệnh lý rối loạn chuyển hoá bẩm  sinh. Gia đình có tiền sử sanh 3 bé đầu tiên đều  mất  chưa  rõ  nguyên  nhân.  Trường  hợp  thứ  1  chết  sau  sanh 11 ngày. Trường hợp  thứ 2  chết  sau sanh 15 ngày và trường hợp thứ 3 chết sau  sanh 1,5 tháng. Đến bé thứ 4 được chẩn đoán là  theo dõi bệnh  lý rối  loạn chuyển hoá, và bé đã  được  chuyển  ngay  đến  bệnh  viện  Nhi  trung  ương để điều trị ngay từ ngày thứ 1. Khi vào bé  thở đều, cân nặng 2900g, khám lâm sàng không  phát hiện gì bất thường. Bé được nuôi bằng dịch  truyền  đường hoàn  toàn. Bé  được  làm  các  xét  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Nhi Sơ Sinh 101 nghiệm  chẩn  đoán  bệnh  lý  chuyển  hoá  acid  amin, acid béo, acid hữu cơ ; kết quả NH3 không  cao, ceton niệu (‐). Bé được cho bú mẹ thử. Sau 6  ngày bú mẹ và truyền dịch, trên da bé xuất hiện  các  chấm xuất huyết dưới da, vàng da. Có  rối  loạn đông máu và được truyền huyết tương tươi  đông lạnh. Nghi ngờ giảm prothrombin do suy  gan. Bé  tiếp  tục được điều  trị kháng sinh, dịch  truyền và bú mẹ. Sau truyền plasma bé có phục  hồi về rối  loạn đông máu. Sau đó bé không có  điều trị đặc hiệu và chỉ được theo dõi đông máu  toàn bộ. Sau 43 ngày điều trị, tình hình nặng dần  và người nhà xin về sau nhiều  lần được truyền  plasma. Bé tử vong sau đó 3 ngày.   Bé thứ 5 lần này là một bé gái, cân nặng lúc  sanh  là  3500g,  dài  51  cm,  vòng  đầu  34  cm.  APGAR 8/9. Sanh thường. Khám lâm sàng tổng  quát ngay sau sanh chưa phát hiện bất thường.  Bé thở khí trời. Tuy nhiên từ ngay khi vào khoa,  bé  được  nuôi  dưỡng  hoàn  toàn  bằng  đường  glucose  truyền  tĩnh mạch, không uống  sữa mẹ  hay sữa công thức và được  làm các xét nghiệm  cơ  bản  như:  tổng  phân  tích  tế  bào máu, CRP,  nhóm máu, Rh, Đông máu toàn bộ, siêu âm tim  não  bụng  tổng  quát, X  quang  tim  phổi  thẳng.  Các xét nghiệm về cho kết quả bình thường. Bé  có nhóm máu O+. Sang ngày thứ 2, bé rất đòi ăn  và được cho ăn glucose 10%. Từ ngày thứ 4, bé  bắt đầu có biểu hiện vàng da và được cho  thử:  khí máu  động mạch,  đông máu  toàn  bộ,  ion  đồ/máu, CRP, Bilirubine, NH3, lactate/máu, tổng  phân  tích  nước  tiểu,  đường  huyết  tại  giường.  Kết  quả  đông máu  toàn  bộ  có  rối  loạn  và  bé  được  truyền  huyết  tương  tươi  đông  lạnh,  rọi  đèn  điều  trị  vàng  da. Khí máu  động mạch  có  toan chuyển hoá nhẹ với pH là 7,330 (không tính  được  ANION  GAP  do  không  đo  được  Cl‐).  Lactate  3,59  (ngưỡng  0,63‐2,44 mmol/L) ;  NH3  60,4  (11‐60 micromol/L).  Bé  vẫn  tiếp  tục  được  cho truyền đường và ăn hoàn toàn glucose kèm  điện giải, rọi đèn. Lượng bú ngày một tăng và bé  ngưng dịch truyền vào ngày thứ 13. Bé bú hoàn  toàn  glucose  10%  kèm  điện  giải.  Bé  được  làm  thêm các xét nghiệm SGOT, SGPT, TSH, G6PD,  Coombs  Test,  alpha‐foetoprotein,  và  được  tầm  soát 48 bệnh lý rối loạn chuyển hoá. Các kết quả  trả về đều bình thường, ngoại trừ AFP là 37470  ng/ml.  Bé  bắt  đầu  được  cho  ăn  sữa  loãng  từ  ngày thứ 13. Sau 2 ngày uống sữa, lâm sàng vẫn  bình thường và bé được làm lại các xét nghiệm  tầm  soát :  khí máu  động mạch,  SGOT,  SGPT,  BUN,  Creatinin,  CRP,  ion  đồ,  NH3/máu,  Afp/máu. Kết quả khí máu động mạch có  toan  chuyển hoá, kiềm hô hấp bù trừ 1 phần. Anion  Gap là 18,1 mmol/l. AFP giảm còn 17939 ng/ml.  Bé  được  chẩn  đoán  theo  dõi  bệnh  lý  rối  loạn  chuyển hoá và cho  làm  lại  tầm soát 48 bệnh  lý  chuyển  hoá  và  được  nuôi  ăn  bằng  sữa  progestimilk từ ngày thứ 16. Diễn tiến lâm sàng  vẫn tiến triển tốt. Ngày thứ 21, bé có kết quả tầm  soát 48 bệnh với chẩn đoán  là galactosemia. Bé  được chuyển sang nuôi dưỡng hoàn  toàn bằng  sữa lacto‐free. Bé lên cân tốt, không có biểu hiện  thần kinh. Thử  lại chức năng gan bình  thường  và bé được cho xuất viện với chẩn đoán rối loạn  chuyển hoá galactose sau 26 ngày điều trị. Hiện  tại bé  đã  được hơn 12  tháng  tuổi,  cân nặng 15  kg, và bắt đầu chập chững những bước đi đầu  đời. Tuy nhiên bé vẫn phải uống sữa  lacto‐free  và ăn các thức ăn không có đường.  BÀN LUẬN   Bệnh  lý  rối  loạn  chuyển hoá  ở  trẻ  sơ  sinh  tuy là bệnh hiếm gặp, nhưng rất khó chẩn đoán  ở giai đoạn đầu. Em bé sau sanh thường chưa có  biểu hiện đặc biệt, và các thăm khám cũng như  xét  nghiệm  cận  lâm  sàng  thường  cho  kết  quả  bình  thường.  Việc  thận  trọng  ngay  từ  những  bước đầu là rất quan trọng. Nuôi dưỡng bé hoàn  toàn  bằng  đường  glucose  được  cho  là  khá  an  toàn. Trong  trường hợp  ở đây, các  thăm khám  lâm sàng cũng như xét nghiệm đều cho kết quả  gần như bình thường. Xét nghiệm khí máu động  mạch  cũng  như  tính  toán  lượng  anion  GAP  cũng khá  tốt  trong  chẩn  đoán bệnh  lý  rối  loạn  chuyển hoá bẩm sinh. Khi các xét nghiệm trả về  đều bình  thường, bé  đã  được  cho bú  sữa bình  thường  kèm  dung  dịch  glucose  pha  điện  giải  xen kẽ để đánh giá khả năng hấp thu sữa của bé.  Việc thận trọng này rất cần thiết để hạn chế các  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Hội Nghị Việt Pháp Châu Á Thái Bình Dương lần XII Ngày 16‐17 Tháng 5 Năm 2013 102 rủi ro có thể xảy ra cho bé nếu bé thật sự bị bệnh  lý rối loạn chuyển hoá bẩm sinh. Sau khi cho ăn  sữa 48 giờ  rồi  tạm ngưng, bé được cho  làm  lại  các xét nghiệm tầm soát bệnh lý rối loạn chuyển  hoá và đã cho kết quả dương tính với bệnh lý rối  loạn  chuyển hoá  galactose  kèm  khí máu  động  mạch có anion GAP tăng. Sở dĩ lần đầu tiên thử  tầm soát 48 bệnh  lý rối  loạn chuyển hoá không  cho  ra kết quả dương  tính với bệnh nào vì bé  chưa  được  tiếp xúc với  thức  ăn có  thành phần  không  chuyển  hoá  được. Việc  thử  cho  bé  tiếp  xúc với sữa công  thức  là cần  thiết để đánh giá  khả năng chuyển hoá các chất của bé. Tuy nhiên  khi  cho  ăn  sữa  công  thức bình  thường  cần  rất  thận  trọng  và  cho  ăn  lượng  vừa  phải  và  phải  dừng lại ngay khi có kết luận có bệnh lý rối loạn  chuyển hoá. Có thể kiểm soát mức độ toan máu  của  bé  thông  qua  xét  nghiệm  khí  máu  động  mạch và kiểm tra thêm NH3/máu. Hiện tại bệnh  lý  rối  loạn  chuyển  hoá  galactose  đã  được  biết  đến và đã có loại sữa đặc biệt dành cho loại bệnh  này là lacto‐free. Tuy nhiên việc nuôi dưỡng bé  về  sau  cần  có  sự  tham gia  của  các  chuyên gia  dinh dưỡng.  KẾT LUẬN  Phát  hiện  bệnh  lý  rối  loạn  chuyển  hoá  galactose thật sự không quá khó, nhưng đòi hỏi  sự cẩn thận và tầm soát tốt cũng như thận trọng  trong điều trị. Hiện tại ở Việt Nam, gia đình có  trẻ bị mắc phải bệnh lý này thường có tiền sử là  có một hoặc vài trẻ bị tử vong trước đó vì chúng  ta chưa có chương  trình  triển khai  tầm  soát 48  loại bệnh lý rối loạn chuyển hoá bẩm sinh. Việc  tầm soát tuy không quá phức tạp nhưng khá tốn  kém và phải gửi mẫu ra nước ngoài, kết quả trả  về thường chậm. Thông qua báo cáo trường hợp  bệnh này nhằm gióng  lên hồi chuông cảnh báo  các bệnh  lý rối  loạn chuyển hoá có  thể có ở  trẻ  mà  thường khi  tử vong  tại bệnh viện  có  khoa  phụ sản, được chẩn đoán là chết chưa rõ nguyên  nhân. Rất mong chương trình tầm soát các bệnh  lý  rối  loạn  chuyển hoá nặng  có  thể  được  triển  khai và được thực hiện một cách rộng rãi cho tất  cả các trẻ được sinh ra tại Việt Nam  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Chase R. (2009). Galactosemia. Genome and Medicine.  2. Elsas LJ. (2000). Galactosemia, GeneReviews.  3. Gropper  SS, Weese  JO, West  PA, Gross  KC.  (2000).  Free  galactose  content  of  fresh  fruits  and  strained  fruit  and  vegetable  baby  foods:  more  foods  to  consider  for  the  galactose‐restricted diet, 100(5):573‐5.  4. Hirokawa  H, Okano  Y, Asada  M, Fujimoto  A, Suyama  I, Isshiki  G.  (1999).  Molecular  basis  for  phenotypic  heterogeneity  in  galactosaemia:  prediction  of  clinical  phenotype  from genotype  in  Japanese patients. Eur  J Hum  Genet; 7(7): 757‐64.  5. Hunter  M, Angelicheva  D, Levy  HL, Pueschel  SM, Kalaydjieva  L.  (2001). Novel mutations  in  the GALK1  gene  in  patients  with  galactokinase  deficiency. Hum  Mutat. 17(1):77–8.  6. Panis  B, Forget  PP, van  Kroonenburgh  MJ, Vermeer  C, Menheere  PP, Nieman  FH, Rubio‐Gozalbo  ME.  (2004).  Bone metabolism in galactosemia; 35(4): 982‐987.  7. Sutton  VR,  Hahn  S,  TePa  E.  (2012).  C
Tài liệu liên quan