Bài viết trình bày những nhân tố lý luận ảnh hưởng đến quá trình hình thành và
chuyển biến trong tư tưởng chính trị của Huỳnh Thúc Kháng. Đó là tư tưởng đổi mới
của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch… thế kỷ XX, những quan điểm mới mẻ của
các nhà cải cách Trung Quốc như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu truyền bá vào Việt
Nam đầu thế kỷ XX qua các tân thư. Sau cùng là sự ảnh hưởng mạnh mẽ của lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin tư tưởng dân tộc tiến bộ của Hồ Chí Minh qua thực tiễn thắng
lợi Cách mạng Tháng Tám – 1945.
7 trang |
Chia sẻ: candy98 | Lượt xem: 628 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những tiền đề hình thành tư tưởng chính trị của Huỳnh Thúc Kháng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
6CHUYÊN MỤC
TRIẾT HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC - LUẬT HỌC
NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ
CỦA HUỲNH THÚC KHÁNG
NGUYỄN HỮU SƠN
Bài viết trình bày những nhân tố lý luận ảnh hưởng đến quá trình hình thành và
chuyển biến trong tư tưởng chính trị của Huỳnh Thúc Kháng. Đó là tư tưởng đổi mới
của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch thế kỷ XX, những quan điểm mới mẻ của
các nhà cải cách Trung Quốc như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu truyền bá vào Việt
Nam đầu thế kỷ XX qua các tân thư. Sau cùng là sự ảnh hưởng mạnh mẽ của lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin tư tưởng dân tộc tiến bộ của Hồ Chí Minh qua thực tiễn thắng
lợi Cách mạng Tháng Tám – 1945.
Huỳnh Thúc Kháng (2000, tr. 96) từng
viết trong Bức thư gởi Kỳ ngoại hầu
Cường Để (1943): “Cái gì dĩ vãng như
cái chết ngày hôm qua, nhắc lại giống
không có chút bổ ích gì. Song muốn biết
việc sau, cần phải xem việc trước”. Vì
vậy, nghiên cứu quá trình hình thành và
phát triển tư tưởng chính trị của Huỳnh
Thúc Kháng không chỉ đặt trong hoàn
cảnh lịch sử xã hội Việt Nam ở cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX mà còn cần xem
xét những tư tưởng của các thế hệ trước
đó cùng với những giá trị tư tưởng của
thế giới và khu vực trong quá trình giao
lưu giữa các dân tộc lúc đương thời.
1. TƯ TƯỞNG CANH TÂN ĐẤT NƯỚC
VỚI SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG
CHÍNH TRỊ CỦA HUỲNH THÚC KHÁNG
Lịch sử dân tộc đã chứng minh chủ
nghĩa yêu nước truyền thống từ thế kỷ
XVIII trở về trước đã hoàn thành xuất
sắc sứ mệnh của mình trong sự nghiệp
bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Tuy nhiên, cho đến nửa cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX ý thức hệ phong kiến của
tư tưởng Nho giáo ngày càng trở nên
bảo thủ, phản động. Thời kỳ này, nguy
cơ bị xâm lược bởi các nước tư bản
phương Tây đã lộ rõ, nhưng những quan
điểm, tư tưởng của Nho giáo đang thống
Nguyễn Hữu Sơn. Thạc sĩ. Trung tâm Triết
học và Chính trị học, Viện Khoa học xã hội
vùng Nam Bộ.
NGUYỄN HỮU SƠN – NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH 7
trị toàn bộ xã hội đã ảnh hưởng đến chủ
nghĩa yêu nước của dân tộc, không đủ
sức soi sáng cho các vấn đề cơ bản liên
quan đến sự nghiệp bảo vệ và giành lại
độc lập của dân tộc Việt Nam.
Trong điều kiện như vậy, xuất hiện một
trào lưu tư tưởng canh tân của một bộ
phận trí thức yêu nước tiến bộ, với chủ
trương là vận dụng những tri thức mới,
những tiến bộ của văn minh phương Tây
nhằm đổi mới mạnh mẽ và toàn diện đất
nước, phát triển kinh tế - xã hội theo kịp
sự phát triển chung của thời đại. Những
người tiêu biểu cho trào lưu này là Đặng
Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú
Thứ, Nguyễn Lộ Trạch, v.v... Tuy nhiên,
tư tưởng canh tân của những trí thức
yêu nước tiến bộ ấy vấp phải sự phản
kháng của đại bộ phận quan lại triều đình
phong kiến nhà Nguyễn có tư tưởng thủ
cựu không muốn đổi mới, từ chối tiếp
nhận những thành quả, tư tưởng tiến bộ,
của văn minh phương Tây và nhân loại.
Tư tưởng canh tân từ các viên quan
trong chính quyền nhà Nguyễn cho thấy
triều đình phong kiến có thông tin về tình
hình khu vực và thế giới, về sự bành
trướng, xâm lược của các nước tư bản
phương Tây đối với phương Đông, nhưng
đã không thể đáp ứng được thời thế.
Chủ trương cải cách, tư tưởng đổi mới
của các nhà Nho, sĩ phu yêu nước có nội
dung, tính chất và mức độ khác nhau. Nó
phụ thuộc vào vị trí xã hội cũng như mối
quan hệ và tư duy trực quan của từng
người. Do vậy mà với những văn quan
triều đình có tư tưởng canh tân như
Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ thì lời
trình bày tư tưởng canh tân có phần nhẹ
nhàng, mức độ chừng mực và cũng chỉ
dừng lại ở một số đề nghị cụ thể như:
đóng tàu, mở hải cảng, giao thương,
Ngược lại, với những nhà Nho không
phải từ tầng lớp quan lại triều đình như
Nguyễn Trường Tộ (qua những văn bản
đề nghị cải cách như Tế cấp luận, Giáo
môn luận và Thiên hạ phân hợp đại thế
luận) hay Nguyễn Lộ Trạch (như: Thời vụ
sách, Thiên hạ đại thế luận, v.v...) thì tư
tưởng canh tân được đề cập trên nhiều
lĩnh vực, nội dung phong phú, đa dạng
mang tính cấp bách, toàn diện và cơ bản.
Đặc biệt đã đề xuất phải thay đổi sự
quản lý và điều hành xã hội theo truyền
thống bằng sự quản lý và điều hành xã
hội theo kiểu tư bản phương Tây.
Nguyễn Lộ Trạch (1853 - 1896) là nhà tư
tưởng canh tân có nhiều ảnh hưởng sâu
sắc đến Huỳnh Thúc Kháng. Những tác
phẩm của Nguyễn Lộ Trạch có ảnh
hưởng đến khuynh hướng dân chủ tư
sản ở Việt Nam phải kể đến các cuốn
sách như Thời vụ sách thượng, Thời vụ
sách hạ, Thiên hạ đại thế luận. Huỳnh
Thúc Kháng từng đánh giá: “một bài luận
rất có giá trị trong học giới nước ta”, bởi
vì ông nhận thấy rằng: “đương giữa
khoảng màn kín đen mù, tường cao
ngăn đón như thế, mà có nhà học giả
như Nguyễn Lộ Trạch, tự mình tìm lấy
sách vở, lại do chỗ học vấn lịch duyệt,
suy nghiệm cùng con mắt xem đời của
mình, không nương dựa vào học thuyết
nào, làm ra một bài đại luận nói đại thế
trong thế giới, mà ở trong đó những điều
đúng đắn” (Chương Thâu, Phạm Ngô
Minh, 2012, tr. 1161).
Bản thân Nguyễn Lộ Trạch cũng kế thừa,
phát triển những tư tưởng canh tân của
Nguyễn Trường Tộ. Về tư tưởng chính
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (199) 20158
trị, Nguyễn Lộ Trạch cho rằng: “sự còn
mất của quốc gia là do chính trị - giáo
dục, chứ không phải do mạnh yếu, lớn
nhỏ. Chính trị - giáo dục được sửa sang
cất cử thì dầu nhỏ yếu cũng chưa thể
mất được” (Mai Cao Chương, Đoàn Lê
Giang, 1995, tr. 138). Nhận thức về thời
cuộc, ông cho rằng phải biết “thức thời”,
ông chỉ ra rằng: “Xem cái lý, xét cái thế,
kịp thời sửa sang chính trị - giáo dục để
không phụ lòng mong mỏi của dân. Đó là
điều hy vọng ở những bậc quân tử
tương lai trong nước” (Mai Cao Chương,
Đoàn Lê Giang, 1995, tr. 145). Nhưng tất
cả những tư tưởng canh tân cứu nước
của ông đều không được triều đình thực
thi, thậm chí còn bị cho rằng lời lẽ “cao
quá”. Sau này, đánh giá về những tư
tưởng của ông trong Quỳ ưu lục, Huỳnh
Thúc Kháng đã viết: “ bài Thời vụ sách
của ông, ai cũng phải nhận là bài thuốc
cứu thời rất trúng bệnh. Không những
phương mão cao áo dài ngồi không ăn
thịt lúc bấy giờ, không ai có được lòng
nhiệt thành ái quốc, kiến thức cao xa ấy,
mà dầu cho bọn học giả hấp thụ văn hóa
Âu Tây trên 50 năm nay, bảo cầm bút
viết chuyện nước nhà, cũng dễ có mấy
người chỉ vạch tình thế, nói rõ bệnh căn
và thuốc chữa được một cách rõ ràng
như thế” (Chương Thâu, Phạm Ngô
Minh, 2012, tr. 1165).
Những tư tưởng canh tân đã đặt ra rất
nhiều điều mới mẻ mà các bậc tiền nhân
và đương thời như Huỳnh Thúc Kháng
chưa từng nghĩ tới, để rồi “vỡ òa” ra một
sự mừng rỡ, phấn chấn trong thay đổi tư
duy về thời cuộc khi tiếp cận với nó:
“Nếu mà không có cái cuộc chính biến
nước Tàu (1898), cùng cuộc Nga Nhật
chiến tranh (1904), sách mới của
Khương, Lương truyền sang, thì giấc
mộng bát cổ của sĩ phu nước ta, e đến
ngày nay cũng chưa nguôi, mà nào ai
biết ông Nguyễn Lộ Trạch là người tiêu
kiến” (Chương Thâu, Phạm Ngô Minh,
2012, tr. 310). Huỳnh Thúc Kháng đã
nhận thấy được sự nhạy bén với thời
cuộc trong tư tưởng canh tân của
Nguyễn Lộ Trạch: “cái lòng lo đời và cái
khí ngạo đời”, nhưng ông cũng rất buồn
và thở than cho số phận sự nghiệp tư
tưởng của Nguyễn Lộ Trạch: “Con nhà
quan ở đất Huế, học thức như ông mà
thủy chung ôm lòng nhiệt thành đến chết,
cái tội chung của xã hội hủ bại ta không
sao tránh được” (Chương Thâu, Phạm
Ngô Minh, 2012, tr. 1505).
Bằng sự nhạy bén với thời cuộc bởi “khí
chất Quảng Nam” trong con người mình,
Huỳnh Thúc Kháng đã tiếp nhận tư
tưởng canh tân một cách tự nhiên theo
dòng chảy của lịch sử để rồi từng bước
chuyển đổi nhận thức của mình từ tư duy
bảo thủ của ý thức hệ phong kiến Nho
giáo sang tư duy đổi mới năng động
trước những thay đổi của thời đại: “Canh
tân là một cái sự thực trong lịch sử loài
người về đường tấn bộ, không ngả nào
tránh khỏi, song lúc phát sanh ra, thường
thường bởi thời thế yêu cầu một cách
cần thiết, chính là cái cớ còn mất sống
chết của một quốc gia một dân tộc, mà
không phải là điều ngẫu nhiên có cũng
được mà không cũng được,” (Chương
Thâu, Phạm Ngô Minh, 2012, tr. 314).
Mục đích của các nhà tư tưởng canh tân
thời này là đổi mới để làm cho nước giàu,
binh mạnh nhằm bảo vệ đất nước trước
họa ngoại xâm. Vì sự ràng buộc tư
NGUYỄN HỮU SƠN – NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH 9
tưởng “trung quân ái quốc” của Nho giáo,
nên họ chỉ nói tới những điều kiện có thể
làm cho chủ nghĩa yêu nước thoát khỏi
được sự ràng buộc của hệ tư tưởng bảo
thủ, vươn tới sự tự lực, tự cường của
dân tộc, tiến kịp cùng thời đại, giống như
cuộc cải cách Minh Trị ở Nhật Bản, cải
cách Chulalongkorn ở Thái Lan. Vì lẽ đó
mà những tư tưởng canh tân đã không
được thực thi, như Huỳnh Thúc Kháng
đã nhận xét: “Khổ vì sanh trong cái xã
hội khoa cử thạnh hành chế độ thúc
phược, thành ra có kẻ xướng mà không
có người họa, chỉ mang tấm lòng nhiệt
thành cùng những điều tiên kiến theo
xuống chín suối mà không được bổ ích
cho đời” (Chương Thâu, Phạm Ngô Minh,
2012, tr. 1166).
Tư tưởng canh tân của các chí sĩ yêu
nước thời nhà Nguyễn đã vượt ra khỏi ý
thức hệ tư tưởng của Nho giáo đang
trong quá trình suy tàn. Mặc dù chưa đạt
đến tư tưởng dân chủ tư sản của
phương Tây, nhưng tư tưởng canh tân
như một sự quá độ, chuyển tiếp giữa cái
cũ đang từng bước suy vong và cái mới
đang từng bước hình thành. Đó là sự
khởi đầu cho những tư tưởng chính trị
của các trí thức yêu nước cuối thế kỷ
XIX - sang đầu thế kỷ XX. Huỳnh Thúc
Kháng đã khẳng định tầm vóc của tư
tưởng tiến bộ được khơi mào từ thời nhà
Nguyễn và được tiếp nối sau này là:
“thường thường trong cuộc thay đổi cũ
mới tất nhiên có xung đột, mà trong cuộc
xung đột, tất nhiên chia ra hai đường tức
là Bảo thủ và Cải cách vậy. Cứ xét lịch
sử Đông Tây về thời đại gần đây, thì
trong cuộc xung đột ấy, dầu là ôn hòa,
dầu là cấp kích, rút cục đường cải cách
cũng thu trận chiến thắng cuối cùng”
(Chương Thâu, Phạm Ngô Minh, 2012, tr.
317).
2. TÂN THƯ VỚI SỰ HÌNH THÀNH TƯ
TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA HUỲNH THÚC
KHÁNG
Nửa cuối thế kỷ XIX ở Nhật Bản và
Trung Quốc xuất hiện những phong trào
của giới trí thức yêu nước khởi xướng
nhằm tiếp thu những tư tưởng tiến bộ và
thành tựu văn minh phương Tây. Sách
viết về những tư tưởng mới này xuất
hiện ở Trung Quốc, được gọi là Tân thư.
Những tác giả nổi tiếng của Tân thư là
các nhà tư tưởng cải cách và cách mạng:
Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Đàm
Tự Đồng, Nghiêm Phục, Tôn Trung Sơn,
v.v... Sự du nhập các luồng tư tưởng
mới qua các Tân thư vào Việt Nam
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan
của một cá nhân hay một nhóm người
mà bởi những điều kiện lịch sử thời đại,
xuất phát từ nhu cầu giao lưu truyền bá
tư tưởng, văn hóa giữa các dân tộc.
Huỳnh Thúc Kháng đã viết: “Thời bấy giờ
tại Trung Quốc sau cuộc Mậu Tuất chính
biến và Canh Tý liên binh, sĩ phu hơi tỉnh
ngộ, có phong triều hoan nghênh Âu học
chuyển động toàn quốc, sách báo của
Khương Hữu Vi, Lương Khải Siêu (phái
lãnh tụ Duy Tân), dần dần du nhập vào
nước ta, tin Nga Nhật chiến tranh đến
tận bên ta, không như thời bế tắc trước”
(Huỳnh Thúc Kháng, 2000, tr. 33).
Cùng với những sĩ phu yêu nước khác
Huỳnh Thúc Kháng đã rất nhạy bén nhận
thức được những chuyển biến của thời
đại thông qua các tân thư và tân sách
phương Tây ngay từ những năm đầu thế
kỷ XX. Sau khi đỗ Tiến sĩ năm 1904, ông
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (199) 201510
không ra làm quan bởi: “Lâu nay chí kỳ
vọng của gia nghiêm cốt ở thi đỗ đại
khoa, nay thế là đạt mục đích, còn việc
làm quan chẳng phải là điều mong muốn.
Vì thế, sau khi đỗ Tiến sĩ, liền cáo bệnh
ở nhà làm điếu ông” (Huỳnh Thúc Kháng,
2000, tr. 35). Từ lúc này ý thức hệ tư
tưởng Nho giáo của Huỳnh Thúc Kháng
đã bắt đầu có những biến chuyển theo
tình hình thế giới, mở đầu cho một thời
kỳ mới của ông: “ như trong buồng tối
bỗng chợt thấy tia ánh sáng lọt vào,
những học thuyết mới ‘cạnh tranh sinh
tồn’, ‘nhân quyền tự do’, gần chiếm cả
cái chủ tịch môn học khoa cử ngày trước,
mà một tiếng sét nổ đùng, có sức kích
thích mạnh nhất, thấu vào tâm nào
người Việt Nam ta là ‘trận chiến tranh
1904’ (Nhật Bản thắng Nga)” (Huỳnh
Thúc Kháng, 2000, tr. 107).
Tuy những tri thức tân học còn hết sức
sơ sài và thiếu tính hệ thống nhưng nó
đã giải tỏa được lối suy nghĩ cũ kỹ trong
tư duy và hành động của Huỳnh Thúc
Kháng và các nhà cải cách Việt Nam
khác, khi nối kết những Tân thư này với
những đề xuất cải cách trước đây ở Việt
Nam: “Sách báo Trung Hoa như Tân
Dân tùng báo, Mậu Tuất chính biến,
Trung Quốc hồn, Nhật Bản duy tân
khẳng khái sử, Nhật Bản tam thập niên
duy tân sử, Thái Tây tân sử. Trong
nước thì tác phẩm của các nhà tiên thời
như bản sớ Điều trần của Nguyễn
Trường Tộ, Quỳ ưu lục, Thiên hạ đại thế
luận của Nguyễn Lộ Trạch, cùng các
thứ mới xuất hiện trong thời ấy như bài
Sớ xin bỏ khoa cử của Thân Trọng Huề,
Lưu cầu huyết lệ tân thơ của Phan Bội
Châu, Công xa thượng thơ ký, Ai nô từ,
Bát cổ khất ai văn, Danh sơn lương ngọc
phú” (Huỳnh Thúc Kháng, 2000, tr.
109).
Cũng bởi vì: “Những tác phẩm trên đều
viết tay, không chân mà chạy khắp trong
nước, sĩ phu đua nhau sao đọc” nên thời
gian đầu Huỳnh Thúc Kháng chưa thể
tiếp nhận các tư tưởng mới một cách
hoàn chỉnh và đạt tới trình độ cao. Phải
đợi cho đến cuộc Cách mạng Tân Hợi
(Trung Quốc) do Tôn Trung Sơn lãnh
đạo năm 1911, của thế chiến thứ nhất
(1914 - 1918) và sự lớn mạnh dần của
giai cấp tư sản và một bộ phận trí thức
Tây học, thì nhận thức về tư tưởng dân
chủ tư sản mới thật sự thấm nhuần trong
ông và những nhà cải cách khác: “Cái
tiếng hò reo “tân thơ cựu thơ” muôn
miệng một lời, cả nước sôi nổi như điên
cuồng, mà sức kích thích mạnh nhất”
(Huỳnh Thúc Kháng, 2000, tr. 109).
Trước ảnh hưởng của cái mới, đã diễn
ra cuộc đấu tranh quyết liệt giữa một bộ
phận nhà Nho phong kiến bảo thủ với bộ
phận nhà Nho tiến bộ, đi theo tư tưởng
dân chủ mà Huỳnh Thúc Kháng là đại
diện: “Nhờ các món văn phẩm trên, xuất
hiện kế tiếp nhau, phong khí trong nước
có gieo đổi cũ thay mới mà nhà lãnh tụ
trong đảng cách mạng quần chúng đều
suy tôn là hai tiên sinh Sào Nam Phan
Bội Châu, Tây Hồ Phan Châu Trinh vậy”
(Huỳnh Thúc Kháng, 2000, tr. 109).
Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng những
tư tưởng của Tân thư đã nâng cao nhận
thức, tầm hiểu biết, tư duy lý luận, đặc
biệt là sự chuyển biến trong nhận thức
chính trị của các nhà tư tưởng Việt Nam
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong đó
có Huỳnh Thúc Kháng. Ông từng nhận
NGUYỄN HỮU SƠN – NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH 11
định: “Dân tộc Việt Nam ta vào thời đại
này, cứ theo hoàn cảnh cùng thời thế thì
cách tân chính là vị thuốc chữa bệnh có
một không hai” (Chương Thâu, Phạm
Ngô Minh, 2012, tr. 315).
3. CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ TƯ
TƯỞNG DÂN TỘC TIẾN BỘ CỦA HỒ
CHÍ MINH VỚI SỰ HÌNH THÀNH TƯ
TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA HUỲNH THÚC
KHÁNG
Sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào
Việt Nam qua nhiều con đường và cách
thức khác nhau vào những năm 20 của
thế kỷ XX đã từng bước định hình một
hệ tư tưởng mới trong xã hội Việt Nam.
Hoạt động đấu tranh cách mạng của các
tổ chức cách mạng vô sản, đã từng
bước làm cho phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc trước theo khuynh hướng
dân chủ tư sản chuyển hướng sang tư
tưởng vô sản. Đặc biệt là dưới sự lãnh
đạo của Hồ Chí Minh – Người đã tiếp thu
và vận dụng một cách sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam,
hình thành tư tưởng tiến bộ về dân tộc
đặt trong bối cảnh trỗi dậy của hệ thống
thuộc địa.
Với Huỳnh Thúc Kháng, trước khi được
tiếp cận với tư tưởng dân tộc tiến bộ của
Hồ Chí Minh và tận mắt chứng kiến
những thành quả của cách mạng giải
phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản do Hồ Chí Minh đứng
đầu, ông đã hoài nghi và thậm chí là ít
nhiều không đồng tình với những hoạt
động của phong trào cách mạng vô sản
trong nước. “ nào nước ‘Ô thác’ của lý
tưởng Mã Khắc Tư, nào chính phủ lao
nông thực hiện của Lê Nin, đất bằng vụt
dậy, thừa chỗ trống hở mà xông vào.
Phần tử Âu hóa nước ta cả trong lẫn
ngoài, bị tấn kịch mới kích thích một
cách khá mạnh; gồm thêm một vài bạn
cựu đảng cùng bạn công nhân lao động
hợp thành một khối, tạo ra cái phong
triều biến tướng to tác”. Ông chưa nhìn
thấy kết quả, chỉ mới thấy những hoạt
động đàn áp tiêu diệt của chính quyền
thực dân đối với phong trào đấu tranh
cách mạng nên không khỏi xót xa mà
thương cảm: “Trên mười lăm năm lại đây,
nào giai cấp đấu tranh, nào lao tư xung
đột, nào đình công, nào biểu tình, hầu
như gió cuốn khắp trong nước...” khiến
cho thực dân Pháp “không biết làm thế
nào, bèn thẳng tay thi ngón độc ác là ‘tỉa
giống’, một mực giống tốt thì cào dẫy đi
mà phù thực giống xấu, không còn kiêng
kỵ gì cả” (Huỳnh Thúc Kháng, 2000, tr.
131).
Huỳnh Thúc Kháng không nhìn thấy
những mâu thuẫn xã hội thúc đẩy các
cuộc cách mạng giải phóng nên đã cho
rằng: “ nước ‘không tưởng’ của lý
thuyết Mã Khắc Tư, chính phủ Lao Nông
của Lê Nin, gải nhằm chỗ ngứa dân
chúng, phong triều mới bèn bồng bột vụt
dậy, nào lao tư xung đột nhau, nào giai
cấp tranh đấu nhau, nào tự do bình đẳng
với chánh thể chuyên chế cừu thị nhau,
nào chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa quốc
gia chống chỏi nhau, nào quan niệm cá
nhân với quan niệm gia đình, chia rẽ
nhau, độc nồng nhiệt tăng lên cao điểm,
cùng tràn nhảy lên một trật, làm cho cả
vùng không khí trên thế giới đều bị xô
đẩy chà xát” (Huỳnh Thúc Kháng,
2000, tr. 115).
Cho đến khi Đảng Cộng sản lãnh đạo
quần chúng nhân dân khởi nghĩa giành
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (199) 201512
chính quyền trong cuộc Cách mạng
tháng Tám - 1945 thành công, Hồ Chí
Minh trở thành Chủ tịch Chính phủ của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
tuyên bố nền độc lập hoàn toàn trước
thế giới thì Huỳnh Thúc Kháng mới thực
sự tin tưởng vào những hoạt động của
phong trào cách mạng vô sản. Đặc biệt
là ông tin tưởng theo con đường mà Hồ
Chí Minh đã lựa chọn, thừa nhận chủ
nghĩa Mác - Lênin là một tất yếu của lịch
sử: “con đường lịch sử theo Mã Khắc Tư
không khi nào đi ngược trở lại” – để rồi
qua đó thái độ của ông đối với Đảng
Cộng sản Đông Dương, Chính phủ cách
mạng, Mặt trận Việt Minh là sự ủng hộ
nhiệt thành: “Thấy rõ cái trò ‘bất chánh
cú’ tôi có bức thư trả lời chung kêu gọi
các tay anh hùng cả hạng anh hùng do
thời thế tạo nên, cùng anh hùng vô danh
ra đương gánh nặng trong thời cục
này” (Chương Thâu, Phạm Ngô Minh,
2012, tr. 481). Bằng uy tín của mình, ông
đã kêu gọi, tập hợp quần chúng nhân
dân xây dựng nhà nước mới.
Như vậy, tư tưởng chính trị của Huỳnh
Thúc Kháng đã được hình thành dựa
trên sự kế thừa những tư tưởng canh tân
của những bậc tiền nhân đi trước. Đồng
thời, kết hợp với quá trình thu nhận
những yếu tố văn hóa, văn minh phương
Tây thông qua các sách báo tân thư,
những tư tưởng dân tộc tiến bộ của Hồ
Chí Minh trên nền tảng Chủ nghĩa Mác -
Lênin. Sự tác động từng bước của các
luồng tư tưởng mới này đã làm cho con
người ưu thời mẫn thế của ông có sự
chuyển biến mạnh mẽ về tư tưởng chính
trị, vượt thoát khỏi tư tưởng Nho giáo cổ
hủ, đến với tư tưởng dân chủ tư sản và
sau cùng là tư tưởng cách mạng vô sản.
Sự chuyển biến trong tư tưởng chính trị
của Huỳnh Thúc Kháng là sự phản ánh
cụ thể những biến chuyển lớn lao của xã
hội Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XX
trên con đường hội nhập vào thế giới.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1. Chương Thâu, Phạm Ngô Minh. 2012. Huỳnh Thúc Kháng – Tuyển tập. Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng.
2. Huỳnh Thúc Kháng. 2000. Huỳnh Thúc Kháng niên phổ và thư gửi Kỳ ngoại hầu Cường Để.
Hà Nội: Nxb. Văn hóa - Thông tin.
3. Mai Cao Chương, Đoàn Lê Giang. 1995. Nguyễn Lộ Trạch - Điều trần và thơ văn. Hà Nội:
Nxb. Khoa học Xã hội.
4. Nguyễn Mạnh Tường. 2009. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại.
Trong Học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về trung với nước hiếu với dân. Hà Nội: Nxb.
Chính trị Quốc gia - Sự thật.