Tổng quan: Điều trị triệt để carcinôm dạ dày (GC) sớm được xem là góp phần làm giảm xuất độ tử
vong do carcinôm dạ dày, vì hầu hết GC dạ dày sớm diễn tiến tới GC tiến triển. Tuy nhiên, GC sớm còn
được xem là một dạng thầm lặng của GC, và không thường diễn tiến thành GC tiến triển. Mục tiêu của
nghiên cứu này là làm sáng tỏ mức độ trùng lặp ở các dòng đột biến gen giữa nhóm carcinôm tuyến ống
(TUB) sớm và tiến triển ở dạ dày.
Phương pháp: Kỹ thuật hóa mô miễn dịch trên p53 (HMMD) được thực hiện trên 28 ca phẫu thuật cắt dạ
dày trong đó 13 ca TUB trong niêm mạc và 15 ca TUB xâm lấn. Bằng phương pháp di truyền phân tử tế bào có so sánh giữa các loại tế bào (CGH), số bản sao ADN được so sánh giữa vùng niêm mạc và vùng xâm lấn của TUB xâm lấn và giữa các vùng niêm mạc của TUB xâm lấn và TUB trong niêm mạc, với tổng số ca lần lượt là 25 và 22. Đột biến gen TP53 phát hiện ở exon 5-8 của 20 ca TUB.
Kết quả: CGH trên NST cho thấy 4q+ và 11q+ rất thường gặp lần lượt ở TUB tiến triển và TUB sớm,
trong khi sự thay đổi số lượng bản sao ở 8q và 17p cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa giữa TUB sớm và TUB tiến triển. Tuy nhiên, array CGH cho thấy, trong 13 ca TUB tại chỗ, mất đoạn gen MYC (MYC-) và thêm đoạn gen TP53 (TP53+) được phát hiện ở 9 TUB, và MYC+ và/hoặc TP53- trong 3 TUB.
Ở vùng niêm mạc của 9 TUB xâm lấn, 7 ca cho thấy MYC-/TP53+ và không có ca nào có MYC+ và/hoặc
TP53-. Ở vùng xâm lấn của 9 TUB, 1 TUB (dưới niêm mạc) cho thấy MYC-/TP53+ và 6 ca (1 từ TUB dưới
niêm và 5 từ TUB tiến triển) cho thấy MYC+ và/hoặc TP53-. 6 TUB đề cập sau cùng thường cho thấy kiểu đột biến (lan tỏa hoặc không biểu hiện) bằng nhuộm hóa mô miễn dịch p53, và 4/6 ca này cho thấy có đột biến khi giải trình tự gen TP53. Kết quả thu được từ array CGH cho thấy giữa vùng niêm mạc và vùng xâm lấn, dòng gen được tìm thấy biểu hiện không liên tục ở 5 ca TUB tiến triển và liên tục ở 3 ca TUB dưới niêm mạc.
Kết luận: Các dòng gen thường khác biệt giữa nhóm TUB sớm và tiến triển. MYC-/TP53+ và MYC+
và/hoặc TP53- có thể lần lượt là dấu hiệu chỉ điểm trong TUB thầm lặng và tiến triển ở dạ dày.
18 trang |
Chia sẻ: thuylinhqn23 | Ngày: 09/06/2022 | Lượt xem: 551 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích dòng đột biến trên carcinôm tuyến ống sớm và tiến triển ở dạ dày: Biểu hiện liên tục hay không liên tục?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông Tin Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 192
PHÂN TÍCH DÒNG ĐỘT BIẾN TRÊN CARCINÔM TUYẾN ỐNG SỚM
VÀ TIẾN TRIỂN Ở DẠ DÀY: BIỂU HIỆN LIÊN TỤC HAY KHÔNG LIÊN TỤC?
Takahisa Nakayama*, Zhi-Qiang Ling*,**, Ken-ichi Mukaisho*, Takanori Hattori*
and Hiroyuki Sugihara*
TÓM TẮT
Tổng quan: Điều trị triệt để carcinôm dạ dày (GC) sớm được xem là góp phần làm giảm xuất độ tử
vong do carcinôm dạ dày, vì hầu hết GC dạ dày sớm diễn tiến tới GC tiến triển. Tuy nhiên, GC sớm còn
được xem là một dạng thầm lặng của GC, và không thường diễn tiến thành GC tiến triển. Mục tiêu của
nghiên cứu này là làm sáng tỏ mức độ trùng lặp ở các dòng đột biến gen giữa nhóm carcinôm tuyến ống
(TUB) sớm và tiến triển ở dạ dày.
Phương pháp: Kỹ thuật hóa mô miễn dịch trên p53 (HMMD) được thực hiện trên 28 ca phẫu thuật cắt dạ
dày trong đó 13 ca TUB trong niêm mạc và 15 ca TUB xâm lấn. Bằng phương pháp di truyền phân tử tế bào có
so sánh giữa các loại tế bào (CGH), số bản sao ADN được so sánh giữa vùng niêm mạc và vùng xâm lấn của
TUB xâm lấn và giữa các vùng niêm mạc của TUB xâm lấn và TUB trong niêm mạc, với tổng số ca lần lượt là
25 và 22. Đột biến gen TP53 phát hiện ở exon 5-8 của 20 ca TUB.
Kết quả: CGH trên NST cho thấy 4q+ và 11q+ rất thường gặp lần lượt ở TUB tiến triển và TUB sớm,
trong khi sự thay đổi số lượng bản sao ở 8q và 17p cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa giữa TUB sớm và TUB
tiến triển. Tuy nhiên, array CGH cho thấy, trong 13 ca TUB tại chỗ, mất đoạn gen MYC (MYC-) và thêm đoạn
gen TP53 (TP53+) được phát hiện ở 9 TUB, và MYC+ và/hoặc TP53- trong 3 TUB.
Ở vùng niêm mạc của 9 TUB xâm lấn, 7 ca cho thấy MYC-/TP53+ và không có ca nào có MYC+ và/hoặc
TP53-. Ở vùng xâm lấn của 9 TUB, 1 TUB (dưới niêm mạc) cho thấy MYC-/TP53+ và 6 ca (1 từ TUB dưới
niêm và 5 từ TUB tiến triển) cho thấy MYC+ và/hoặc TP53-. 6 TUB đề cập sau cùng thường cho thấy kiểu đột
biến (lan tỏa hoặc không biểu hiện) bằng nhuộm hóa mô miễn dịch p53, và 4/6 ca này cho thấy có đột biến khi giải
trình tự gen TP53. Kết quả thu được từ array CGH cho thấy giữa vùng niêm mạc và vùng xâm lấn, dòng gen
được tìm thấy biểu hiện không liên tục ở 5 ca TUB tiến triển và liên tục ở 3 ca TUB dưới niêm mạc.
Kết luận: Các dòng gen thường khác biệt giữa nhóm TUB sớm và tiến triển. MYC-/TP53+ và MYC+
và/hoặc TP53- có thể lần lượt là dấu hiệu chỉ điểm trong TUB thầm lặng và tiến triển ở dạ dày.
ABSTRACT
LINEAGE ANALYSIS OF EARLY AND ADVANCED TUBULAR ADENOCARCINOMAS OF THE
STOMACH: CONTINUOUS OR DISCONTINUOUS?
Takahisa Nakayama, Zhi-Qiang Ling, Ken-ichi Mukaisho, Takanori Hattori and Hiroyuki Sugihara
Background: Eradication of early gastric carcinoma (GC) is thought to contribute to reduction in the
mortality of GC, given that most of the early GCs progress to the advanced GCs. However, early GC is
alternatively considered a dormant variant of GC, and it infrequently progresses to advanced GC. The aim of this
study was to clarify the extent of overlap of genetic lineages between early and advanced tubular adenocarcinomas
(TUBs) of the stomach.
Methods: Immunohistochemical staining for p53 was performed using 28 surgically resected stomachs with
* Khoa Giải Phẫu Bệnh, Trường Đại học Y khoa Shiga, thành phố Otsu, 520-2192, Nhật Bản
Nhận và trả lời phản hồi: sugihara@belle.shiga-med.ac.jp
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Thông Tin Y học
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 193
13 intramucosal and 15 invasive TUBs. By chromosome- and array-based comparative genomic hybridization
(CGH), genomic copy number constitution was compared between the mucosal and invasive parts of the invasive
TUBs and between the mucosal parts of the invasive and intramucosal TUBs, using 25 and 22 TUBs,
respectively. TP53 mutation in exons 5-8 was examined in 20 TUBs.
Results: Chromosomal CGH revealed that 4q+ and 11q+ were more common in advanced and early TUBs,
respectively, whereas copy number changes in 8q and 17p showed no significant differences between early and
advanced TUBs. However, array CGH revealed that, of the 13 intramucosal TUBs examined, loss of MYC
(MYC-) and gain of TP53 (TP53+) was detected in 9 TUBs and MYC+ and/or TP53- was detected in 3 TUBs. Of
the mucosal samples of 9 invasive TUBs, 7 showed MYC-/TP53+ and none showed MYC+ and/or TP53-. Of the
9 samples from the invasive parts, 1 (from submucosal cancers) showed MYC-/TP53+ and 6 (1 from submucosal
and 5 from advanced cancers) showed MYC+ and/or TP53-. The latter 6 tumours commonly showed a mutant
pattern (diffuse or null) in p53 immunohistochemistry, and 4 of the 6 tumours assessable for TP53 sequence
analysis revealed mutations. The overall array CGH pattern indicated that, between the mucosal and invasive
parts, genetic lineage was found discontinuous in 5 advanced cancers and continuous in 3 submucosal cancers.
Conclusions: Genetic lineages often differed between early and advanced TUBs. MYC-/TP53+ and MYC +
and/or TP53-may be the signatures of dormant and aggressive TUBs, respectively, in the stomach.
TỔNG QUAN BACKGROUND
Ung thư dạ dày (GC) vẫn còn là nguyên
nhân thường gặp gây tử vong do ung thư thứ
hai trên toàn thế giới, tuy xuất độ tử vong có
giảm ở các nước phát triển gần đây. GC được
phân làm 2 loại chính dựa trên hình thái học:
týp tạo ống và týp lan tỏa và, dựa theo giai
đoạn, phân thành ung thư sớm (khu trú ở niêm
mạc và dưới niêm mạc) và ung thư tiến triển
(xâm lấn đến lớp cơ niêm hoặc sâu hơn). GC
sớm được xem là ung thư có thể điều trị được;
GC sớm được ghi nhận là sẽ chuyển qua GC
tiến triển sau nhiều giai đoạn và như là giai
đoạn sớm của GC tiến triển. Ở Nhật, GC sớm
có thể được điều trị triệt để bằng phương pháp
nội soi can thiệp cũng như phẫu thuật, dựa
trên nguyên tắc phát hiện sớm và điều trị sớm.
Mặt khác, một vài nhà bệnh học vẫn giữ quan
điểm các khối u dạng ống còn khu trú ở niêm
mạc phát triển chậm hoặc không thể xâm lấn
sâu hơn. Vì vậy mà những tổn thương loại này
được gọi là nghịch sản.
Gastric cancer remains the second most
common cause of cancer-related deaths
worldwide, despite a recent decrease in its
mortality in developed countries [1]. Gastric
carcinomas (GCs) are classified
morphologically into 2 major categories:
tubular-forming type and diffuse type [2,3] and,
in staging, into early cancers (involving the
mucosa and the submucosa) and advanced
cancers (involving the muscularis propria or
deeper). Early GC is considered a curable
cancer [4]; it reportedly progresses to advanced
GC after varying durations as an early stage of
GC [5,6]. In Japan, early GCs can be actively
resected endoscopically as well as surgically
[7], based on the principles of early detection
and treatment. On the other hand, some
pathologists maintain that the tubular-forming
neoplastic lesions that are confined to the
mucosa take a long time to or are unable to
invade deeper tissues. Thereby, these lesions
are called dysplasia [4].
Gần đây, chương trình tâm soát u nguyên
bào thần kinh ở Nhật bị đình chỉ vì người ta
phát hiện thấy có một dòng phát sinh không
Recently, a mass-screening program for
neuroblastomas in Japan [8-10] was suspended
because a discontinuous genetic lineage was
Thông Tin Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 194
liên tục giữa các khối ung thư nguyên bào thần
kinh khởi phát sớm và khởi phát trễ. U nguyên
bào thần kinh khởi phát trễ/ hay chưa thể hiện
(≥ 1 năm) cho thấy thể lưỡng bội gần mất đoạn
tận 1p, trong khi u nguyên bào thần kinh khởi
phát ở trẻ nhỏ cho thấy thể tam bội gần không
mất đoạn 1p. Nói một cách khác, phân tích dựa
trên CGH gợi ý tình trạng tăng sản tuyến
không điển hình mức độ cao ở phổi là tiền đề
thật sự trong quá trình phát triển carcinôm phế
quản – phế nang. Ở dạ dày, vấn đề được đặt ra
là dòng gen biến đổi trùng lắp như thế nào
trong GC sớm và GC tiến triển.
found between the early- and the late-presenting
neuroblastomas. Negative and late-presenting (≥
1 year) neuroblastomas showed near-diploidy
with loss of terminal 1p, whereas positive
neuroblastomas in infants showed near-triploidy
without 1p deletion [11,12]. On the other hand,
comparative genomic hybridization (CGH)-based
analysis suggested that high-grade atypical
adenomatous hyperplasia in the lung is the true
precursor of bronchioloalveolar carcinoma [13]. In
the stomach, it is a problem to what extent genetic
lineage is overlapped in early and advanced GCs.
Trong GC týp lan tỏa, chúng tôi dùng
CGH để chứng minh những thay đổi về số
lượng bản sao NST trong carcinôm tế bào
dạng nhẫn trong niêm mạc, cho thấy cấu
trúc phân lớp được di truyền một phần ở GC
biệt hóa kém trong giai đoạn tiến triển. Sự
hiện diện của tế bào dạng nhẫn theo phân
lớp gợi ý rằng carcinôm tế bào nhẫn có thể là
tiền đề thật sự của GC biệt hóa kém về sau.
Khi phân tích các dòng gen dựa trên CGH
của một nhóm GC tiến triển kém biệt hóa
khác có thành phần dạng ống nhưng không
theo cấu trúc phân lớp ở phần niêm mạc, kết
quả cho thấy GC của nhóm này có nguồn
gốc từ một thành phần biệt hóa ống của khối
u và có biểu hiện 17p- và 8q+ và bất hoạt gen
TP53 wild-type do đột biến, và mất tính dị
hợp tử (LOH). Để xác định trạng thái tương
ứng của loại GC này, chúng tôi phân tích
carcinôm tuyến ống trong niêm mạc (TUB)
bằng CGH. Những phân tích này chứng
minh TUB trong niêm mạc không chỉ cho
thấy vài biến đổi NST thường gặp trong GC
tiến triển, mà còn thường gặp 8q- và 17p+,
đó là điểm khác biệt đáng kể ở GC biệt hóa
kém và tiển triển.
In diffuse type GCs, we used CGH to
demonstrate that chromosomal copy-number
alterations in the intramucosal signet-ring cell
carcinomas that showed a layered structure [14] were
inherited in a fraction of poorly differentiated GCs at
advanced stages [15]. The presence of a layered
structure of signet ring cells in the mucosal parts of
these advanced cancers also suggested that signet
ring cell carcinomas may be a true precursor of poorly
differentiated GCs. CGH-based lineage analysis of
another subset of poorly differentiated advanced GCs
with tubular components but no layered structure in
the mucosal part revealed that GCs of this subset
were derived from a tubular component in a tumour
and were characterized by 17p- and 8q+ [16] and
inactivation of the wild-type TP53 by mutation and
loss of heterozygosity (LOH) [17]. In order to
determine the early-stage counterpart of this type of
GC, we analysed intramucosal tubular
adenocarcinomas (TUBs) using CGH. These studies
found that the intramucosal TUBs showed not only
several chromosomal changes common to advanced
GCs but also frequently showed 8q- and 17p + that
were critically different from advanced and poorly
differentiated GCs [18].
Trong nghiên cứu này, sự thay đổi số lượng
bản sao NST và gen được xác định ở vùng niêm
mạc và vùng xâm lấn trong hàng loạt phân tích
TUBs sớm và tiến triển bằng phương pháp CGH
NST và CGH bằng chip. Dựa trên dữ liệu này,
chúng tôi phân tích những ca có những dòng liên
In the present study, copy-number changes of
chromosomes and genes were examined in the
mucosal and invasive parts of another series of
early and advanced TUBs using array and
chromosomal CGH. Based on these data, we
demonstrated cases of continuous and
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Thông Tin Y học
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 195
tục và không liên tục so sánh giữa phần ung thư
trong niêm mạc và phần ung thư xâm lấn ở
những khối u khác nhau và phát hiện ra gen TP53
và MYC có thể là chỉ điểm tốt trong đột biến theo
dòng ở TUB dạ dày.
discontinuous lineages between intramucosal and
invasive parts of individual tumours and found
that TP53 and MYC may be good lineage markers
for gastric TUBs.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU METHODS
Ủy Ban Xét Duyệt trực thuộc Tổ chức Y
khoa tại Trường Đại học Y khoa Shiga hỗ trợ
cho việc tiến hành nghiên cứu này và đảm bảo
bí mật dữ liệu bệnh nhân.
The Institutional Review Board on Medical Ethics
at Shiga University of Medical Science granted
approval for conducting this research on the condition
that the materials used must be anonymous.
Mẫu nghiên cứu Tumour samples
Nghiên cứu này bao gồm 28 mẫu dạ dày
toàn phần (bảng 1) với 13 ca TUB trong niêm
mạc và 15 ca xâm lấn [6 ca dưới niêm và 9 ca
tiến triển xâm lấn cơ niêm và sâu hơn (thành
phần ống của mỗi khối u được xác định trên
30%)]. Mỗi mẫu dạ dày được cố định bằng
formalin và vùi trong sáp. Tất cả các mẫu được
chọn ngẫu nhiên từ dữ liệu của khoa từ 1996
đến 2008. Loại mô học và giai đoạn ung thư
được xác định lần lượt dựa trên phân loại Ung
Thư Dạ dày Nhật Bản (17) và xếp loại pTNM.
Khi mô học đồng nhất ở niêm trong ung thư
vùng xâm lấn, phần biệt hóa kém nhất ở vùng
niêm được lấy để ngăn ngừa khả năng tái xâm
lấn lớp niêm. Trong ung thư xâm lấn, mẫu
DNA được lấy từ vùng trong niêm và vùng
xâm lấn.
This study included 28 surgically resected
stomachs (Table 1) with 13 intramucosal TUBs and 15
invasive TUBs [6 submucosal and 9 advanced cancers
that invaded the muscularis propria or deeper tissues
(the tubular component of each tumour was assessed
to be more than 30%)]. Each stomach was fixed in
formalin and embedded in paraffin wax. These were
selected at random from the materials diagnosed in our
department from 1996 to 2008. Histological types and
tumour stages were determined according to the
Japanese Classification of Gastric Cancer [19] and
pTNM staging, respectively. When a mucosal
histological pattern was found to be heterogeneous in
an individual invasive tumour, the part with the lowest
grade of atypism was taken as the mucosal sample that
can prevent the possibility of reinvasion of invasive
cancer cells into the mucosa. In invasive cancers, DNA
samples were obtained from intramucosal and invasive
parts.
Nhuộm hóa mô miễn dịch Immunohistochemistry
Nhuộm hóa mô miễn dịch được thực hiện
với các kháng thể đơn dòng của protein p53
(DO-7, 1:100; Dako, Glostrup, Đan Mạch). Sau
khi bộc lộ kháng nguyên trong các lát mô trong
nước cất 121oC trong vòng 5 phút, phức hợp
miễn dịch được phát hiện bằng phương pháp
biotin-streptavidin-peroxidase gián tiếp dùng
Histofine kit (Nichirei, Tokyo, Nhật Bản) và
phản ứng màu diaminobenzidine. Các lát mô
được nhuộm tương phản với hematoxylin. Các
lam chứng âm không có kháng thể thứ nhất và
lam chứng dương được thực hiện đồng thời.
Immunohistochemical staining was
performed with monoclonal antibodies to p53
protein (DO-7, 1:100; Dako, Glostrup, Denmark).
After antigen retrieval of tissue sections in
distilled water at 121°C for 5 min,
immunoreactivity was detected by an indirect
biotinstreptavidin- peroxidase method using the
Histofine Kit (Nichirei, Tokyo, Japan) and
diaminobenzidine reaction. The sections were
counterstained with haematoxylin. Slides of the
negative control without the primary antibody
and those of the positive control were processed
in parallel.
Thông Tin Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 196
Vi phẫu tích bằng lazer và chuẩn bị DNA Laser microdissection and DNA preparation
Các tế bào u được ly trích từ lát cắt 5µm
dùng hệ thống lazer LMD6000 (Leica
Microsystems, Wetzlar, Đức). Với mỗi khối u,
tế bào ung thư được lấy từ vùng có diện tích
>3mm2, ở nơi tế bào ung thư có mật độ >90%.
Các tế bào này được phá hủy bằng proteinase
K 200µl/ml trong 70 giờ ở 37oC, tiếp theo là ly
trích DNA bằng phương pháp sử dụng
phenol/chloroform.
Tumour cells were obtained from 5-μm-thick
tissue sections using a LMD6000 laser microdissection
system (Leica Microsystems, Wetzlar, Germany). For
individual tumours, cancer cells were obtained from
areas >3 mm2, where cancer cells accounted for ≥90%
of the total cell count. These cancer cells were digested
in 200 μl of proteinase K solution at a concentration of
200 μg/ml for approximately 70 h at 37°C, followed by
phenol/chloroform DNA extraction.
Khuếch đại toàn bộ gen Whole genome amplification
DNA mẫu được khuếch đại bằng phản
ứng chuỗi bằng đoạn mồi polymerase
oligonucleotide thoái hóa (DOP-PCR) qua 2
pha, như mô tả ở trên, cho sản phẩm PCR có
kích thước trên 2kb, thích hợp để đánh dấu
bằng phương pháp nick-translation trong
phân tích CGH. Để chuẩn bị cho array CGH,
DNA mẫu được khuếch đại bằng cách dùng
bộ kit GenomePlex Tissue Whole Genome
Amplification (WGA2 Kit; Sigma, St. Louis,
USA). Với những mẫu DNA không đủ để
khuếch đại, chúng tôi thay bằng WGA5 Kit
(Sigma).
Sample DNA was amplified using degenerate
oligonucleotide- primed polymerase chain
reaction (DOP-PCR) in 2 phases, as described
previously [20], which resulted in PCR products
more than 2 kb in size, suitable for nicktranslation
labelling for CGH. For array CGH, sample DNA
was amplified using the GenomePlex Tissue
Whole Genome Amplification Kit (WGA2 Kit;
Sigma, St. Louis, USA) [21]. For some DNA
samples that could not be sufficiently amplified,
the WGA5 Kit (Sigma) was employed.
CGH (lai, đánh dấu DNA bằng đoạn dò
và phân tích hình ảnh kỹ thuật số)
CGH (hybridization, probe DNA labelling
and digital image analysis)
DNA của tế bào ung thư và DNA của tế
bào bình thường được khuếch đại nhờ DOP-
PCR được đánh dấu lần lượt bằng
fluorescein-12-dUTP và
tetramethylrhodamine-5-dUTP (Roche,
Mannheim, Đức), bằng phương pháp nick
translation. Phương pháp lai và phân tích
hình ảnh được thực hiện như đã mô tả trước
đây. Thêm và mất số lượng bản sao DNA
được xác định lần lượt qua tỉ số xanh/đỏ
tương ứng >1.2 và <0.8. Các NST ở 1p32-pter,
16p, 19, 22 và Y không được phân tích trong
nghiên cứu này.
DOP-PCR-amplified tumour and normal
DNA was labelled using fluorescein-12-dUTP and
tetramethylrhodamine-5-dUTP (Roche,
Mannheim, Germany), respec tively, by nick
translation [15]. Hybridization and image analyses
were performed as described previously [22].
Gains and losses in DNA copy numbers were
defined by green to red ratios >1.2 and <0.8,
respectively. Chromosomes 1p32-pter, 16p, 19, 22
and Y were excluded from these analyses.
Array CGH Array CGH
Kỹ thuật Oligo CGH microarray (60K, 60-
mer) (Agilent, Santa Clara, USA) được dùng
Oligo CGH microarray (60 K, 60-mer) (Agilent,
Santa Clara, USA) was used in this study,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Thông Tin Y học
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 197
trong nghiên cứu này theo hướng dẫn của
nhà sản xuất. Một cách tóm tắt, DNA của
khối u và DNA chứng được đánh dấu lần
lượt với Cy5 và Cy3, dùng kit Genome DNA
ULS Labelling Kit (Aligent) và được cho lai
cạnh tranh lên microarray. Dùng phần mềm
Feature Extraction Ver.9.5.3 (Agilent), mật độ
huỳnh quang của khối u và của chứng được
tính toán từ các hình ảnh lai bắt giữ được
trên chip từ máy quét DNA chip (Agilent).
Số lượng bản sao tăng hay giảm được xác
định bằng tỉ số giữa logarithm (theo hệ nhị
phân) của mật độ tín hiệu u và của mật độ
tín hiệu chứng có giá trị lần lượt >0.3219
hoặc <-0.3219.
according to the manufacturer's instructions. In
brief, tumour and control DNA was non-
enzymatically labelled with Cy5 and Cy3,
respectively, using the Genome DNA ULS
Labelling Kit (Agilent) and competitively
hybridized to the microarray. Using Feature
Extraction Ver.9.5.3 (Agilent), the fluorescence
intensity of the tumours and controls was
calculated from the hybridized array images
captured using a DNA microarray scanner
(Agile