Đề bài:
Nhận thức mới nhất của anh (chị) về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tư duy đổi mới.
MỞ ĐẦU
Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta đã trải qua một quá trình lâu dài và không đơn giản. Trong quá trình đó Đảng ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, xuất phát từ thực tiễn đất nước, có nhiều tìm tòi, sáng tạo trong nhận thức lý luận, nhất là trong thời kỳ đổi mới.
NỘI DUNG
1. Lý luận chung về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
- Khái niệm chủ nghĩa xã hội
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, “Chủ nghĩa xã hội” còn được hiểu với tư cách là một chế độ xã hội thuộc hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà việc xây dựng và hoàn thiện nó như một quá trình lịch sử lâu dài để từng bước đạt tới mục tiêu. Theo Người: “Xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”. Luận đề tổng quát đó được Người cụ thể thêm “Chủ nghĩa xã hội nghĩa là tất cả mọi người các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng sung sướng”. “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh”. Bản chất và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội có được bộc lộ ra không, có được phản ánh đúng đắn không là ở Đảng và Nhà nước ta. Người viết: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”.
10 trang |
Chia sẻ: anhquan78 | Lượt xem: 4572 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận thức mới nhất của anh (chị) về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tư duy đổi mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Ngọc Lớp B – K63 Khoa Lịch sử
Giảng viên: TS. Phạm Thị Tuyết
Đề bài:
Nhận thức mới nhất của anh (chị) về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tư duy đổi mới.
MỞ ĐẦU
Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta đã trải qua một quá trình lâu dài và không đơn giản. Trong quá trình đó Đảng ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, xuất phát từ thực tiễn đất nước, có nhiều tìm tòi, sáng tạo trong nhận thức lý luận, nhất là trong thời kỳ đổi mới.
NỘI DUNG
Lý luận chung về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
Khái niệm chủ nghĩa xã hội
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, “Chủ nghĩa xã hội” còn được hiểu với tư cách là một chế độ xã hội thuộc hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà việc xây dựng và hoàn thiện nó như một quá trình lịch sử lâu dài để từng bước đạt tới mục tiêu. Theo Người: “Xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”. Luận đề tổng quát đó được Người cụ thể thêm “Chủ nghĩa xã hội nghĩa là tất cả mọi người các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng sung sướng”. “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh”. Bản chất và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội có được bộc lộ ra không, có được phản ánh đúng đắn không là ở Đảng và Nhà nước ta. Người viết: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”.
Mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là một trong những vấn đề quan trọng.
Cùng với chế độ mới, nền kinh tế mới, việc xây dựng XHCN còn nhấn mạnh tới nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa trong mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng CNXH, có thời kỳ chúng ta đã mắc phải sai lầm chủ quan duy ý chí và giáo điều trong việc áp dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và mô hình CNXH Xô-viết. Trong những năm đổi mới, Đảng ta đã có sự nhận thức đúng hơn thực chất những tư tưởng của các nhà kinh điển mác-xít, đã bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin trên một loạt các vấn đề, vận dụng phù họp hơn với thục tiễn Việt Nam.
Như vậy, Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Khái niệm “thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội”: là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc toàn bộ lĩnh vực đời sống xã hội, bắt đầu từ khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền nhà nước cho tới khi tạo ra được những cơ sở của CNXH trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Các quan niệm về con đường đi lên CNXH: Có hai con đường đi lên CNXH:
Một là, quá độ trực tiếp chủ nghĩa xã hội. Đây là con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước tư bản phát triển.
Hai là, quá độ lên CNXH qua nhiều khâu trung gian, nhiều bước quá độ. Đây là con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước lạc hậu, kinh tế kém phát triển.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Thông qua các văn kiện Đảng cùng với thực tiễn khách quan, có thể rút ra nhận xét chung nhất về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới như sau:
Thứ nhất, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong hơn 76 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dù trong hoàn cảnh nào Đảng ta vẫn luôn kiên định con đường XHCN, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Kết hợp độc lập dân tộc với CNXH là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt đường lối cách mạng Việt Nam. Đường lối đó không chỉ phù hợp trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ trước đây, mà còn là đường lối chỉ đạo trong giai đoạn cách mạng XHCN, trong công cuộc đổi mới hiện nay. Từ thực tiễn cách mạng thế giới và trong nước, Đảng và nhân dân ta nhận thức sâu sắc rằng, chỉ có con đường độc lập dân tộc và CNXH, Tổ quốc ta mới được độc lập, tự do, nhân dân ta mới trở thành người làm chủ, tự quyết định con đường phát triển của mình.
Thứ hai, vận dụng những tiền đề lý luận về con đường đi lên CNXH của chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tế xã hội Việt Nam, con đường mà chúng ta lực chọn để đi lên chủ nghĩa xã hội chính là bỏ qua giai đoạn TBCN tiến thẳng lên CNXH.
Nước ta đi lên CNXH xuất phát từ một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, từ một xã hội tiền tư bản, có những yếu tố giai đoạn đầu tư bản chủ nghĩa (TBCN) với nền sản xuất nhỏ là phổ biến, bỏ qua chế độ TBCN. Đặc điểm xuất phát này quy định cả nội dung, hình thức, bước đi và thời gian của con đường đi lên CNXH ở nước ta. Khi nói về đặc điểm xây dựng CNXH ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đặc điểm to nhất... là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH, không phải kinh qua giai đoạn phát triển TBCN”. Khái niệm “tiến thẳng” ở đây không có nghĩa là “quá độ trực tiếp” lên CNXH mà chỉ có nghĩa là “không phải kinh qua chế độ TBCN” hay “bỏ qua chế độ TBCN”. Mà “bỏ qua chế độ TBCN” tức là bỏ qua việc xác lập vai trò thống trị của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng TBCN nhưng phải biết kế thừa và phát huy những nhân tố tích cực được tạo ra trong lòng CNTB để xây dựng CNXH. Do điểm xuất phát thấp về kinh tế - xã hội nên chúng ta phải thực hiện kiểu “quá độ gián tiếp” từ xã hội tiền tư bản, lên CNXH với nhiều khâu trung gian, nhiều bước quá độ, nhiều hình thức tổ chức kinh tế - xã hội có tính chất quá độ, đan xen để thực hiện bước chuyển tiếp lên CNXH. Đây cũng là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, với nhiều chặng đường. Nếu nhân dân Trung Quốc đang xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc mà giai đoạn đầu dài khoảng 100 năm, thì chúng ta mới hoàn thành giai đoạn tạo tiền đề cho công nghiệp hóa và đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Sau đó còn bao nhiêu giai đoạn nữa, là những giai đoạn gì và độ dài của thời kỳ quá độ là bao nhiêu năm thì cho đến nay chúng ta vẫn chưa xác định rõ được. Để xác định được chắc chắn chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc:
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển. Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn; nhưng đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á phát triển năng động, nhưng cũng tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định. Tình hình đó tạo thời cơ phát triển, đồng thời đặt ra những thách thức gay gắt, nhất là đối với những nước đang và kém phát triển.
Trong quá trình hình thành và phát triển, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt những thành tựu to lớn về nhiều mặt, từng là chỗ dựa cho phong trào hoà bình và cách mạng thế giới, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là tổn thất lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, nhưng một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới, giành được những thành tựu to lớn, tiếp tục phát triển; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có những bước hồi phục. Tuy nhiên, các nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và cánh tả còn gặp nhiều khó khăn, các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm cách xoá bỏ chủ nghĩa xã hội.
Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản.
Các nước đang phát triển, kém phát triển phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn, phức tạp chống nghèo nàn, lạc hậu, chống mọi sự can thiệp, áp đặt và xâm lược để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc.
Nhân dân thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh loài người. Đó là giữ gìn hoà bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo... Việc giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi sự hợp tác và tinh thần trách nhiệm cao của tất cả các quốc gia, dân tộc.
Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ bối cảnh trong nước và quốc tế, thông qua các văn kiện Đại hội Đảng, mục tiêu, cách thức, biện pháp của con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng sáng tỏ đặc biệt trong các văn kiện Đại hội VI, IX, X, XI và XII.
Về mục tiêu: Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về phương hướng: Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;... Không phiến diện, cực đoan, duy ý chí.
Về biện pháp:
Các biện pháp để cụ thể hóa các phương hướng trên như sau:
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đây là một đột phá lý luận rất sáng tạo của Đảng ta. Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Dựa trên thành quả nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn những năm qua, Văn kiện Đại hội X đã góp phần làm sáng tỏ khái niệm “định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường”, qua đó bác bỏ quan điểm phủ nhận định hướng XHCN trong kinh tế thị trường.
Nắm vững định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường có nghĩa là:
+ Thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng...
+ Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
+ Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.
+ Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Để tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, Văn kiện Đại hội X đã nhấn mạnh phải nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước; phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh; phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh.
Đẩy mạnh công,nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Từ một nền sản xuất nhỏ đi lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN, nhất thiết phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp. Muốn phát triển lực lượng sản xuất không có cách nào khác là phải tiến hành công nghiệp hóa và kết hợp ngay từ đầu công nghiệp hóa với hiện đại hóa, đồng thời gắn với phát triển kinh tế tri thức. Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN, trong đó đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để làm nền tảng tinh thần của xã hội. Văn kiện Đại hội X khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế-xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”. Để văn hóa thật sự làm nền tảng tinh thần của xã hội, phải nâng cao chất lượng, hiệu quả của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ - những lĩnh vực được coi là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phát huy dân chủ, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN. Phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu và bản chất của chế độ ta. Để thực hiện mục tiêu đó, vấn đề trung tâm là phải xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình chủ yếu bằng nhà nước, thông qua nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, Văn kiện Đại hội X đã nhấn mạnh vấn đề “xây dựng một xã hội dân chủ”; xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền XHCN; xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát các cơ quan công quyền; tiếp tục đổi mới hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp; tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí.
Tăng cường quốc phòng và an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Xây dựng XHCN và bảo vệ Tổ quốc XHCN là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong điều kiện mới phải nhận thức sâu sắc mối quan hệ này cũng như quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng - an ninh - đối ngoại, giữa thế trận quốc phòng với thế trận an ninh; nhận thức sâu sắc và toàn diện hơn khái niệm “an ninh quốc gia” và khái niệm “bảo vệ Tổ quốc”, từ đó đề ra các chủ trương, chính sách phù hợp.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, coi đó là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo và Tổ quốc. Văn kiện Đại hội X đã nhấn mạnh nhiệm vụ tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Văn kiện Đại hội X đã nêu bật đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác...
Đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Văn kiện Đại hội X coi đây là “nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”. Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn phải được coi là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Trên ý nghĩa đó, văn kiện Đại hội X đã nhấn mạnh 5 nhiệm vụ trong công tác xây dựng Đảng hiện nay.
+ Nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng.
+ Kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
+ Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; tăng cường quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát.
+ Đổi mới tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ.
+ Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
KẾT LUẬN
Con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là sự phát triển quá độ đi lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN, bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt là về khoa học – công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế - xã hội có tính chất quá độ.
Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “có tiến lên CNXH thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”. Sự lựa chọn con đường XHCN là sự lựa chọn của Đảng, Bác Hồ, và cũng chính là sự lựa chọn của nhân dân, của lịch sử.
Trong những năm đổi mới nhờ kiên định con đường XHCN, chúng ta vừa giữ vững thành quả cách mạng và mục tiêu cách mạng, vừa kiên quyết đổi mới, dám từ bỏ những phương pháp và mô hình sai lầm, s