Đặt vấn đề: Phản ứng với thuốc chống lao (PƯTCL) trong quá trình điều trị có thể ảnh hưởng đến sự tuân thủ và kết quả điều trị lao cho người bệnh. Ở Việt Nam, số liệu về PƯTCL còn chưa nhiều. Mục tiêu: Mô tả về PƯTCL của các bệnh nhân (BN) điều trị nội trú tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam trong năm 2010. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu hồ sơ của 315 BN lao bị PUTCL. Kết quả: Trong số 315 BN nhập viện vì PƯTCL tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch trong năm 2010, có 203 (64,4%) nam và 112 (35,6%) nữ; tuổi trung bình 46 (từ 15-91 tuổi). Thuốc nghi ngờ gây phản ứng thường là rifampicin (88/315, 27,9%), pyrazinamide (81/315, 25,7%) và streptomycin (78/315, 24,8%). Isoniazid và ethambutol ít gặp hơn (theo thứ tự là 43/315, 13,7% và 33/315, 10,5%). Triệu chứng để BN nhập viện thường gặp nhất (149/315, 47,3%) là triệu chứng về da như mẩn ngứa, nhiễm độc da, mày đay, phù mạch, đỏ da toàn thân, hội chứng Stevens-Johnson; tiếp theo là các triệu chứng nôn, buồn nôn, đau bụng (51/315, 16,2%), vàng da (27/315, 8,6%). Thuốc chống lao được ngưng sử dụng và khi cho 177/315 (56,2%) BN dùng lại thuốc với liều lượng khác nhau, có 128/177(72,3%) BN tái xuất hiện triệu chứng phản ứng với thuốc, 26/177 (14,7%) BN không có triệu chứng phản ứng với thuốc và còn 23/177 (13%) BN có phản ứng với thuốc không rõ ràng. Kết luận: Nghiên cứu này cho thấy quy trình thử thuốc hiện nay được sử dụng rất đa dạng và không dựa trên bằng chứng tốt. Nghiên cứu tiến cứu dựa trên bằng chứng và quy trình thử thuốc cần được phát triển để hướng dẫn lâm sàng thực hiện thử thuốc cho BN bị phản ứng với thuốc khi đang điều trị lao.
7 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 222 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phản ứng với thuốc chống lao: Nghiên cứu hồi cứu tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
215
PHẢN ỨNG VỚI THUỐC CHỐNG LAO:
NGHIÊN CỨU HỒI CỨU TẠI BỆNH VIỆN PHẠM NGỌC THẠCH
Nguyễn Thị Bích Yến*, Nguyễn Hữu Lân*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Phản ứng với thuốc chống lao (PƯTCL) trong quá trình điều trị có thể ảnh hưởng đến sự
tuân thủ và kết quả điều trị lao cho người bệnh. Ở Việt Nam, số liệu về PƯTCL còn chưa nhiều.
Mục tiêu: Mô tả về PƯTCL của các bệnh nhân (BN) điều trị nội trú tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, thành
phố Hồ Chí Minh, Việt Nam trong năm 2010.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu hồ sơ của 315 BN lao bị PUTCL.
Kết quả: Trong số 315 BN nhập viện vì PƯTCL tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch trong năm 2010, có 203
(64,4%) nam và 112 (35,6%) nữ; tuổi trung bình 46 (từ 15-91 tuổi). Thuốc nghi ngờ gây phản ứng thường là
rifampicin (88/315, 27,9%), pyrazinamide (81/315, 25,7%) và streptomycin (78/315, 24,8%). Isoniazid và
ethambutol ít gặp hơn (theo thứ tự là 43/315, 13,7% và 33/315, 10,5%). Triệu chứng để BN nhập viện thường
gặp nhất (149/315, 47,3%) là triệu chứng về da như mẩn ngứa, nhiễm độc da, mày đay, phù mạch, đỏ da toàn
thân, hội chứng Stevens-Johnson; tiếp theo là các triệu chứng nôn, buồn nôn, đau bụng (51/315, 16,2%), vàng da
(27/315, 8,6%). Thuốc chống lao được ngưng sử dụng và khi cho 177/315 (56,2%) BN dùng lại thuốc với liều
lượng khác nhau, có 128/177(72,3%) BN tái xuất hiện triệu chứng phản ứng với thuốc, 26/177 (14,7%) BN
không có triệu chứng phản ứng với thuốc và còn 23/177 (13%) BN có phản ứng với thuốc không rõ ràng.
Kết luận: Nghiên cứu này cho thấy quy trình thử thuốc hiện nay được sử dụng rất đa dạng và không dựa
trên bằng chứng tốt. Nghiên cứu tiến cứu dựa trên bằng chứng và quy trình thử thuốc cần được phát triển để
hướng dẫn lâm sàng thực hiện thử thuốc cho BN bị phản ứng với thuốc khi đang điều trị lao.
Từ khóa: Bệnh nhân lao, thuốc kháng lao, phản ứng với thuốc.
ABSTRACT
ADVERSE REACTIONS OF ANTI-TUBERCULOSIS DRUGS: A RETROSPECTIVE STUDY
IN PHAM NGOC THACH HOSPITAL
Nguyen Thi Bich Yen, Nguyen Huu Lan * Y hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 – No 4– 2012: 215 - 221
Introduction: Adverse drug reactions (ADRs) due to anti-tuberculosis therapy can effect on adherence and
outcome. In Vietnam, data of anti-TB-induced ADRs are limited.
Objectives: To describe ADRs to antituberculous agents among in-patient admissions at Pham Ngoc Thach
Hospital, Ho Chi Minh City, Viet Nam in 2010.
Methods: A retrospective study reviewed 315 records of all TB patients with ADRs.
Results: Of the 315 patients admitted with suspected antituberculous therapy-associated ADRs, there were
203 (64.4%) males and 112 (35.6%) females; mean age was 46 (range: 15 to 91) years old. The majority of
detected ADRs were attributed to rifampicin (88/315, 27.9%), pyrazinamide (81/315, 25.7%) or streptomycin
(78/315, 24.8%). Isoniazid and ethambutol were suspected as the causative agent less frequently (43/315, 13,7%
and 33/315, 10,5%, respectively). The highest percentage of ADRs (149/315, 47.3%) causing hospital admission
*Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, Tp. Hồ Chí Minh.
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Hữu Lân ĐT: 0913185885 Email: nguyenhuulan1965@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 4 * 2012
216
was skin rash, toxidermia, urticaria, angioedema, erythroderma, Stevens-Johnson syndrome; nausea, vomiting,
abdominal pain (51/315, 16.2%), icterus (27/315, 8.6%). Anti-tuberculosis drugs were stopped and then
rechallenged in 177/315 (56.2%) patients with different doses, of whom 128/177 (72.3%) developed re-
introduction reactions, 26/177 (14.7%) had no recurrence of ADR symptoms and the remaining (23 patients,
13%) had unclear reactions.
Conclusion: This study demonstrates that method of antituberculosis drugs rechallenging is highly variable
and not based on good evidence. It is necessary to develop a prospective evidence base and a clinical aligorithm to
guide clinicians in the reintroduction of anti-TB drugs after the development of ADR in patients with TB.
Key words: TB patient, antituberculous agent, adverse drug reactions.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phản ứng với thuốc thường gặp trong thực
hành y khoa. Tất cả các thuốc điều trị bệnh đều
có thể gây phản ứng bất lợi cho bệnh nhân. Việc
điều trị bệnh lâu dài với nhiều loại thuốc làm
tăng khả năng bị phản ứng với thuốc. Theo Tổ
chức y tế thế giới (WHO), phản ứng với thuốc
“Là những phản ứng độc hay có hại không
được mong đợi đối với thuốc, xảy ra ở liều
thông thường khi được sử dụng trên người để
dự phòng, chẩn đoán hoặc điều trị bệnh hay để
thay đổi chức năng sinh lý”(9). Các phản ứng này
dẫn tới việc ngừng điều trị thuốc đó, hoặc là
nguyên nhân để bệnh nhân nhập viện(12).
Lao là một bệnh nhiễm khuẩn phổ biến ở
Việt Nam. Theo WHO, năm 2010, tần suất lao tại
Việt Nam là 290 ca bệnh/100.000 dân (kể cả
người nhiễm HIV), tỉ suất lao mới hàng năm là
180/100.000 dân(11). Dựa vào chiến lược DOTS
thông qua mạng lưới chống lao tuyến cơ sở, đến
năm 2007, chương trình chống lao quốc gia
(CTCLQG) nước ta đã đạt được mục tiêu của
WHO đặt ra là phát hiện trên 70% các ca lao
phổi mới AFB (+) và điều trị lành bệnh trên 85%
những ca này(10). Tuy nhiên những thách thức
cũng đang gia tăng, đó là tình hình lao/HIV, lao
đa kháng thuốc, siêu kháng thuốc xuất hiện. Vì
vậy, mặc dù được điều trị và quản lý, lao vẫn là
một vấn đề sức khỏe đáng lo ngại của Việt Nam.
Phản ứng với thuốc chống lao làm phức tạp
thêm việc điều trị lao, làm thay đổi hay gián
đoạn điều trị, và cũng là lý do quan trọng làm
BN kém tuân thủ điều trị lao. Trong một nghiên
cứu về kết quả điều trị lao ở 597 BN lao phổi
mới tại 16 bệnh viện quốc gia ở Nhật năm 1996
bị ngừng hay gián đoạn isoniazid và rifampicin
trong thời gian điều trị lao(2), các tác giả thấy tỷ
lệ khỏi bệnh (cấy âm hóa sau thời gian điều trị)
ở nhóm BN bị gián đoạn isoniazid và rifampicin
(88,9%) thấp hơn so với nhóm không bị gián
đoạn (98,9%).
Cũng như các kháng sinh khác, tác dụng
phụ do thuốc lao rất đa dạng trên lâm sàng. Một
số nghiên cứu đã nhận thấy yếu tố cơ địa, chủng
tộc châu Á của bệnh nhân đóng vai trò quan
trọng trong sự xuất hiện phản ứng với thuốc
chống lao(5,12). Phản ứng với thuốc chống lao làm
cho việc điều trị lao bị gián đoạn, có thể phải
thay đổi công thức thuốc, và ảnh hưởng tới kết
quả điều trị lao.
Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch là bệnh viện
chuyên khoa lao và bệnh phổi tuyến cuối tại
khu vực phía Nam Việt Nam, thường tiếp nhận
điều trị các trường hợp phản ứng với thuốc
chống lao. Hàng năm, số bệnh nhân nhập viện
vì phản ứng với thuốc khoảng 300 người. Cho
đến nay, vẫn chưa có nhiều thông tin về tình
hình phản ứng với thuốc chống lao tại bệnh
viện Phạm Ngọc Thạch, và ảnh hưởng của nó
tới việc điều trị lao. Chúng tôi tiến hành một
nghiên cứu hồi cứu trên bệnh nhân phản ứng
với thuốc chống lao nhập bệnh viện Phạm Ngọc
Thạch trong 2010, nhằm mô tả một số đặc điểm
lâm sàng và xét nghiệm của những bệnh nhân
này. Chúng tôi hy vọng những số liệu bước đầu
có thể làm cơ sở cho những nghiên cứu sâu hơn
về loại bệnh này trong tương lai.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
217
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Hồi cứu hồ sơ toàn bộ các bệnh nhân lao
nhập bệnh viện Phạm Ngọc Thạch vì phản ứng
với thuốc chống lao trong năm 2010. Thu thập
các thông tin từ hồ sơ bệnh án về tuổi, giới, tiền
sử dị ứng và bệnh tật khác; thời gian phản ứng
với thuốc; triệu chứng phản ứng với thuốc; khả
năng các thuốc nghi gây ra phản ứng cho BN và
phân độ nặng của phản ứng với thuốc cũng như
các chỉ số xét nghiệm.
Một thuốc được cho là có khả năng gây ra
phản ứng cho bệnh nhân khi các triệu chứng
hoặc dấu hiệu phản ứng không còn nữa sau khi
BN ngừng thuốc và tái xuất hiện khi thử điều trị
lại với thuốc đó(12).
Phân độ nặng của phản ứng với thuốc
(PƯT): Theo Hartwig(3)
Độ 1: Có 1 PƯT xảy ra nhưng không thay
đổi điều trị với thuốc nghi ngờ.
Độ 2: PƯT xảy ra có thể đòi hỏi ngừng
điều trị với thuốc nghi ngờ hoặc đổi thuốc,
nhưng không cần thuốc giải độc hay các điều
trị đặc hiệu khác. Không kéo dài thời gian
nằm viện của BN.
Độ 3: PƯT xảy ra có thể đòi hỏi ngừng điều
trị với thuốc nghi ngờ hoặc đổi thuốc, và/hoặc
cần thuốc giải độc hay các điều trị đặc hiệu
khác. Không kéo dài thời gian nằm viện của BN.
Độ 4: Mức 3 và tăng thời gian nằm viện
của BN ít nhất 1 ngày, hoặc PƯT là lý do BN
nhập viện.
Độ 5: Mức 4 và cần điều trị tích cực.
Độ 6: PƯT gây tổn hại vĩnh viễn cho BN.
Độ 7: PƯT trực tiếp hay gián tiếp gây tử
vong cho BN.
Độ nặng của nhiễm độc gan ở bệnh nhân
dùng thuốc lao được chia làm 4 mức, dựa vào
chỉ số transaminase (AST, ALT) và bilirubin
toàn phần(12).
Mức 0: AST / ALT / bilirubin < 3 lần giới hạn
trên của trị số bình thường.
Mức 1: AST / ALT / bilirubin từ > 3-5 lần giới
hạn trên của trị số bình thường.
Mức 2: AST / ALT / bilirubin từ > 5-10 lần
giới hạn trên của trị số bình thường.
Mức 3: AST / ALT / bilirubin từ > 10 lần giới
hạn trên của trị số bình thường.
Các số liệu sau khi thu thập sẽ được mã hóa
và nhập vào máy vi tính, sử dụng phần mềm
thống kê SPSS 16.0 để xử lý. Chúng tôi sử dụng
phép kiểm Mann-Whitney để so sánh sự khác
biệt giữa hai nhóm bệnh nhân cho các biến định
lượng và phép kiểm 2 để so sánh sự khác biệt
về tỷ lệ giữa hai nhóm bệnh nhân cho các biến
định tính. Thực hiện phép kiểm chính xác của
Fisher (Fisher’s Exact Test) nếu có trên 20% số ô
trong bảng chéo có tần số mong đợi nhỏ hơn 5.
Tất cả các phương pháp kiểm định giả thuyết
được thực hiện bằng cách sử dụng kiểm định 2
bên (two-sided alternatives). Ngưỡng ý nghĩa là
0,05 (p < 0,05) để chấp nhận hay bác bỏ giả
thuyết thống kê.
KẾT QUẢ
Tuổi, giới và thể lao
Trong năm 2010, bệnh viện Phạm Ngọc
Thạch thu nhận điều trị nội trú 315 bệnh nhân
có phản ứng với thuốc chống lao, trong đó có
203 BN nam (64,4%) và 112 BN nữ (35,6%). Tỷ lệ
nam/nữ là 1,8/1. Tuổi trung bình của BN là 46 ±
17,5 tuổi (từ 15-91 tuổi). Tuổi trung bình bệnh
nhân nam là 48 ± 17 tuổi, nữ là 44 ± 19 tuổi (p <
0,05). Có 71/315 (22,5%) BN ≥ 60 tuổi. Không có
khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ bệnh nhân
theo lứa tuổi và giới tính (p > 0,2).
Trong số BN bị phản ứng với thuốc chống
lao nhập viện năm 2010, lao phổi AFB (+) và
AFB (-) chiếm 48,6% (153/315 BN), lao ngoài
phổi chiếm 25,1% (79/315 BN), 13,7% BN là lao
phổi đa kháng thuốc (MDR).
Đa số bệnh án không có thông tin về tiền
sử hút thuốc lá, uống rượu hay ma túy của
BN do nhân viên y tế không hỏi, với tỷ lệ
tương ứng là 69,5%, 75,9% và 74%. 80/315
(25,4%) BN có tiền sử điều trị lao trước từ 1
đến 4 lần. Số BN có tiền sử dị ứng thuốc lao là
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 4 * 2012
218
23/315 người (7,3%) và 3 trường hợp có tiền
sử dị ứng với các thuốc khác (1%).
Bệnh kèm theo
Ngoài mắc lao, 129/315 (41%) bệnh nhân
trong nghiên cứu này có kèm thêm các bệnh
khác. Nhiều nhất là nhiễm HIV (46 BN =
14,6%), sau đó là tiểu đường (20 BN = 15,5%).
Còn lại là các bệnh khác như hen phế quản,
bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, vẩy nến, xơ
gan, gout, suy thận mạn...
Trong thời gian nằm viện, đa số BN không
được chẩn đoán nhiễm HBV, HCV và HIV, với
tỷ lệ tương ứng là 70,2%, 69,8% và 56,8%. Trong
số BN được làm xét nghiệm, tỷ lệ BN có HBsAg
(+) là 8/94 BN (8,5%), anti-HCV (+) là 15/95 BN
(15,8%) và HIV(+) là 46/136 BN (33,8%).
Thuốc nghi gây phản ứng cho BN
BN điều trị thuốc chống lao có thể bị phản
ứng với 1 hay nhiều loại thuốc. Trong số BN
mà chúng tôi khảo sát ở nghiên cứu này, có
131 (41,6%) BN nghi bị phản ứng với 1 loại
thuốc lao, 29,8% BN nghi có phản ứng cùng
lúc với 2 đến 6 loại thuốc chống lao. Thuốc
nghi ngờ gây phản ứng cho BN thường gặp
nhất là rifampicin (88/315 = 27,9%),
pyrazinamide (81/315, 25,7%) và streptomycin
(78/315, 24,8%) sau đó là isoniazid (43/315,
13,7%), và ethambutol (33/315, 10,5%). Có 37
trường hợp phản ứng với thuốc chống lao
hàng hai (11,8%). 90 BN (28,6%) không rõ
thuốc gây phản ứng. Số lượng thuốc lao bị
phản ứng (phản ứng với 1 loại thuốc lao, 2
loại thuốc lao, trên 3 loại thuốc lao) không
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa bệnh nhân
chưa điều trị lao hay đã điều trị lao trong tiền
sử (p > 0,2), bệnh nhân đang điều trị các công
thức khác nhau (SHRZ, EHRZ, SHREZ, công
thức điều trị lao đa kháng) (p > 0,7).
Triệu chứng phản ứng với thuốc chống lao
khiến BN nhập viện
149 (47,3%) BN nhập viện có triệu chứng về
da (mẩn ngứa, đỏ da toàn thân, mày đay, nhiễm
độc da, hội chứng Stevens-Johnson, phù
mạch...). Sau đó là triệu chứng về tiêu hóa (nôn,
buồn nôn, đau bụng) (51 BN, 16,2%), vàng da
(27 BN, 8,6%), chóng mặt, ù tai (20 BN, 6,3%),
ngất xỉu, sốc, mệt ngày càng tăng (20 BN, 6,3%),
sốt (10 BN, 3,2%), đau khớp (9 BN, 2,9%), tê da,
tê môi (5 BN, 1,6%), và các triệu chứng khác.
Chỉ có 296 BN có ghi nhận thời gian từ khi
điều trị lao đến khi có triệu chứng phản ứng với
thuốc trong bệnh án. Thời gian trung vị từ khi
điều trị lao đến khi BN có triệu chứng phản ứng
với thuốc là 27 ngày (từ 1-350 ngày). Trong đó,
16,2 % (48 BN) có phản ứng trong tuần đầu tiên
sau khi dùng thuốc, 66,2% (196 BN) có phản ứng
trong tháng đầu tiên, 86,8% (257 BN) có phản
ứng trong vòng 2 tháng đầu tiên sau điều trị lao.
Thời gian trung vị từ khi BN có triệu chứng
phản ứng với thuốc đến khi vào viện là 7 ngày
(từ 1-300 ngày).
Trong 293 BN (93%) được thử men gan và
bilirubin, có 210 BN (71,7%) có chỉ số men gan
bình thường; 25 BN (8,5%) có viêm gan mức độ
1 (men gan, bilirubin toàn phần > 3-5 lần giới
hạn trên của trị số bình thường); 23 BN (7,9%) có
viêm gan mức độ 2 (men gan, bilirubin toàn
phần từ 5-10 lần giới hạn trên của trị số bình
thường); 35 BN (11,9%) có viêm gan mức độ 3
(men gan, bilirubin toàn phần > 10 lần giới hạn
trên của trị số bình thường).
Kết quả thử thuốc bằng đường uống
Trong thời gian nằm viện, chỉ 177 BN được
thử thuốc (56,2%). Trong số đó, 128 BN (72,3%)
xuất hiện lại triệu chứng phản ứng với thuốc, 26
BN (14,7%) không có triệu chứng phản ứng với
thuốc và 23 BN (13%) có phản ứng không rõ
ràng. Số ngày trung bình BN ngừng điều trị lao
đến khi lâm sàng ổn định để thử thuốc là 8,3 ±
9,5 ngày (trung vị 6 ngày, từ 0-90 ngày).
Có 111 BN thử streptomycin với liều đầu
tiên trung bình là 634 ± 222 mg (từ 25-
1000mg); 150 BN được thử rifampicin với liều
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
219
đầu tiên là 259 ± 151 mg (từ 37-600mg); 175
BN được thử isoniazid với liều đầu tiên là 217
± 87 mg (từ 50-400 mg); 179 BN được thử
ethambutol với liều 703 ± 288 mg (từ 100-
1200mg); 150 BN được thử pyrazinamide với
liều 794 ± 420 mg (từ 60-1600 mg).
Khi thử thuốc, 23 BN (13%) có thời gian từ
khi dùng thuốc đến khi xuất hiện lại triệu
chứng phản ứng dưới 6 giờ, 69 BN (39%) có
thời gian xuất hiện phản ứng từ 6-48 giờ sau
dùng thuốc, 53 BN (30%) có thời gian xuất
hiện phản ứng trên 48 giờ và 32 BN (18%)
không được ghi nhận thời gian có phản ứng.
Trong phác đồ tái điều trị được chỉ định cho
BN, thuốc nghi phản ứng bị loại bỏ trong
88,5% các trường hợp. Có 107 BN (34%) không
nhận được chỉ định điều trị sau khi ra viện.
BÀN LUẬN
Phản ứng với thuốc trong điều trị lao là
một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kết quả
điều trị cho bệnh nhân. Những nghiên cứu
khác nhau đưa ra những số liệu khác nhau về
tình hình phản ứng với thuốc chống lao ở
từng khu vực. Trong nghiên cứu này, chúng
tôi thấy BN phản ứng với thuốc chống lao
thường ở lứa tuổi trung niên trở lên, trung
bình là 46 tuổi; có 32,7% BN là người trên 55
tuổi. Có 25,4% BN có tiền sử điều trị lao
trước, và 41% BN có mắc thêm những bệnh
mạn tính khác, đặc biệt là tình trạng nhiễm
HIV (35,7%). 7,3% BN có tiền sử phản ứng với
thuốc chống lao nhưng vẫn được điều trị lao
với phác đồ có thuốc nghi phản ứng, có thể
do bác sĩ tuyến cơ sở chưa chú ý đến việc khai
thác tiền sử phản ứng với thuốc của người
bệnh trước khi đưa ra chỉ định điều trị. Nhiều
tác giả nhận thấy phản ứng với thuốc chống
lao thường gặp ở người có tiền sử điều trị lao,
có tiền sử dị ứng thuốc, hút thuốc lá, hoặc BN
lớn tuổi(5,12). Một nghiên cứu cũng cho thấy
BN lao có mức IgE toàn phần và IgE đặc hiệu,
interleukin (IL)-6 và interferon (IFN) gamma
cao hơn người khỏe mạnh, chứng tỏ BN lao
có tăng mức mẫn cảm hơn người bình
thường. Sau khi điều trị lao khỏi, mức IgE và
một số cytokin (IL-6, IFN gamma) trong huyết
thanh của BN giảm xuống(1). Vì vậy, việc khai
thác kỹ tiền sử phản ứng với thuốc trước điều
trị lao là rất quan trọng, có thể góp phần hạn
chế tình trạng phản ứng với thuốc xảy ra sau
này.
Về lâm sàng, chúng tôi thấy 47,3% BN nhập
viện vì triệu chứng phản ứng da ở các mức độ
khác nhau như mẩn ngứa, đỏ da toàn thân, mày
đay, nhiễm độc da, hội chứng Stevens-Johnson,
phù mạch.... Triệu chứng về tiêu hóa (nôn, buồn
nôn, đau bung) xuất hiện ở 16,2% BN; các
triệu chứng khác có tỷ lệ ít hơn. Viêm gan gặp
trong 28,3% các BN có phản ứng với thuốc
chống lao nhập viện. Trong số họ, 70% BN có
mức độ viêm gan trung bình và nặng, với các
chỉ số transaminase và bilirubin toàn phần trong
máu tăng hơn 5 lần giới hạn trên của chỉ số bình
thường. Theo Richard Zaleskis, nếu viêm gan
mức độ nhẹ (mức 1), BN không cần thay đổi
điều trị, nhưng cần được theo dõi chặt chẽ,
thường xuyên hơn về lâm sàng và xét nghiệm.
Nếu viêm gan mức độ trung bình (mức 2), nên
ngừng điều trị lao càng sớm càng tốt, và BN cần
nhập viện để đề phòng suy gan cấp. Viêm gan
nặng (mức 3) xảy ra với tần suất khoảng 1/1000
trường hợp điều trị lao, có tỷ lệ suy gan cấp và
tỷ lệ tử vong cao (2,5%)(14). Khi BN có dấu hiệu
viêm gan, rất khó phân biệt nguyên nhân do
thuốc lao hay do BN có tình trang viêm gan hoạt
động do nhiễm siêu vi, nhất là ở khu vực có tần
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 4 * 2012
220
suất nhiễm virus viêm gan cao như ở Việt Nam.
Trong khi đó, đa số BN phản ứng với thuốc
trong nghiên cứu này khi vào viện đã không
được làm xét nghiệm chẩn đoán nhiễm HBV,
HCV và HIV với tỷ lệ tương ứng là 70,2%, 69,8%
và 56,8%. Trong số BN được làm xét nghiệm
HIV, chúng tôi thấy 46 BN (33,8%) có HIV(+).
Điều này chứng tỏ việc xét nghiệm viêm gan
siêu vi và HIV cho BN lao nhập viện vì phản
ứng với thuốc chưa được chú ý đúng mức.
Trong nghiên cứu này, thuốc nghi ngờ gây
phản ứng cho BN thường gặp nhất là rifampicin
(27,9%), pyrazinamide (25,7%) và streptomycin
(24,8%); isoniazid và ethambutol ít gặp hơn với
tỷ lệ theo thứ tự là 13,7% và 10,5%. Trong một
nghiên cứu hồi cứu ở Cape Town (Nam Phi)
trên 65 BN bị phản ứng với thuốc chống lao cho
thấy phản ứng da do thuốc lao thường gặp ở
người nghiễm HIV, chủ yếu do rifampicin (57%)
và isoniazid (22%), sau đó là pyrazinamide
(13%), thấp nhất là do ethambutol, streptomycin
và Ofloxacin (4%)(7). Trong một nghiên cứu khác
tại Malaysia, các tác giả thấy phản ứng da do
thuốc lao thường gặp là tử ban, hồng ban đa
dạng, mày đay và 97% xảy ra trong 2 tháng đầu,
nguyên nhân thường gặp nhất là do
pyrazinamide(8), đặc biệt là ở BN nhiễm HIV.
Một nghiên cứu khác nhận thấy phản ứng với
pyrazinamide là gặp nhiều nhất, sau đó đến
isoniazid và rifampicin. Ethambutol ít gặp hơn.
Sự khác biệt này có thể phụ thuộc vào việc sử
dụng các phác đồ điều trị lao ở mỗi nước, yếu tố
di truyền và cơ địa bệnh nhân ở các chủng tộc
khác nhau(12).
Thuốc lao hàng hai cũng thường gây phản
ứng cho BN, nhưng cho đến nay, có rất ít số liệu
đề cập đến vấn đề này(4). Ở Việt Nam, số BN lao
kháng thuốc được điều trị phác đồ thuốc lao
hàng hai chưa nhiều. Bệ