Mục tiêu: Xác định tỷ lệ, lý do của người bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) týp 2 có biến chứng có nhu cầu được chăm sóc điều dưỡng (CSĐD) tại nhà, và mối liên quan giữa đặc điểm nhân khẩu học với nhu cầu CSĐD tại nhà. Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả, được tiến hành trên 106 bệnh nhân đái tháo đường týp 2 có biến chứng đang điều trị ở bệnh viện Nguyễn Tri Phương trong khoảng thời gian từ tháng 1/2013 đến 3/2013. Kết quả: Có 45,3% người bệnh ĐTĐ týp 2 biến chứng đang điều trị tại bệnh viện có nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc điều dưỡng tại nhà. Lý do người bệnh cần CSĐD tại nhà là: 79% do thủ tục bệnh viện phức tạp và thời gian chờ khám lâu; người bệnh muốn được chăm sóc an toàn, thoải mái, riêng tư, được điều dưỡng chăm sóc theo yêu cầu là 90%; không có thời gian đến bệnh viện và ít tốn kém hơn so với điều trị nội trú là 30%, không đi đến bệnh viện được 58%; không muốn nằm viện 76%; muốn hướng dẫn cho gia đình kiến thức để chăm sóc họ tốt hơn 95%; gia đình neo đơn không có người chăm sóc 50%. Liên quan giữa trình độ học vấn, điều trị nội và ngoại trú, đã từng được chăm sóc tại nhà với nhu cầu CSĐD tại nhà có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Kết luận: Bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có biến chứng đang điều trị tại bệnh viện có nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc điều dưỡng tại nhà. Để phát triển các nhu cầu và nâng cao hiệu quả khám chữa bệnh của bệnh nhân ĐTĐ týp 2, ngành y tế trong đó có các bệnh viện nên triển khai phục vụ nhằm đáp ứng nhu cầu chính đáng và cấp thiết của người bệnh
7 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 331 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhu cầu chăm sóc điều dưỡng tại nhà của bệnh nhân đái tháo đường týp 2 có biến chứng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 182
NHU CẦU CHĂM SÓC ĐIỀU DƯỠNG TẠI NHÀ CỦA BỆNH NHÂN
ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2 CÓ BIẾN CHỨNG
Cao Thị Ngọc Bích*, Janet Houser**, Trần Thiện Trung***
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ, lý do của người bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) týp 2 có biến chứng có nhu cầu được
chăm sóc điều dưỡng (CSĐD) tại nhà, và mối liên quan giữa đặc điểm nhân khẩu học với nhu cầu CSĐD tại
nhà.
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả, được tiến hành trên 106 bệnh nhân đái tháo
đường týp 2 có biến chứng đang điều trị ở bệnh viện Nguyễn Tri Phương trong khoảng thời gian từ tháng
1/2013 đến 3/2013.
Kết quả: Có 45,3% người bệnh ĐTĐ týp 2 biến chứng đang điều trị tại bệnh viện có nhu cầu sử dụng dịch
vụ chăm sóc điều dưỡng tại nhà. Lý do người bệnh cần CSĐD tại nhà là: 79% do thủ tục bệnh viện phức tạp và
thời gian chờ khám lâu; người bệnh muốn được chăm sóc an toàn, thoải mái, riêng tư, được điều dưỡng chăm sóc
theo yêu cầu là 90%; không có thời gian đến bệnh viện và ít tốn kém hơn so với điều trị nội trú là 30%, không đi
đến bệnh viện được 58%; không muốn nằm viện 76%; muốn hướng dẫn cho gia đình kiến thức để chăm sóc họ
tốt hơn 95%; gia đình neo đơn không có người chăm sóc 50%. Liên quan giữa trình độ học vấn, điều trị nội và
ngoại trú, đã từng được chăm sóc tại nhà với nhu cầu CSĐD tại nhà có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Kết luận: Bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có biến chứng đang điều trị tại bệnh viện có nhu cầu sử dụng dịch vụ
chăm sóc điều dưỡng tại nhà. Để phát triển các nhu cầu và nâng cao hiệu quả khám chữa bệnh của bệnh nhân
ĐTĐ týp 2, ngành y tế trong đó có các bệnh viện nên triển khai phục vụ nhằm đáp ứng nhu cầu chính đáng và
cấp thiết của người bệnh
Từ khóa: ĐTĐ týp 2 có biến chứng; chăm sóc điều dưỡng tại nhà.
ABSTRACT
RESEARCH ON NEED FOR NURSING CARE AT HOME OF TYPE 2 DIABETIC PATIENTS WITH
COMPLICATION
Cao Thi Ngoc Bich, Janet Houser, Tran Thien Trung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 182 ‐ 188
Objective: To determine the ratio and the causes of type 2 diabetic patients with complications interest in
receiving nursing care at home. To determine the relationship among characteristics of demographic with using
nursing care at home.
Patients and method: Cross‐sectional descriptive design, 106 type 2 diabetic patients with complications
who have been hospitalized to receive treatment at Nguyen Tri Phuong hospital during from January, 2013 to
March, 2013.
Results: 45.3% type 2 diabetic patients with complications who have been hospitalized want to nursing
home care services. The reason for patients need nursing care at home: paper procedures at hospital are
* Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch, thành phố Hồ Chí Minh
** Friendship Bridge Group ‐ Đại học Regis, Denver, Colorado – USA.
*** Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: CN Cao Thị Ngọc Bích, ĐT: 0984037426
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 183
complicated and takes too long to wait 79%, healthcare at home makes them feel more comfortable, safer, more
thoroughly, take care upon demand by the nurse that satisfied 90% , do not have time to go to hospitals and more
cost‐saving compared to prolonged admission 30% , cannot go to hospitals by themself 58% , do not want to
admit to the hospital 76% , assist their family with appropriate knowledge to take care of them 95%, their family
does not have time to take care of 50% . The relationship between education level, outpatient or inpatient and has
been taken care by home care with needs of nursing care at home are statistically significant with p <0.05.
Conclusion: Type 2 diabetic patients with complications have the needs for nursing care at home. To
develop need for nursing home care and improve the efficiency of health care patients with type 2 diabetes, the
health sector including the hospitals should be deploy serving in order to meet the legitimate needs and urgency of
the patient.
Keywords: type 2 diabetes with complications, nursing care at home
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo thống kê của Tổ chức y tế thế giới
(WHO), bệnh đái tháo đường týp 2 chiếm vào
khoảng 85‐95% tổng số người mắc bệnh đái tháo
đường(7). Đái tháo đường được xem là dịch bệnh
của toàn cầu. Theo CDC, ở Mỹ năm 2011 bệnh
ĐTĐ có 25,8 triệu người mắc chiếm 8,3% dân
số(2). Năm 2025 sẽ có 300‐330 triệu người mắc
bệnh ĐTĐ, chiếm tỷ lệ 5,4% dân số toàn cầu.
Ở Việt Nam, theo Tạ Văn Bình(16) năm 2006,
tỷ lệ mắc bệnh ở các thành phố lớn gồm Hà
Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí
Minh là 4% . Ngày càng có nhiều lý do người
ta lo ngại với bệnh đái tháo đường và các biến
chứng của bệnh, hàng năm có 17 triệu người
tử vong do các biến chứng tim mạch, mạch
máu ngoại vi và đột quỵ, tỷ lệ bệnh ĐTĐ ở
nước ta sẽ tăng nhanh, tăng cao gây ra gánh
nặng cho nền kinh tế‐ xã hội.
Các bệnh viện Trung ương tại Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh hiện đang trong tình
trạng quá tải trầm trọng(9), làm gia tăng nguy cơ
nhiễm trùng bệnh viện, tăng chi phí điều trị và
giảm chất lượng chăm sóc người bệnh. Hiện nay
nhu cầu về chăm sóc y tế có chất lượng cao đang
ngày càng gia tăng ở mọi quốc gia, sự gia tăng
dân số người cao tuổi với các bệnh mạn tính làm
tăng nhu cầu chăm sóc y tế đặc biệt là các quốc
gia đang phát triển như ở Việt Nam.
Ở Mỹ chăm sóc tại nhà có thể thay thế cho
chăm sóc người bệnh tại bệnh viện và có thể
giúp cho bệnh nhân được xuất viện sớm giảm
chi phí điều trị, số bệnh nhân được chăm sóc
tại nhà ở Mỹ năm 1998 là 6,4% tăng lên 9,9 %
năm 2008(2).
Tại Việt Nam năm 2010, theo nghiên cứu của
Bùi Thùy Dương(1) bệnh nhân và thân nhân
người bệnh có nhu cầu cao trong sử dụng dịch
vụ chăm sóc sức khỏe ngoài giờ và tại nhà từ
53,3% đến 90,3%. CSĐD tại nhà giúp giải quyết
một phần tình trạng quá tải bệnh viện, giảm mật
độ người bệnh tập trung trong môi trường điều
trị nội trú, đã và đang được nhiều nước trên thế
giới hiện nay áp dụng. Như vậy vai trò của
CSĐD tại nhà cần khuyến cáo phát triển tại Việt
Nam vì nó thật sự cần thiết trong việc chăm sóc
sức khỏe người bệnh toàn diện và còn mang ý
nghĩa chăm sóc tại cộng đồng. Môi trường chăm
sóc tại nhà sẽ thoải mái hơn, giảm những căng
thẳng về thể chất và tinh thần cho người bệnh,
hơn nữa giảm nguy cơ nhiễm trùng trong bệnh
viện, do đó tiết kiệm chi phí chăm sóc, nâng cao
chất lượng cuộc sống cho người bệnh(14).
Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này
để tìm hiểu người bệnh đái tháo đường týp 2 có
biến chứng cần có nhu cầu được chăm sóc điều
dưỡng tại nhà như thế nào, từ đó đề xuất giải
pháp phát triển hệ thống chăm sóc điều dưỡng
tại nhà nhằm nâng cao chất lượng phục vụ và
chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
ĐỐI TƯỢNG‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cắt ngang mô tả, được tiến hành
trên 106 bệnh nhân đái tháo đường týp 2 có biến
chứng đang điều trị ở bệnh viện Nguyễn Tri
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 184
Phương thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng
thời gian từ tháng 1/2013 đến 3/2013.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Chọn mẫu thuận tiện, tất cả các bệnh nhân
trên 18 tuổi được chẩn đoán là ĐTĐ týp 2 có
biến chứng theo tiêu chuẩn chẩn đoán và phân
loại của WHO trong khoảng thời gian nghiên
cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân không đồng ý tham gia phỏng
vấn hoặc đã phỏng vấn trước đó.
Bệnh nhân ĐTĐ týp 2 quá nặng (như hôn
mê, bệnh nhân đang trong tình trạng cấp cứu).
Bệnh nhân câm điếc, bệnh nhân không minh
mẫn về tinh thần.
Bệnh nhân trả lời không hoàn chỉnh bộ câu
hỏi.
Thu thập bằng cách phỏng vấn trực tiếp dựa
vào bộ câu hỏi có cấu trúc được thiết kế sẵn.
Xử lý và phân tích thống kê
Bằng phần mềm STATA 12.0. Kiểm định
mối tương quan giữa các biến định tính bằng
phép kiểm Chi bình phương (có hiệu chỉnh
Exact’s Fisher). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
khi p <0,05; với khoảng tin cậy 95%.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm chung
Trên 106 bệnh nhân đái tháo đường týp 2 có
biến chứng với các đặc điểm dịch tễ học được
trình bày ở bảng 1
Bảng 1: Đặc điểm bệnh nhân của người bệnh ĐTĐ
týp 2 có biến chứng
Đặc tính bệnh nhân Tần số (n) Tỷ lệ (%)
Giới tính Nam 39 36,8
Nữ 67 63,2
Tuổi ≤49 tuổi 10 9,4
50-59 tuổi 24 22,6
60-69 tuổi 39 36,8
≥70 tuổi 33 31,2
Trình độ học Mù chữ 14 13,2
Đặc tính bệnh nhân Tần số (n) Tỷ lệ (%)
vấn Tiểu học 44 41,5
Phổ thông cơ sở 19 17,9
Phổ thông trung
học
15 14,2
≥Trung cấp 14 13,2
Nơi cư trú Nội thành 93 87,7
Ngoại thành 13 12,3
Kinh tế gia
đình
Nghèo 2 1,9
Trung bình 14 13,2
Khá 67 63,2
Giàu 23 21,7
Bệnh kèm
theo và biến
chứng
Bệnh kèm theo 103 97,2
Biến chứng bàn
chân
67 63
Nhận xét
‐ Người bệnh ĐTĐ týp 2 có biến chứng, nữ
63,2% cao hơn nam là 36,8%. Tỷ lệ nữ/nam
bằng 2/1.
‐ Nhóm tuổi trung bình là 65±11, nhóm tuổi
chiếm tỷ lệ cao nhất từ 60‐69 tuổi là 37%
‐ Người bệnh chủ yếu sống ở nội thành
chiếm 87,7% và ngoại thành là 12,3%.
‐ Trình độ học vấn thấp, chủ yếu là tiểu học
chiếm tỷ lệ cao nhất là 41,5%.
‐ Kinh tế của gia đình của người bệnh thuộc
thu nhập khá là phổ biến 63%.
Có 106 người bệnh được hỏi thì 103 người
có bệnh kèm theo chiếm tỷ lệ 97,2% (103/106),
và 67 người có biến chứng bàn chân tiển
đường chiếm 63%.
Nhu cầu CSĐD tại nhà của người bệnh
ĐTĐ týp 2 có biến chứng
Bảng 2: Nhu cầu CSĐD tại nhà của người bệnh
ĐTĐ týp 2 có biến chứng
Nhu cầu chăm sóc Điều
dưỡng tại nhà
Tần số (n=106) Tỷ lệ (%)
Có 48 45,3
Không 58 54,7
Nhận xét: người bệnh có nhu cầu chăm sóc
điều dưỡng tại nhà là 45,3 % (48/106)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 185
Lý do người bệnh ĐTĐ lựa chọn CSĐD tại nhà
Bảng 3: Ý kiến của người bệnh ĐTĐ về lý do lựa chọn CSĐD tại nhà
Lý do chăm sóc Điều dưỡng tại nhà Ý kiến của người bệnh n (%)
Đồng ý Không ý kiến Không đồng ý
Bệnh viện
Thủ tục hành chính phức tạp 38 (79,2) 4 (8,3) 6 (12,5)
Thái độ phục vụ của NVYT không hài lòng 13 (27) 6 (12,5) 29 (60,5)
Thời gian chờ khám lâu 38 (79,2) 2 (4,2) 8 (12,6)
Người bệnh
Không có thời gian đến bệnh viện 15 (31,3) 20 (41,7) 13 (27)
Không tự đi đến bệnh viện được 28 (58,3) 0 20 (41,7)
Không muốn nhập viện 37 (76,1) 3 (6,3) 8 (16,6)
Muốn điều dưỡng hài lòng chăm sóc theo yêu cầu 45 (93,8) 1 (2) 2 (4,2)
Chăm sóc tại nhà giúp phục hồi nhanh 47 (97,9) 1 (2,1) 0
An toàn hơn tránh nhiễm trùng bệnh viện 48 (100) 0 0
Người bệnh cảm thấy thỏa mái hơn 48 (100) 0 0
Người bệnh được quan tâm hơn 46 (95,8) 1 (2,1) 1 (2,1)
Người bệnh được chăm sóc riêng tư 47 (97,9) 0 1 (2,1)
Ít tốn kém hơn so với điều trị nội trú 17 (35,4) 7 (14,6) 24 (50)
Người nhà
GĐ có kiến thức đúng để chăm sóc người bệnh 46 (95,8) 2 (4,2) 0
GĐ mong muốn được chăm sóc tốt, an toàn 45 (93,8) 2 (4,1) 1 (2,1)
GĐ người bệnh đủ khả năng chi trả chi phí 28 (58,3) 15 (31,3) 5 (10,4)
Gia đình người bệnh neo đơn 24 (50) 6 (12,5) 18 (37,5)
Nhận xét: Có 79% do thủ tục bệnh viện phức
tạp và thời gian chờ khám lâu; Thái độ phục vụ
của nhân viên y tế (NVYT) không hài lòng là
27%, người bệnh muốn đươc chăm sóc an toàn,
thoải mái, riêng tư, được điều dưỡng hài lòng
chăm sóc theo yêu cầu là 90%; không có thời
gian đến bệnh viện và ít tốn kém hơn so với điều
trị nội trú là 30%, không đi đến bệnh viện được
58%; không muốn nằm viện 76%; muốn hướng
dẫn cho gia đình kiến thức để chăm sóc họ tốt
hơn 95%; kinh tế gia đình đủ khả năng chi trả
chi phí 58%; gia đình neo đơn không có người
chăm sóc 50%.
Mối liên quan đặc tính nhân khẩu học và nhu cầu CSĐD tại nhà
Bảng 4: Mối liên quan giữa đặc tính khẩu học và nhu cầu CSĐD tại nhà
Đặc tính dân số học Có nhu cầu CSĐD tại nhà n (%) Giá trị p Tỷ số chênh (KTC 95%)
Có Không
Điều trị
Nội trú 43 (56,6) 33 (43,4) <0,001 0,23 (0,06-0,75)
Ngoại trú 5 (16,7) 25 (83,3)
Học vấn
Mù chữ 10 (71,4) 4 (28,6) 0,03 1
Tiểu học 22 (50) 22 (50) 0,69 (0,5-0,96)
Phổ thông cơ sở 6 (31,6) 3 (68,4) 0,48 (0,25-0,94)
Phổ thông trung học 5 (33,3) 10 (66,7) 0,34 (0,12-0,91)
≥Trung cấp 5 (35,7) 9 (64,3) 0,24 (0,06-0,88)
Đã từng được CSĐD tại nhà
Có 26 (66,7) 13 (33,3) <0,001 4,09 (1,63-10,36)
Không 22 (32,8) 45 (67,2)
Nhận xét:
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 186
‐ Liên quan giữa người bệnh điều trị nội trú
và ngoại trú với nhu cầu chăm sóc điều dưỡng
tại nhà có ý nghĩa thống kê với p <0,001.
‐ Liên quan giữa học vấn với nhu cầu chăm
sóc điều dưỡng tại nhà có ý nghĩa thống kê với
p=0,03.
‐ Liên quan giữa người bệnh ĐTĐ đã từng
chăm sóc điều dưỡng tại nhà trước đây với nhu
cầu chăm sóc điều dưỡng tại nhà hiện tại có ý
nghĩa thống kê với p<0,001
BÀN LUẬN
Nhu cầu chăm sóc điều dưỡng tại nhà của
người bệnh ĐTĐ
Nhóm đối tượng ĐTĐ týp 2 có biến chứng
đang điều trị tại bệnh viện phần lớn là 60‐69 tuổi
chiếm 36,79%, nữ nhiều hơn nam tỷ lệ 2/1và
trình độ học vấn thấp, tiểu học chiếm tỷ lệ cao
nhất 41,5%
Nhu cầu CSĐD tại nhà của người bệnh ĐTĐ
týp 2 có biến chứng là 45,3%, vì vậy việc triển
khai dịch vụ y tế tại nhà là cần thiết đối với các
bệnh mạn tính. Đây thực sự là vấn đề mà ngành
y tế cần quan tâm, vừa đáp ứng được nhu cầu
chăm sóc nâng cao sức khỏe cho người dân, vừa
tận dụng được sức lao động trong ngành đồng
thời cải thiện đời sống của cán bộ y tế, đặc biệt là
điều dưỡng. Theo Fraser(5), trong tương lai khi
dân số có tuổi thọ ngày một tăng cao, thì nhu
cầu sử dụng chăm sóc tại nhà sẽ tăng theo để
cung cấp dịch vụ chăm sóc người bệnh hiệu quả.
Khi người bệnh khó khăn về tài chính, giường
bệnh tại bệnh viện bị giảm thì việc chăm sóc sẽ
được chuyển từ môi trường bệnh viện ra ngoài
nhà của người bệnh(3), điều đó đặt ra cho ngành
y tế ngoài việc cần phải nâng cao chất lượng
phục vụ thì cần phải đa dạng hoá các loại hình
về chăm sóc điều dưỡng cho người bệnh.
Trong các nhu cầu về chăm sóc điều dưỡng
tại nhà thì nhu cầu về kiểm tra huyết áp là nhiều
nhất do phần lớn người bệnh có tăng huyết áp.
Người bệnh có ý thức cao về tình trạng bệnh và
việc kiểm tra huyết áp thường xuyên giúp phát
hiện sớm các biến chứng tim mạch để có hướng
tự chăm sóc bản thân. Theo nghiên cứu về nhu
cầu chăm sóc điều dưỡng bệnh đái tháo đường
ở nhà và theo hướng dẫn của Bang Argyll và
Clude ở Anh thì kiểm tra huyết áp ít nhất trung
bình một lần một tháng là cần thiết và phổ biến
chiếm 73% (6). Kết quả các loại hình chăm sóc mà
người bệnh cần tại nhà trong của nghiên cứu
chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn
Thị Ly(13) là trên 50% người dân có nhu cầu thay
băng, truyền dịch, đo huyết áp, tiêm thuốc,
khám và tư vấn sức khỏe tại nhà.
Theo hiệp hội Y khoa của Mỹ (JAMA)(14)
chăm sóc tại nhà giúp phát hiện các vấn đề về
y tế, và qua chăm sóc, điều dưỡng hiểu người
bệnh hơn về sự tuân thủ dùng thuốc khi ở nhà,
cung cấp các thông tin quan trọng giúp tổng
hợp các vấn đề về sức khỏe của người bệnh và
các điều kiện khác của như tình trạng tự vệ
sinh cá nhân, dinh dưỡng, sự hỗ trợ người
thân và khả năng lạm dụng thuốc của người
lớn tuổi. Vì vậy vai trò của người điều dưỡng
ngày càng có có tầm quan trọng trong các dịch
vụ chăm sóc tại nhà, và cũng chính là người có
trách nhiệm trong quá trình chăm sóc và giáo
dục cho người bệnh(6).
Ý kiến về lý do lựa chọn CSĐD tại nhà của
bệnh nhân
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 79,2%
người bệnh cho rằng lý do họ lựa chọn CSSK tại
nhà là do bệnh viện có thủ tục hành chính phức
tạp và chờ khám quá lâu. Đi khám bệnh phải đi
từ sáng sớm lúc 4‐ 5h đến để chờ đợi bốc số chờ
đến lượt khám, và phải nhịn ăn để chờ khám
nên cảm thấy rất mệt mỏi với việc chờ đợi quá
lâu đến lượt mình và phải qua nhiều khâu nhiều
cửa để hoàn thành thủ tục thanh toán. Trong
nghiên cứu của Nguyễn Văn Cư(12), cho thấy tình
trạng quá tải bệnh nhân tại phòng khám ngoại
trú vượt chỉ tiêu từ 14,4% đến 145%, và sử dụng
giường bệnh vượt công suất từ 107% đến 130%
do đó gây nên tình trạng chờ khám của bệnh
nhân quá lâu vì quá tải. Vì vậy, theo Bùi Thùy
Dương(1), bệnh viện có thể giải quyết tình trạng
này bằng cách tăng thời gian khám bệnh ngoài
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 187
giờ, kể cả khám vào thứ bảy và chủ nhật. Việc
triển khai khám bệnh tại nhà, nhất là khám và
điều trị các bệnh thông thường cũng như chăm
sóc điều dưỡng đối với các bệnh mạn tính là giải
pháp có thể giúp giảm bớt tình trạng quá tải cho
các bệnh viện tuyến trên như hiện nay.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ người
bệnh không tự đi đến bệnh viện được là 58%, số
người bệnh còn lại lựa chọn chăm sóc tại nhà vì
tiện lợi và phù hợp với tình trạng bệnh của họ.
Theo tạp chí Y khoa của Mỹ (JAMA), chăm sóc
tại nhà thích hợp cho bệnh nhân có khó khăn
đến phòng khám của bác sĩ và bệnh viện, đặc
biệt những người có biến chứng về mắt, về vận
động, và có khó khăn về khả năng di chuyển
bằng xe cộ(8). Bên cạnh đó, tỷ lệ người bệnh
không muốn nhập viện là 76% nên lựa chọn
chăm sóc điều dưỡng tại nhà sẽ giúp phục hồi
bệnh nhanh hơn, người bệnh cảm thấy an toàn,
thỏa mái hơn, và muốn được chăm sóc riêng
trên 95%. Theo tạp chí Y khoa của Mỹ(8) chăm
sóc tại nhà, bệnh nhân và gia đình họ thường dễ
chịu, thoải mái hơn, nhân viên y tế lịch sự, dễ
chịu hơn khi ở bệnh viện nên họ cảm thấy thỏa
mái hơn. Liên quan đến chi phí chăm sóc tại
nhà, 35,4% người bệnh cho rằng ít tốn kém hơn
so với nằm viện phù hợp với nghiên cứu của
Elliott(4) và Raphael(15).
Hầu hết người bệnh lớn tuổi, sống phụ
thuộc vào người thân nên gia đình rất quan
trọng đến quyết định việc họ có nhu cầu hay
không. Kết quả cho thấy tỷ lệ người bệnh
muốn người nhà họ có kiến thức đúng để
chăm sóc họ và gia đình mong muốn cho
người bệnh được chăm sóc tốt, an toàn, thỏa
mái hơn là 94%. Theo nghiên cứu của
Magdalena(11) ở Thụy Điển, gia đình người
bệnh hỗ trợ rất nhiều trong chăm sóc như tiêm
Insulin, kiểm tra đường huyết, thay băng vết
thương cho người bệnh. Điều dưỡng có trách
nhiệm giáo dục bệnh nhân, thân nhân người
bệnh và phối hợp trong chăm sóc bệnh nhân(6).
Một trong những lý do quan trọng mà người
bệnh cần chăm sóc điều dưỡng tại nhà là 50%
người bệnh cho rằng do gia đình neo đơn, nếu họ
phải nằm viện thì không có ai chăm sóc con cái,
nhà cửa, phải nằm bệnh viện một mình, người
thân không có và khi nằm viện không ai chăm
sóc. Khi được chăm sóc tại nhà họ sẽ giải tỏa được
nỗi lo này mà vẫn điều trị được bệnh tốt.
Liên quan giữa đặc điểm nhân khẩu, xã hội
học, đặc điểm lâm sàng và nhu cầu CSĐD
tại nhà
Trong nghiên cứu của chúng tôi, người bệnh
nội trú có nhu cầu chăm sóc tại nhà bằng 0,23
lần cao hơn so với người bệnh ngoại trú (KTC
95%: 0,06‐0,75). Liên quan giữa người bệnh điều
trị nội trú và ngoại trú với nhu cầu CSĐD có ý
nghĩa thống kê với p<0,001. Điều đó cho thấy có
thể do người bệnh nội t