Đặt vấn đề: Thoát vị bàng quang vào ống bẹn là bệnh lý hiếm gặp. Chẩn đoán trước mổ khó, thường chỉ
phát hiện trong khi phẫu thuật.
Đối tượng và phương pháp: Chúng tôi thông báo một bệnh nhân nam 51 tuổi, vào viện vì có khối phồng
vùng bẹn phải. Bệnh nhân đã được mổ thoát vị bẹn, phát hiện trong mổ là thoát vị bàng quang vào ống bẹn.
Chúng tôi hồi cứu lại y văn về tần suất, nguyên nhân, chẩn đoán và phương pháp điều trị thoát vị bàng quang
vào ống bẹn.
Kết quả: Bệnh nhân thoát vị bẹn đã được phẫu thuật, trong quá trình bộc lộ bao thoát vị, phát hiện bàng
quang trong bao thoát vị bị tổn thương, khâu lại bàng quang, đưa bàng quang về vị trí giải phẫu, phục hồi lại
thành bụng.
Kết luận: Thoát vị bàng quang vào ống bẹn thường phát hiện tình cờ bằng chẩn đoán hình ảnh hoặc trong
lúc phẫu thuật thoát vị bẹn.
4 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 254 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân một trường hợp thoát vị bàng quang vào ống bẹn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 264
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP THOÁT VỊ BÀNG QUANG VÀO ỐNG BẸN
Dương Văn Trung*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Thoát vị bàng quang vào ống bẹn là bệnh lý hiếm gặp. Chẩn đoán trước mổ khó, thường chỉ
phát hiện trong khi phẫu thuật.
Đối tượng và phương pháp: Chúng tôi thông báo một bệnh nhân nam 51 tuổi, vào viện vì có khối phồng
vùng bẹn phải. Bệnh nhân đã được mổ thoát vị bẹn, phát hiện trong mổ là thoát vị bàng quang vào ống bẹn.
Chúng tôi hồi cứu lại y văn về tần suất, nguyên nhân, chẩn đoán và phương pháp điều trị thoát vị bàng quang
vào ống bẹn.
Kết quả: Bệnh nhân thoát vị bẹn đã được phẫu thuật, trong quá trình bộc lộ bao thoát vị, phát hiện bàng
quang trong bao thoát vị bị tổn thương, khâu lại bàng quang, đưa bàng quang về vị trí giải phẫu, phục hồi lại
thành bụng.
Kết luận: Thoát vị bàng quang vào ống bẹn thường phát hiện tình cờ bằng chẩn đoán hình ảnh hoặc trong
lúc phẫu thuật thoát vị bẹn.
Từ khóa: thoát vị bàng quang vào ống bẹn
ABSTRACT
INGUINAL BLADDER HERNIA: CASE REPORT
Duong Van Trung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 264 ‐ 267
Objectives: The inguinal bladder herniation is rare. The preoperative diagnosis of bladder involvement is
often difficult and may only become apparent at the time of inguinal herniorrhaphy
Materials and methods: We report a 51 years‐old male patient with a intermittent swelling in the right
goin, revealing herniation of the bladder through the right inguinal canal at the time of herniorrhaphy. We
reviewed the literature, incidence, causes, diagnosis, and surgical consideration of herniation of the urinary
bladder.
Results: The patient underwent right inguinal hernia repair, at the time of inguinal herniorrhaphy. We
revealed bladder injury in hernia sac, reconstructed the bladder and put back to its original location within the
pelvis. Performed standard repair of the direct defect in the inguinal floor.
Conclusions: Most bladder hernias are revealed incidentally during surgery or during imaging studies
performed for other purposes.
Keywords: inguinal bladder hernia
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thoát vị bàng quang vào ống bẹn chiếm tỷ
lệ 1%‐4% trong số bệnh nhân thoát vị bẹn, tỷ lệ
này chiếm 10% những bệnh nhân béo phì trên
50 tuổi bị thoát vị bẹn(6). Hầu hết bệnh nhân
thoát vị bàng quang không có triệu chứng điển
hình, chẩn đoán trước mổ khó khăn, thường
* Khoa ngoại bệnh viện Bưu Điện
Tác giả liên lạc: TS Dương Văn Trung ĐT: 0913534343 Email: trungnoisoi@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 265
chỉ phát hiện thoát vị bàng quang trong khi
phẫu thuật thoát vị bẹn. Việc phát hiện sớm
thoát vị bàng quang sẽ giúp tránh những tai
biến trong và sau mổ(2,8).
Trong bài viết này, mục đích của chúng tôi là
giới thiệu một trường hợp lâm sàng, và điểm lại
y văn về triệu chứng, chẩn đoán và thái độ xử trí
bệnh thoát vị bàng quang vào ống bẹn.
TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG
Bệnh nhân nam 51 tuổi, cao 1m66, nặng 80
kg (BMI=31,25), vào viện vì có một khối ở vùng
bẹn bìu bên phải, khối này nhỏ đi khi nằm
xuống và to lên khi đi lại hoặc gắng sức. Thời
gian mắc bệnh khoảng 5 năm, bệnh nhân không
đau, tiểu tiện bình thường, không đái máu,
không đái khó.
Các xét nghiệm cận lâm sàng: chức năng
thận bình thường (creatinine máu 70 μmol/L),
siêu âm 2 thận và niệu quản bình thường, trong
lỗ bẹn phải có một khối kích thước 24mm x
31mm, có mạc treo và nhu động (hình 1).
Bệnh nhân đã được chẩn đoán và tiến hành
mổ thoát vị bẹn phải. Trong quá trình phẫu tích
bao thoát vị, chúng tôi phát hiện thủng bàng
quang, tiến hành khâu lại bàng quang, đưa bàng
quang về vị trí giải phẫu, khâu phục hồi lại
thành bụng theo phương pháp Bassini. Diễn
biến sau mổ bình thường, chụp phim bàng
quang có thuốc cản quang sau phẫu thuật thấy
hình ảnh bàng quang to (hình 2).
BÀN LUẬN
Thoát vị bẹn là một bệnh ngoại khoa thông
thường, nhưng đôi khi nó gây bất ngờ cho phẫu
thuật viên vì bao thoát vị chứa những bộ phận
bất thường như: bàng quang, buồng trứng, vòi
trứng.; Trong đó thoát vị bàng quang vào ống
bẹn chiếm tỷ lệ 1%‐4%, tỷ lệ này có thể tới 10% ở
những bệnh nhân nam béo phì trên 50 tuổi bị
thoát vị bẹn(6).
Tuỳ theo sự liên quan giữa bàng quang thoát
vị vào ống bẹn và phúc mạc, người ta chia ra 3
loại: thoát vị bàng quang ngoài phúc mạc chiếm
30%. Thoát vị trong phúc mạc hiếm khi xảy ra,
khi mà phần đỉnh và thành sau của bàng quang
chui vào trong bao thoát vị, bàng quang hoàn
toàn được che phủ bởi phúc mạc. Thoát vị bàng
quang cận phúc mạc chiếm 60%, khi phần bàng
quang vào trong bao thoát vị bẹn hoặc đùi cùng
với phúc mạc. Mối liên quan giữa bàng quang
và phúc mạc rất quan trọng vì phúc mạc có thể
che lấp thành bàng quang ở ngay dưới, có thể
gây tổn thương bàng quang trong lúc phẫu
thuật, tỷ lệ tổn thương bàng quang nói chung là
khoảng 12%(1). Bệnh nhân chúng tôi gặp bị tai
biến thủng bàng quang. Trên bệnh nhân này,
sau khi bộc lộ tách riêng thừng tinh, phần còn lại
trong ống bẹn là một khối tổ chức mỡ có thành
bàng quang bên trong mà chúng tôi không biết,
trong khi bộc lộ bao thoát vị thì bị thủng vào
bàng quang. Gurer gặp thủng bàng quang
28,6%(5).
Chẩn đoán thoát vị bàng quang trước phẫu
thuật rất khó vì triệu chứng thường không điển
hình(3,7), bệnh nhân chúng tôi gặp không có triệu
chứng nào khác ngoài phát hiện khối thoát vị
vùng bẹn phải. Gurer và cộng sự gặp 7 bệnh
nhân thoát vị bàng quang trên tổng số 1950 bệnh
nhân thoát vị bẹn, không có bệnh nhân thoát vị
bàng quang nào được chẩn đoán trước mổ(5). Tỷ
lệ chẩn đoán trước mổ thoát vị bàng quang vào
ống bẹn thấp chỉ khoảng 7%. Bệnh thường gặp ở
nam giới, người cao tuổi và trên những bệnh
nhân béo phì, gặp nhiều bên phải.
Một số ít trường hợp triệu chứng lâm sàng
điển hình, bệnh nhân có thể có hội chứng đường
tiết niệu dưới, đi tiểu khó, tiểu không hết bãi, có
khi phải dùng tay ép vào khối thoát vị mới hết
nước tiểu, hoặc sau khi tiểu tiện xong bao thoát
vị xẹp xuống(6)...
Dựa vào chẩn đoán hình ảnh như: siêu âm,
chụp bàng quang có thuốc cản quang ngược
dòng thấy hình ảnh thoát vị bàng quang (hình
3)(6), chụp cắt lớp vi tính hoặc soi bàng quang
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 266
bằng ống soi mềm. Trên phim chụp thận thuốc
thường không thấy hình ảnh gì đặc biệt, hiếm
khi thấy hình ảnh niệu quản bên thoát vị bị kéo
lệch hướng gây giãn thận cùng bên(6,8).
Hình 1. Hình ảnh siêu âm khối thoát vị Hình 2. Hình ảnh chụp bàng quang ngược dòng sau mổ
Hình 3. Hình ảnh chụp bàng quang thoát vị bẹn (6)
Nguyên nhân hình thành nên thoát vị bàng
quang được đề cập đến 2 yếu tố: thành bụng
yếu cùng với mất trương lực bàng quang. Sự đi
đôi giữa tắc nghẽn bàng quang hoặc u bàng
quang làm tăng thoát vị bàng quang trên bệnh
nhân béo phì(4). Sự dính thành bàng quang vào
tổ chức mỡ quanh bàng quang dẫn đến mỡ kéo
thành bàng quang vào bao thoát vị(2).
Hậu quả của thoát vị bàng quang có thể dẫn
đến viêm bàng quang, hình thành sỏi, thiếu máu
thành bàng quang có thể dẫn đến thủng bàng
quang, giãn niệu quản và thận
Phẫu thuật thoát vị bàng quang vào ống
bẹn như cách thức mổ thoát vị bẹn thông
thường, phẫu tích đi vào ống bẹn, phần bàng
quang thoát vị được phẫu tích ra khỏi tổ chức
xung quang và đưa bàng quang trở về vị trí
bình thường. Chỉ cắt bỏ phần bàng quang bị
thoát vị nếu bị thiếu máu, hoại tử, hoặc túi
thừa bàng quang, cắt bán phần bàng quang
nếu có u bàng quang. Thành bụng được phục
hồi lại theo giải phẫu.
KẾT LUẬN
Thoát vị bàng quang vào ống bẹn khó chẩn
đoán trước mổ, thường phát hiện tình cờ bằng
chẩn đoán hình ảnh hoặc trong lúc phẫu thuật
thoát vị bẹn.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 267
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Catalano O. (1997), Ultrasound evaluation of inguinoscrotal
bladder hernias: report of three cases. Clin Imaging,21, pp.126‐
8.
2. Epner SL, Rozenblit A, Gentile R, (1993), Direct inguinal
hernia containing bladder carcinoma: CT
demonstration,AJR,161, pp.97‐98.
3. Gomella LG., Spires SM., Burton JM., Ram MD., Flanigan RC.
(1985), The surgical implications of herniation of the urinary
bladder, Arch Surg, 120, pp. 964‐968.
4. Gonzalvo Perez V., Bottella, Almodovar R., Canto Faubel E.,
et al. (1998), Hernia vesical inguinal masiva, Aportacion de
tres casos. Actas Urol Esp,22, pp.163‐166.
5. Gurer A., Ozdogan M., Ozlem N., Yildrim H., Kulacoglu H.,
Aydin R. (2006), Uncommon content in groin hernia sac,
Hernia, 10, pp. 152‐155.
6. Kate H., Kraft, Sarah Sweeney, BSc, Aaron S., Fink, Chad
W.M., Ritenour, Muta M., Issa, (2008), Inguinoscrotal bladder
hernias: report of a series and review of the literature Can Urol
Assoc J, 2(6), pp. 619‐623
7. Oruc MT., Akbulut Z., Ozozan O., Coskun F. (2004)
Urological findings in inguinal hernias: a case report and
review of the literature. Hernia, 8, pp.76–79.
8. Verbeeck N., C. Larrousse S., Lamy S. (2005), Diagnosis of
inguinal hernia: the current role of sonography, JBR‐BTR, 88,
p.233‐236.
Ngày nhận bài báo: 15‐05‐2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30‐05‐2013
Ngày bài báo được đăng: 15–07‐2013