Nhôm (aluminum - Al) là vật liệu khá rẻ, thân thiện với con người và môi trường. Al kết
hợp với các ion lithium (Li) tồn tại dưới dạng nhiều hợp kim có cấu hình khác nhau như AlLi,
Al2Li3, Al4Li9 Tùy vào dạng hợp kim được hình thành trong quá trình kết hợp mà khả năng
tích trữ ion Li trong Al sẽ có giá trị khác nhau, giá trị lớn nhất có thể đạt được lên đến 2235
mAh/g (đối với hợp kim Al4Li9). Chính vì lẽ này Al là một trong những vật liệu tiềm năng cho
việc nghiên cứu ứng dụng trong các thiết bị ắc quy. Trong bài báo này chúng tôi giới thiệu một
cấu trúc điện cực anode mới của thiết bị ắc quy được xây dựng trên cơ sở sự kết hợp giữa vật
liệu Al và dây nano kim loại NiSix.
8 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 16/06/2022 | Lượt xem: 219 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhôm phủ trên dây nano kim loại NiSix hoạt động như vật liệu anode của thiết bị ắc quy (Battery) lithium, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
52 Journal of Science – Phu Yen University, No.28 (2021), 52-59
NHÔM PHỦ TRÊN DÂY NANO KIM LOẠI NiSix
HOẠT ĐỘNG NHƯ VẬT LIỆU ANODE CỦA THIẾT BỊ ẮC QUY
(BATTERY) LITHIUM
Lê Đức Toàn*
Trường Đại học Phú Yên
Ngày nhận bài: 16/08/2021; Ngày nhận đăng: 01/10/2021
Tóm tắt
Nhôm (aluminum - Al) là vật liệu khá rẻ, thân thiện với con người và môi trường. Al kết
hợp với các ion lithium (Li) tồn tại dưới dạng nhiều hợp kim có cấu hình khác nhau như AlLi,
Al2Li3, Al4Li9 Tùy vào dạng hợp kim được hình thành trong quá trình kết hợp mà khả năng
tích trữ ion Li trong Al sẽ có giá trị khác nhau, giá trị lớn nhất có thể đạt được lên đến 2235
mAh/g (đối với hợp kim Al4Li9). Chính vì lẽ này Al là một trong những vật liệu tiềm năng cho
việc nghiên cứu ứng dụng trong các thiết bị ắc quy. Trong bài báo này chúng tôi giới thiệu một
cấu trúc điện cực anode mới của thiết bị ắc quy được xây dựng trên cơ sở sự kết hợp giữa vật
liệu Al và dây nano kim loại NiSix.
Từ khóa: ắc quy, lithium, NiSixNWs, nhôm, biến đổi khí hậu
1. Giới thiệu
Biến đổi khí hậu đang diễn ra ngày
càng căng thẳng, đe dọa nghiêm trọng đến
môi trường sống nhân loại. Một trong
những lý do cơ bản của biến đổi khí hậu
đến từ việc tăng nồng độ CO2 thải ra từ các
phương tiện, thiết bị sử dụng năng lượng
trên cơ sở nhiên liệu hóa thạch. Để cắt giảm
vấn đề này, nhân loại đang dần chuyển từ
việc sử dụng động cơ đốt trong vận hành
trên cơ sở nhiên liệu hóa thạch sang sử
dụng các động cơ vận hành trên cơ sở năng
lượng điện được tích trữ trong các thiết bị
ắc quy. Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc
sống xã hội, hoạt động giao tiếp đòi hỏi các
thiết bị nghe gọi thông minh (smart phone)
hay máy tính cá nhân (laptop) phải có khả
năng tích trữ năng lượng điện nhiều hơn, sử
dụng lâu hơn. Với tất cả những lý do cơ
bản này, các yêu cầu mới đặt ra đối với
công nghệ ắc quy là phải thực hiện được
___________________________
* Email: toanvatlieu@gmail.com
các bước cải tiến lớn để đáp ứng được tình
hình mới. Đó là tạo ra các thiết bị ắc quy
mới có khả năng tích trữ được lượng lớn
điện năng, bền, và tiện dùng hơn như có
khả năng sạc nhanh.
Có thể nói các thiết bị, phương tiện
hoạt động trên cơ sở năng lượng điện được
tích trữ trong các thiết bị ắc quy thì bộ phận
ắc quy trở thành một trong những bộ phận
yếu điểm nhất quyết định đến sự cạnh tranh
của sản phẩm. Khả năng hoạt động của
thiết bị ắc quy phụ thuộc vào nhiều bộ phận
khác nhau như vật liệu cathode, vật liệu
anode, electrolyte Đối với vật liệu anode,
theo lịch sử phát triển thì than chì (graphite)
hiện vẫn là một vật liệu cơ bản nhất của
ngành công nghiệp ắc quy, mặc cho khả
năng tích trữ năng lượng điện của nó ở mức
khá thấp (372 mAh/g) (Y. Qi và cộng sự,
2017). Lý do là rằng than chì có độ giãn
khối khá thấp trong quá trình sạc và xả ion
Li. Độ giãn chỉ khoảng 10% theo trục
vuông góc với bề mặt màng than chì và
Tạp chí Khoa học – Trường Đại học Phú Yên, Số 28 (2021), 52-59 53
khoảng 1% theo phương nằm trong bề mặt
than chì (Y. Qi và cộng sự, 2017), vì thế vật
liệu than chì khá bền cho các ứng dụng
thiết bị ắc quy. Hiện tại, các thiết bị ắc quy
trên cơ sở ion Li, sử dụng than chì làm vật
liệu anode có tuổi thọ hoạt động nằm trong
khoảng 1000 đến 2000 lần sạc – xả (cycle)
tùy vào độ sâu sạc, xả cũng như cách sử
dụng. Chính sự hạn chế về khả năng tích
trữ ion Li, nhiều vật liệu anode khác có khả
năng ứng dụng trong các thiết bị ắc quy
trên cơ sở ion Li được triển khai nghiên
cứu. Điển hình trong số các vật liệu anode
mới có thể kể đến gồm silicon (Si) với khả
năng tích trữ năng lượng điện lên đến 3600
mAh/g, thiếc (Sn) có khả năng tích trữ lên
đến 980 mAh/g (W. –J. Zhang, 2011). Tuy
nhiên các vật liệu mới này có điểm hạn chế
nghiêm trọng, đó là độ giãn khối của chúng
trong quá trình sạc, xả ion Li quá lớn. Độ
giãn khối của vật liệu Si trong quá trình sạc,
xả lên đến 300 – 400%, kết quả là thiết bị
ắc quy bị suy biến rất nhanh, khả năng tích
trữ năng lượng điện giảm rất nhanh chỉ sau
một số rất hạn chế chu kỳ sạc, xả. Chính
bởi lý do này, hiện tại than chì vẫn đóng vai
trò là vật liệu anode chính nhất trong ngành
công nghiệp ắc quy.
Bên cạnh Si, Sn, than chì thì Al
cũng được xem là một trong những vật liệu
đầy tiềm năng khác ứng dụng cho vật liệu
anode của ắc quy. Tiềm năng ứng dụng này
không chỉ đến từ việc Al là vật liệu khá rẻ,
thân thiện với con người, môi trường sống.
Các nghiên cứu đã chỉ rõ việc kết hợp của
ion Li trong vật liệu Al tồn tại dưới dạng
nhiều cầu hình hợp kim khác nhau như
AlLi, Al2Li3, Al4Li9. Tùy vào dạng cấu hình
hợp kim giữa Al và Li sẽ đưa đến những
khả năng tích trữ ion Li khác nhau, so với
các vật liệu khác thì mức tích trữ của nó
khá cao. Hợp kim Al4Li9 có tích trữ năng
lượng điện lên đến 2235 mAh/g (B.
Hallstedt, O. Kim, 2007), tuy nhiên sự hành
thành của hợp kim này rất khó xảy ra ở
điều kiện nhiệt độ phòng bình thường. Hợp
kim khả dĩ xuất hiện nhất giữa Al và Li ở
điều kiện nhiệt độ phòng là β-AlLi có mức
tích trữ năng lượng điện lên đến 990 mAh/g
(Y. Hamon và cộng sự, 2001). Tuy thế
giống như các vật liệu anode Si hay Sn, vật
liệu Al có độ giãn nở khối trong quá trình
sạc, xả cũng khá lớn lên đến 95% (M. M.
Thackeray và cộng sự, 2003), dẫn đến sự
suy biến của ắc quy cũng khá nhanh. Điểm
hạn chế này xảy ra với mọi dạng khác nhau
của Al như màng, hạt nano hay dây nano.
Để tìm hiểu lý do dẫn đến sự suy biến khá
nhanh của vật liệu Al ở điện cực anode thiết
bị ắc quy, năm 2011 Y. Liu cùng cộng sự đã
thực hiện sự khảo sát chi tiết sự thay đổi
cấu trúc vật liệu dây nano Al trong quá
trình sạc, xả ion Li khi làm việc dưới dạng
vật liệu anode trong thiết bị ắc quy dưới
kính hiển vi điện tử truyền qua
(Transmission electron microscopy – TEM)
(Y. Liu và cộng sự, 2003). Kết quả chỉ ra
rằng, vật liệu Al bị bột hóa trong quá trình
nạp ion Li dẫn đến sự hình thành các hạt
nano Al và tạo sự mất kết nối điện giữa vật
liệu Al với điện cực. Kết quả cuối cùng dẫn
đến sự mất khả năng tích trữ ion Li ở lần
nạp các chu kỳ tiếp theo. Các nỗ lực tiếp
theo của các nhà nghiên cứu là phải khắc
phục được các nhược điểm này của vật liệu
Al trong quá trình sạc, xả dưới dạng các
cấu trúc hoặc hợp chất khác nhau. Trong
nghiên cứu này, chúng tôi giới thiệu một
cấu trúc điện cực anode mới kết hợp giữa
vật liệu Al và dây nano kim loại NiSix dưới
dạng cấu trúc lõi – vỏ như được chỉ ra trong
hình 1.
54 Journal of Science – Phu Yen University, No.28 (2021), 52-59
Hình 1. Mô hình cấu trúc lõi – vỏ kết hợp giữa vật liệu Al và dây nano NiSix dùng làm vật liệu
anode cho thiết bị ắc quy Li.
Cơ sở ý tưởng cấu trúc được đề
xuất là khi vật liệu Al được phủ trên dây
nano kim loại NiSix sự bột hóa trong quá
trình nạp ion Li tạo ra các hạt nano Al
chúng được bảo vệ bên ngoài bởi màng
kính Li-Al-O được tạo ra trong quá trình
nạp ion Li vào màng alumina – Al2O3 (~ 5
nm) ở chu kỳ đầu tiên. Bên trong các hạt
nano Al vẫn tiếp xúc với lõi kim loại NiSix
(có điện trở suất khoảng 80 μΩ.cm (L. D.
Toan và cộng sự, 2016)) vì vậy chúng vẫn
kết nối điện với điện cực anode. Điều này
sẽ cải thiện đáng kể tuổi thọ của thiết bị ắc
quy hoạt động trên cơ sở vật liệu Al ở điện
cực anode.
2. Thực nghiệm
Thiết bị chính được sử dụng để chế
tạo cấu trúc đề xuất trong trường hợp này là
hệ thống lắng đọng pha hơi hóa học với sự
trợ giúp của plasma - PECVD (Plasma
enhanced chemical vapor deposition).
Chúng tôi chế tạo thiết bị ắc quy khảo sát
trong khuôn khổ phòng thí nghiệm được
thực hiện trên nắp thép không gỉ (coin cell)
có đường kính 2 cm (Hình 2(a)). Nắp thép
không gỉ sau khi rửa sạch trong dung dịch
solvent (5 phút rung siêu âm lần lượt qua
các dung dịch axeton, isopropanol và etanol)
được phủ một lớp kim loại Niken (Ni) 200
nm (Hình 2(b)) làm vật liệu xúc tác cho
việc mọc dây nano kim loại NiSix. Nắp
thép không gỉ sau khi phủ 200 nm Ni được
đưa vào trong buồng của hệ thống PECVD
cho việc mọc dây nano kim loại NiSix
(Hình 2(c)). Việc mọc dây nano được thực
hiện trong thời lượng 15 phút ở nhiệt độ
500oC. Tỉ lệ khí H2 và SiH4 được sử dụng
trong quá trình mọc dây là 47/3 sccm, áp
suất buồng được giữ ở giá trị 100 Torr
trong quá trình mọc dây. Sau khi kết thúc
thời lượng mọc dây, đợi nhiệt độ buồng
PECVD xuống đến nhiệt độ phòng mới
thực hiện lấy mẫu ra khỏi buồng. Việc này
sẽ tạo điều kiện hạn chế tối đa sự hình
thành màng oxide bao quanh dây nano
NiSix gây nên sự cách điện giữa màng Al
và bề mặt dây nano NiSix dẫn đến giảm
hiệu quả hoạt động của thiết bị. Sau khi nắp
thép không gỉ với dây nano NiSix mọc trên
đó được lấy ra khỏi buồng PECVD nhanh
chóng được chuyển đến thiết bị bốc bay
nhiệt (thermal evaporator) để phủ màng Al
có độ dày khoảng 80 nm bao quanh dây
nano NiSix (Hình 2(d)). Màng Al này sẽ
đóng vai trò là vật liệu hoạt động ở điện
cực anode cho thiết bị ắc quy, để nạp ion Li
cho quá trình trữ điện. Hình thái cấu trúc
dây nano NiSix, cũng như sau khi phủ màng
Al được kiểm tra dưới kính hiển vi điện tử
quét SEM (Scanning Electron Microscope).
Để tăng cường sự kết nối giữa màng Al và
bề mặt dây nano kim loại NiSix, cũng như
sự gắn kết giữa các hạt Al trong màng,
màng Al sau khi phủ trên dây nano kim loại
NiSix được nung ủ nhiệt trong môi trường
khí H2 ở nhiệt độ 300
oC trong 30 phút trước
khi chế tạo thiết bị ắc quy.
Tạp chí Khoa học – Trường Đại học Phú Yên, Số 28 (2021), 52-59 55
Hình 2. Quy trình chế tạo thiết bị ắc quy Lithium trên cơ sở dây nano kim loại NiSix phủ vật
liệu Al.
Khối lượng màng Al phủ trên dây
nano kim loại NiSix trên nắp thép không gỉ
đường kính 2 cm cần được xác định chính
xác cho việc tính mật độ tích trữ năng
lượng điện của vật liệu trong quá trình nạp
và xả ion Li. Tuy nhiên khối lượng màng
Al trên dây nano NiSix trên nắp thép không
gỉ là rất bé, cân điện tử không thể xác định
được nếu cân trực tiếp. Để khắc phục điều
này chúng tôi thực hiện mọc và phủ màng
Al trên dây nano kim loại NiSix trên một bề
mặt đế rộng có diện tích 5 x 5 cm2. Diện
tích rộng lớn này sẽ tích đủ khối lượng Al ở
mức cân điện tử có thể hoạt động được. Sau
khi xác định được khối lượng màng Al trên
diện tích 5 x 5 cm2, khối lượng màng Al
trên diện tích của nắp thép không gỉ dùng
trong thí nghiệm này sẽ được xác định dựa
trên sự tương ứng về diện tích. Trong
trường hợp thí nghiệm này khối lượng
màng Al được xác định khoảng 2.54x10-4 g.
Nắp thép không gỉ sau khi phủ vật
liệu Al trên dây nano NiSix được đưa vào
bên trong buồng Argon (Glove box) cho
quá trình chế tạo thiết bị ắc quy. Sỡ dĩ phải
thực hiện việc chế tạo thiết bị ắc quy bên
trong buồng Argon là vì điện cực cathode
sử dụng cho thiết bị ắc quy trong trường
hợp này là màng kim loại Li, đây là vật liệu
rất dễ bị oxi hóa trong môi trường khí
quyển. Cấu trúc thiết bị ắc quy chế tạo
trong nghiên cứu này được thể hiện trên
hình 3. Màng phân tách (separator) được
đặt ở giữa hai điện cực cathode và anode
nằm trong electrolyte (1M LiClO4 in PC
(propylene carbonate)) nhằm ngăn cản sự
duy chuyển của điện tử giữa hai cực
cathode và anode (tránh xảy ra hiện tượng
ngắn mạch dẫn đến cháy nổ thiết bị ắc quy).
Vai trò của electrolyte là tạo môi trường
cho sự duy chuyển của ion Li từ điện cực
cathode đến điện cực anode và ngược lại
trong quá trình nạp – xả ion Li.
Hình 3. Cấu trúc thiết bị ắc quy hoàn chỉnh
Thiết bị ắc quy sau khi chế tạo hoàn
chỉnh được khảo sát quá trình sạc - xả
thông qua hệ thống EC-Lab V10.10.
3. Kết quả và thảo luận
Hình 4 thể hiện rõ hình thái cấu trúc
dây nano kim loại NiSix trước (hình 4(a))
và sau khi phủ màng Al (hình 4(b)). Dây
nano kim loại NiSix mọc trong khoảng thời
gian 15 phút có đường kính trong khoảng
từ 10 – 15 nm và có chiều dài khoảng 10
µm. Sau khi phủ màng Al đường kính tổng
cộng của dây khoảng 150 nm, từ đó ta tìm
được độ dày màng Al phủ xung quanh dây
nano kim loại NiSix khoảng 70 nm. Độ dày
56 Journal of Science – Phu Yen University, No.28 (2021), 52-59
màng Al có ảnh hưởng lớn đến độ bền hoạt
động của thiết bị ắc quy theo quan hệ độ
dày càng lớn sự giãn nở khối của màng
càng lớn trong quá trình sạc – xả, dẫn đến
sự vỡ vụn (do quá trình bột hóa) sẽ nhanh
hơn. Chính vì lý do này trong nghiên cứu
này chúng tôi chọn độ dày màng Al ở mức
rất mỏng (dưới 100 nm) để khảo sát cho thí
nghiệm đầu tiên và sẽ tối ưu hóa trong quá
trình nghiên cứu để tìm ra độ dày màng Al
tối ưu nhất.
Hình 5 tổng hợp các kết quả sạc –
xả thiết bị ắc quy ở dòng hoạt động 30 µA
(Quá trình sạc ion Li vào Al được thực hiện
ở dòng 30 µA, quá trình xả ion Li về lại
cathode cũng được thực hiện ở dòng này),
tốc độ sạc – xả tương ứng là 60 mA/g. Giới
hạn điện thế của thiết bị hoạt động trong
khoảng 0 – 3 V trong quá trình sạc – xả
(thiết bị dừng nạp ion Li vào Al ở điện thế
0 V và dừng xả ion Li về lại cathode ở điện
thế 3 V). Hình 5(a) thể hiện mối quan hệ
giữa hiệu điện thế giữa 2 cực cathode và
anode của thiết bị ắc quy theo thời gian
hoạt động. Ta có thể nhận thấy theo thời
gian giai đoạn nạp ion và xả ion Li ở các
chu kỳ kế tiếp nhau đều giảm dần. Kết quả
này chứng tỏ rằng độ bền vững của vật liệu
anode trong trường hợp này thấp, hệ quả
kéo theo là khả năng tích trữ năng lượng
điện giảm rất nhanh ở các chu kỳ kế tiếp
nhau như thấy ở hình 5(b). Từ mật độ năng
lượng tích trữ ban đầu khoảng 1100 mAh/g
ở chu kỳ thứ 2, mật độ tích trữ năng lượng
đã giảm xuống tại thời điểm bão hòa chỉ
còn khoảng 300 mAh/g. Nghĩa là mật độ
năng lượng tích trữ lúc ổn định chỉ còn
khoảng 27% so với ban đầu. Mặc dầu hiệu
suất Coulombic (Coulombic efficiency)
hoạt động của ắc quy trong trường hợp này
khá cao (khoảng 97%) được thể hiện trên
đường màu xanh trong biểu đồ hình 5(b).
Giá trị hiệu suất Coulombic là tỉ số giữa
năng lượng tích trữ xả được trong quá trình
xả ion Li và năng lượng tích trữ được trong
quá trình nạp ion Li. Giá trị hiệu suất
Coulombic càng cao chứng tỏ độ ổn định
thiết bị ắc quy càng cao. Chú ý rằng trong
trường hợp này, mật độ năng lượng tích trữ
của thiết bị ắc quy ta tính từ chu kỳ thứ 2
bởi ở chu kỳ sạc – xả đầu một lượng lớn
ion Li sẽ được tiêu thụ cho quá trình tạo
màng SEI (solid electrolyte interface) và
màng kính Li-Al-O ngăn cách giữa màng
Al và electrolyte. Vai trò của màng SEI và
Li-Al-O là ngăn cản điện tử trong vật liệu
anode tiếp xúc với electrolyte và gây ra sự
phân tách của electrolyte.
Hình 4. Dây nano kim loại NiSix trước (a) và sau khi phủ vật liệu Al (b)
Hình 5(c) thể hiện rõ quá trình sạc -
xả ion Li trong chu kỳ đầu. Quá trình nạp
ion Li bắt đầu từ việc tiêu thụ ion Li cho
quá trình hình thành màng kính Li-Al-O ở
Tạp chí Khoa học – Trường Đại học Phú Yên, Số 28 (2021), 52-59 57
hiệu điện thế khoảng 0.7 V, song song với
quá trình này là sự hình thành màng SEI.
Lượng ion Li tiêu thụ cho quá trình hình
thành màng kính Li-Al-O và màng SEI
chiếm khoảng 700 mAh/g trước khi quá
trình nạp ion Li cho vật liệu Al diễn ra. Quá
trình nạp ion Li cho màng Al diễn ra từ sau
giá trị mật độ năng lượng 700 mAh/g và
dừng lại ở giá trị khoảng 1700 mAh/g. Từ
sau giá trị 1700 mAh/g ta nhận thấy ion Li
vẫn tiếp tục được tiêu thụ, tình huống này
có thể có nhiều dự đoán khác nhau. Theo
tính toán lý thuyết tại nhiệt độ phòng sự kết
hợp giữa ion Li và Al chỉ có thể hình thành
hợp kim AlLi, hợp kim này sẽ tính trữ năng
lượng khoảng 1000 mAh/g. Trong trường
hợp này cần phải kiểm tra x-ray để biết
chính xác pha được hình thành, bởi lẽ như
đã đề cập trong phần giới thiệu hợp kim
Al4Li9 có thể tích trữ năng lượng lên đến
2235 mAh/g. Tuy nhiên trường hợp này rất
khó xảy ra trong điều kiện bình thường.
Việc tiếp tục tiêu thụ ion Li cũng có thể xảy
ra theo hướng khác, đó là mặc dù màng
kính Li-Al-O và SEI đã hình thành trước đó
nhưng có thể bị vỡ, electrolyte bị phân tách
dẫn đến ion Li sẽ bị tiêu thụ thêm để hình
thành mới màng SEI.
Hình 5. (a) Quan hệ giữa hiệu điện thế và thời gian trong quá trình sạc xả ở những chu kỳ kế
tiếp nhau; (b) Quan hệ giữa capacity (năng lượng tích trữ) và số chu kỳ; (c) Quan hệ giữa hiệu
điện thế và capacity trong chu kỳ đầu.
Quá trình xả ion Li được bắt đầu từ
việc rút ion Li ra khỏi dung dịch rắn của
hợp kim LiAl, quá trình này diễn ra trong
khoảng hiệu điện thế từ 0 đến 0.45 V. Tiếp
sau đó là quá trình rút ion Li ra khỏi hợp
kim LiAl (đường cong điện thế gần phẳng).
Sau đó khi điện thế tiếp tục tăng, ion Li sẽ
tiếp tục được rút ra khỏi dung dịch rắn Al
(nơi mà không có đủ Li để hình thành nên
hợp kim AlLi).
58 Journal of Science – Phu Yen University, No.28 (2021), 52-59
Hình 6. (a) Mặt cắt ngang cấu trúc điện cực anode sau khi phủ màng Al; (b) Bề mặt thép không
gỉ sau quá trình xả ion ở chu kỳ thứ 105.
Vấn đề ở đây là tại sao sự suy biến
của điện cực anode diễn ra khá nhanh, để lý
giải điều này chúng tôi đã mở thiết bị ắc
quy sau quá trình xả ion Li ở chu kỳ thứ
105. Hình 6(b) chỉ rõ tình trạng bề mặt nắp
thép không gỉ sau quá trình xả ion Li ở chu
kỳ thứ 105. Chúng tôi nhận thấy hầu hết
dây nano kim loại NiSix đã bị tách ra khỏi
đế và dẫn đến sự mất kết nối giữa vật liệu
Al và điện cực anode, dẫn đến sự mất khả
năng tích trữ năng lượng điện của ắc quy.
Lý do của vấn đề này là mật độ dây nano
kim loại NiSix mọc khá dày, dẫn đến phần
gốc của chúng không được phủ kín bởi vật
liệu Al (Hình 6(a) vùng khoanh tròn đỏ).
Kết quả dẫn đến cấu trúc lõi – vỏ Al-NiSix
dễ dàng bị tách khỏi đế trong điều kiện sạc,
xả liên tục. Để khắc phục điều này chúng
tôi sẽ tiếp tục tối ưu hóa quy trình mọc dây
nano kim loại NiSix để tạo ra mật độ dây
mỏng hơn, dây có đường kính lớn hơn,
chiều dài dây ngắn hơn để giảm tối đa sự
bóc tách khỏi bề mặt điện cực thép không
gỉ anode trong quá trình sạc – xả.
4. Kết luận
Trong bản văn này, chúng tôi trình
bày việc xây dựng thành công một cấu trúc
điện cực anode mới của thiết bị ắc quy trên
cơ sở sự kết hợp giữa vật liệu Al và dây
nano kim loại NiSix trong cấu trúc lõi – vỏ.
Hiện tại cấu trúc còn nhiều hạn chế như tốc
độ suy biến của điện cực anode diễn ra khá
nhanh, mật độ tích trữ năng lượng điện ở
thời điểm bão hòa còn thấp ~ 300 mAh/g
(so với lý thuyết khoảng 1000 mAh/g). Các
nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế đã được
xác định rõ như trong phần thảo luận, trong
thời gian đến chúng tôi sẽ tiếp tục cải tiến
thêm cấu trúc theo các hướng đã đề cập để
tăng tối đa mật độ tích trữ năng lượng của
cấu trúc
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Y. Qi, H. Guo, L. G. Hector Jr., A Timmons (2010). “Threefold increase in the Young’s
modulus of graphite negative electrode during lithium intercalation”, J. Electrochem.
Soc., p. A558, vol. 157.
W. –J. Zhang (2011). “A review of the electrochemical performance of alloy anodes for
Tạp chí Khoa học – Trường Đại học Phú Yên, Số 28 (2021), 52-59 59
lithium-ion batteries”, J. Power Sources, p. 13, vol. 196.
B. Hallstedt, O. Kim (2007). “Thermodynamic assessment of the Al-Li system”, Int. J. Mat.
Res., p. 961, vol. 98.
Y. Hamon, T. Brousse, F. Jousse, P. Topart, P. Buvat, D. M. Schleich (2001). “Aluminum
negative electrode in lithium ion batteries”, J. Power Sources, p.185, vols. 97-98.
M. M. Thackeray, J. T. Vaughey, C. S. Johnson, A. J. Kropf, R. Benedek, L. M. L. Fransson,
K. Edstrom (2003). “Structural considerations of intermetallic electrodes for lithium
batteries”, J. Power Sources, p. 124, vol. 113.
Y. Liu, N. S. Hudak, D. L. Huber, S. J. Limmer, J. P. Sullivan, J. Y. Huang (2011). “In situ
transmission electron microscopy observation of pulverization of aluminum
nanowires and evolution of the thin surface Al2