Giới thiệu: Đột biến gen EGFR gây nên ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN). Mặc dù erlotinib đã được chỉ định cho điều trị ung thư này tại Việt Nam, cơ sở phân tử cho chỉ định điều trị vẫn chưa được khảo sát. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Bệnh nhân UTPKTBN có đáp ứng với erlotinib của Khoa C4 Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch được khảo sát đột biến gen EGFR tại 4 exon (18 – 21). Sau khi khuếch đại thành công bằng PCR từ bệnh phẩm là mô vùi nến, đột biến của EGFR được xác định bằng kỹ thuật giải trình tự chuỗi DNA. Kết quả: 2 đột biến của exon 19 và 1 đột biến của exon 21 được phát hiện ở 3 bệnh nhân. Các đột biến này đã được báo cáo nhạy với erlotinib. Kết luận: Chẩn đoán đột biến EGFR bằng giải trình tự chuỗi DNA có thể giúp ích cho lựa chọn bệnh nhân UTPKTBN trong chỉ định điều trị thuốc nhắm trúng đích phân tử.
5 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 383 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát hiện đột biến gen EGFR trên bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ có đáp ứng với erlotinib, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 150
PHÁT HIỆN ĐỘT BIẾN GEN EGFR TRÊN BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI
KHÔNG TẾ BÀO NHỎ CÓ ĐÁP ỨNG VỚI ERLOTINIB
Hoàng Anh Vũ*, Nguyễn Thiện Nhân**, Phan Thị Xinh***, Nguyễn Sơn Lam**, Trần Đình Thanh**
TÓM TẮT
Giới thiệu: Đột biến gen EGFR gây nên ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN). Mặc dù erlotinib đã
được chỉ định cho điều trị ung thư này tại Việt Nam, cơ sở phân tử cho chỉ định điều trị vẫn chưa được khảo sát.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Bệnh nhân UTPKTBN có đáp ứng với erlotinib của Khoa C4
Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch được khảo sát đột biến gen EGFR tại 4 exon (18 – 21). Sau khi khuếch đại
thành công bằng PCR từ bệnh phẩm là mô vùi nến, đột biến của EGFR được xác định bằng kỹ thuật giải
trình tự chuỗi DNA.
Kết quả: 2 đột biến của exon 19 và 1 đột biến của exon 21 được phát hiện ở 3 bệnh nhân. Các đột biến này
đã được báo cáo nhạy với erlotinib.
Kết luận: Chẩn đoán đột biến EGFR bằng giải trình tự chuỗi DNA có thể giúp ích cho lựa chọn bệnh nhân
UTPKTBN trong chỉ định điều trị thuốc nhắm trúng đích phân tử.
Từ khóa: Đột biến gen EGFR, ung thư phổi không tế bào nhỏ, erlotinib
ABSTRACT
EGFR GENE MUTATION IN NON-SMALL CELL LUNG CANCERS RESPONSED WITH ERLOTINIB
Hoang Anh Vu, Nguyen Thien Nhan, Phan Thi Xinh, Nguyen Son Lam, Tran Dinh Thanh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 150 - 154
Background: EGFR mutations lead to non-small cell lung cancer (NSCLC). Although erlotinib response
was observed in Vietnamese patients, the molecular mechanism underlying sensitivity to erlotinib was not
investigated.
Material and method: Tumors from patients with NSCLC who had a response to erlotinib were searched
for mutation in EGFR exons 18 – 21. PCR was used to amplify 4 exons from DNA of paraffin-embedded tissue
samples, followed by direct DNA sequencing.
Results: Two mutations in exon 19 and 1 mutation in exon 21 were detected in 3 patients. These mutations
were known to be sensitive to erlotinib.
Conclusion: Detection of EGFR mutation is now available for selecting NSCLC patients benefit from
molecularly targeted therapy.
Key words: EGFR mutations, non-small cell lung cancer, erlotinib.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư phổi nguyên phát gây tử vong
hàng đầu trong số những loại ung thư thường
gặp(1). Tiên lượng rất xấu của ung thư phổi là do
chẩn đoán thường chỉ thực hiện được trong giai
đoạn trễ, can thiệp phẫu thuật không còn khả
thi hoặc hiệu quả rất hạn chế do tế bào ung thư
đã xâm lấn hay di căn xa. Về mặt chẩn đoán,
ung thư phổi nguyên phát được chia thành
nhóm ung thư phổi không tế bào nhỏ
*Bộ môn Mô – Phôi, Đại học Y Dược TP.HCM **Khoa C4, Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch
***Bộ môn Huyết học, Đại học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: TS. Hoàng Anh Vũ ĐT: 01222993537 Email: hoangvuxinh@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 151
(UTPKTBN) và ung thư phổi tế bào nhỏ.
UTPKTBN chiếm khoảng 80%, do đột biến của
gen EGFR gây ra(5). Erlotinib (biệt dược Tarceva
của Roche) được chấp nhận là chỉ định thay thế
(second-line therapy) cho UTPKTBN ở giai đoạn
tiến xa đã thất bại với hóa trị liệu chuẩn. Trong
trường hợp này thuốc giúp kéo dài thời gian
sống thêm trung bình từ 4,7 tháng lên 6,7
tháng(11). Hiện nay erlotinib đã được dùng trong
điều trị ung thư phổi trên 80 quốc gia. Các kết
quả nghiên cứu nhằm tìm ra những dấu ấn sinh
học cho đáp ứng với thuốc ức chế đặc hiệu
EGFR cho thấy tình trạng đột biến gen EGFR
chính là yếu tố tiên đoán chính xác nhất, trong
khi đó hóa mô miễn dịch để đánh giá biểu hiện
protein lại không cho thông tin có ý nghĩa nào
cho tiên đoán đáp ứng điều trị(6,8,16).
Tại Việt Nam, đã có những báo cáo về đáp
ứng lâm sàng của bệnh nhân UTPKTBN được
điều trị bằng erlotinib(7,17). Chúng tôi thực hiện
nghiên cứu này nhằm làm rõ hơn cơ chế phân
tử của những đáp ứng điều trị quan sát được
trên bệnh nhân Việt Nam.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
4 bệnh nhân UTPKTBN thuộc khoa C4 –
Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, có đáp ứng với
erlotinib, được chọn để xác định tình trạng đột
biến của gen EGFR. Tiêu chuẩn đáp ứng với
erlotinib bao gồm: cải thiện các triệu chứng về
hô hấp trên lâm sàng và kích thước u, nốt di căn
phổi, tình trạng tái lập dịch màng phổi dựa trên
X quang phổi thẳng, CT scan ngực. Các bệnh
nhân này được điều trị trong khoảng thời gian
từ tháng 10/2008 tới tháng 10/2010.
Tách chiết genomic DNA
Bệnh phẩm là mô vùi nến đã dùng để chẩn
đoán giải phẫu bệnh. Trong 4 mẫu nghiên cứu, 3
từ bệnh phẩm phẫu thuật, 1 từ sinh thiết.
Trường hợp là bệnh phẩm phẫu thuật, vùng mô
ung thư được đánh dấu trên lam giải phẫu bệnh
để thu vào tube ly tâm 1,5 mL nhằm tăng khả
năng chẩn đoán được đột biến. Bệnh phẩm sinh
thiết quá nhỏ không thể đánh dấu phân biệt
vùng ung thư và mô lành nên được thu toàn bộ
vào tube ly tâm. Xylene (Merk, Đức) được thêm
vào tube ly tâm 2 lần để khử nến, sau đó được
rửa lại bằng ethanol tuyệt đối và để khô trước
khi ủ với proteinase K (Invitrogen, Mỹ) ở 480C
trong 16 giờ. Tinh sạch sản phẩm DNA sau khi
ủ proteinase K được thực hiện bằng phenol –
chloroform (Invitrogen, Mỹ). Cuối cùng, kết tủa
DNA bằng ethanol tuyệt đối trong muối
NH4OAC và định nồng độ DNA bằng
spectrophotometer.
Khuếch đại các exon bằng PCR
Các đoạn mồi (Bảng 1) được thiết kế bằng
phần mềm Oligo 4.1 dựa trên trình tự chuẩn
của EGFR mang accession number NG_007726
trong GenBank. Trong mỗi tube PCR có tổng
thể tích 50 µL, các thành phần gồm có PCR
buffer, dNTP (250 µM cho mỗi loại), 2 loại
mồi xuôi và ngược (0,5 µM cho mỗi loại), 1,25
unit TaKaRa TaqTM HotStart Polymerase
(Takara, Nhật Bản) và 20 ng genomic DNA.
Chu kỳ luân nhiệt được thực hiện trên máy
GeneAmp® PCR system 9700 (Applied
Biosystems, Mỹ) bao gồm giai đoạn biến tính
ban đầu ở 980C trong 2 phút, theo sau bằng 40
chu kỳ gồm biến tính ở 980C trong 10 giây,
gắn mồi ở 600C trong 15 giây, tổng hợp chuỗi
DNA ở 720C trong 1 phút và kết thúc bằng
giai đoạn kéo dài sản phẩm ở 720C trong 5
phút. Sản phẩm PCR được phát hiện bằng
điện di trên thạch agarose 2% có nhuộm
ethidium bromide và quan sát dưới màn soi
gel Pringraph (Atto, Nhật Bản). Sản phẩm
PCR được tinh sạch bằng QIAquick Gel
Extraction kit (Qiagen, Mỹ) và được kiểm tra
lại bằng điện di trên thạch agarose 2%.
Bảng 1: Các đoạn mồi dùng trong nghiên cứu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 152
Tên mồi Trình tự (5’--- 3’) Exon được khuếch đại Sản phẩm PCR (bp)
EGFR.18F CATGGTGAGGGCTGAGGTGA
EGFR.18R CTTGCAAGGACTCTGGGCT
18 252
EGFR.19F GCATGTGGCACCATCTCACA
EGFR.19R GAGAAAAGGTGGGCCTGAGG
19 217
EGFR.20F ACCTGGAAGGGGTCCATGTG
EGFR.20R TGCTATCCCAGGAGCGCAGA
20 341
EGFR.21F TCACAGCAGGGTCTTCTCTGTTT
EGFR.21R ATGCTGGCTGACCTAAAGCC
21 212
Thực hiện giải trình tự chuỗi DNA
Sản phẩm PCR đã được tinh sạch sẽ được
thực hiện phản ứng cycle sequencing với
BigDye V3.1 từ Applied Biosystems, theo 2
chiều xuôi và ngược cho mỗi exon. Sản phẩm
sau đó được kết tủa bằng ethanol, hòa tan
trong Hi-Di formamide, biến tính ở 950C trong
2 phút trước khi làm lạnh đột ngột. Trình tự
DNA được đọc bằng máy ABI 3130 Genetic
Analyzer, với POP-7 polymer và capillary 50
cm (Applied Biosystems, Mỹ). Kết quả được
phân tích bằng phần mềm SeqScape, so sánh
với trình tự tham chiếu của EGFR mang
accession number NG_007726 để chẩn đoán
tình trạng đột biến của các exon. Quy trình
chẩn đoán đột biến gen được thực hiện tại Đại
học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Hầu hết đột biến EGFR trong UTPKTBN
nằm trong các exon 18 – 21(9). Vì các đột biến rất
đa dạng, bao gồm đột biến điểm, đột biến mất
đoạn và đột biến thêm đoạn nên giải trình tự
chuỗi DNA được coi là kỹ thuật phù hợp nhất
để khảo sát đột biến. Các kỹ thuật khác chỉ khảo
sát các đột biến thường được báo cáo sẽ bỏ sót
những đột biến mới, nhất là trên những quần
thể mới được nghiên cứu lần đầu như bệnh
nhân Việt Nam.
Để có thể giải trình tự chuỗi DNA, bước
quyết định là phải khuếch đại được các exon
muốn tìm đột biến từ mô vùi nến. Hình 1A cho
thấy các exon đã được khuếch đại một cách đặc
hiệu bằng các đoạn mồi do chúng tôi thiết kế.
Trong điều kiện PCR của chúng tôi, nhiệt độ bắt
cặp của cả 4 cặp mồi là 600C, giúp cho việc
khuếch đại cùng lúc 4 exon bằng một chương
trình luân nhiệt rất thuận lợi.
Kết quả giải trình tự sau đó phát hiện 3 bệnh
nhân có mang đột biến của EGFR (Hình 1B). Đột
biến L858R, do thay thế thymidine bằng guanine
tại codon 858 của exon 21, là một trong những
đột biến thường gặp nhất trong UTPKTBN(4).
Đột biến Del_L747-S752 do mất đi 18 nucleic
acid của exon 19, là đột biến hiếm gặp (chiếm
khoảng 0,79% trong tổng số các trường hợp đột
biến được tổng kết trong EGFR mutation
database). Riêng đột biến tại codon 702 chỉ mới
được báo cáo 3 trường hợp trong UTPKTBN. Cả
3 đột biến này đều nằm trong vùng đột biến
nhạy với erlotinib. Kết quả của chúng tôi chứng
tỏ kỹ thuật giải trình tự DNA giúp phát hiện
được cả đột biến thường được báo cáo cũng như
những đột biến hiếm gặp. Đây được coi là tiêu
chuẩn vàng cho chẩn đoán đột biến gen EGFR
trong các nghiên cứu lâm sàng(14,15). Cần lưu ý
rằng kỹ thuật này chỉ có khả năng phát hiện đột
biến nếu số tế bào có mang đột biến (tế bào ung
thư) chiếm từ 30% trong tổng số tế bào thu được
trong tube ly tâm(6). Vì thế, việc đánh dấu vùng
tế bào ung thư để phân biệt với mô bình thường
xung quanh trên lam giải phẫu bệnh trước khi
thu tế bào là bước vô cùng quan trọng, tránh
khả năng bỏ sót đột biến. Chúng tôi không phát
hiện đột biến trên 1 bệnh nhân có bệnh phẩm là
mô sinh thiết, có thể do tỷ lệ tế bào ung thư quá
ít vì không tách được mô lành ra khỏi mô ung
thư. Trong trường hợp này, các kỹ thuật có độ
nhạy cao hơn nên được triển khai thêm để bổ
sung cho giải trình tự chuỗi DNA(3,6).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 153
Hình 1: Đột biến EGFR. (A) khuếch đại đặc hiện 4 exon 18 – 21 bằng PCR. (B) các đột biến được phát hiện bằng
giải trình tự chuỗi DNA.
Ngoài erlotinb, gefitinib (biệt dược Iressa
của Astrazeneca) cũng là thuốc ức chế đặc hiệu
EGFR. Nếu được chỉ định rộng rãi, thuốc này
không cải thiện thời gian sống thêm trên bệnh
nhân người da trắng, vì vậy không được chỉ
định tại Mỹ và châu Âu(12). Tuy nhiên, trên bệnh
nhân châu Á, Iressa tỏ ra rất hiệu quả, đặc biệt
nếu bệnh nhân có mang đột biến của EGFR. Một
nghiên cứu trên bệnh nhân Nhật Bản cho thấy tỷ
lệ sống thêm 1 năm là 79%(12). Nhóm tác giả của
Mỹ công bố kết quả rất khả quan về hiệu quả
của gefitinib khi được chỉ định ưu tiên cho bệnh
nhân UTPKTBN có mang đột biến của EGFR,
với tỷ lệ sống thêm 1 năm là 73% và thời gian
sống thêm trung vị là 17,5 tháng(10). Ngay cả
những trường hợp đã có di căn não, erlotinib và
gefitinib cũng tỏ ra có hiệu quả trên bệnh nhân
có mang đột biến EGFR(2). Thành công trong
chẩn đoán đột biến EGFR bằng kỹ thuật giải
trình tự chuỗi DNA của chúng tôi có thể giúp
ích cho điều trị bệnh nhân bằng erlotinib hay
gefitinib. Hiện nay kỹ thuật này cũng đang được
ứng dụng tại Đại học Y Dược TP.HCM để khảo
sát đột biến EGFR trên bệnh nhân UTPKTBN
nhằm mô tả được tần suất cũng như phổ đột
biến gen này trên bệnh nhân Việt Nam.
KẾT LUẬN
Kỹ thuật giải trình tự chuỗi DNA đã được
ứng dụng thành công để phát hiện đột biến
EGFR trong UTPKTBN trên bệnh nhân Việt
Nam, giúp lựa chọn điều trị nhắm trúng đích
phân tử bằng erlotinib và gefitinib.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dubey S, Powell CA (2007). Update in lung cancer 2006. Am J
Respir Crit Care Med;175(9):868-74.
2. Inoue A, Suzuki T, Fukuhara T, Maemondo M, Kimura Y,
Morikawa N, et al (2006). Prospective phase II study of gefitinib for
chemotherapy-naive patients with advanced non-small-cell lung
cancer with epidermal growth factor receptor gene mutations. J Clin
Oncol;24(21):3340-6.
3. Janne PA, Borras AM, Kuang Y, Rogers AM, Joshi VA, Liyanage
H, et al (2006). A rapid and sensitive enzymatic method for
epidermal growth factor receptor mutation screening. Clin Cancer
Res;12:751-8.
4. Johnson BE, Janne PA (2005). Epidermal growth factor receptor
mutations in patients with non-small cell lung cancer. Cancer
Res;65(17):7525-9.
5. Lynch TJ, Bell DW, Sordella R, Gurubhagavatula S, Okimoto
RA, Brannigan BW, et al (2004). Activating mutations in the
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 154
epidermal growth factor receptor underlying responsiveness of non-
small-cell lung cancer to gefitinib. N Engl J Med;350(21):2129-39.
6. Marchetti A, Martella C, Felicioni L, Barassi F, Salvatore S,
Chella A, et al (2005). EGFR mutations in non-small-cell lung
cancer: analysis of a large series of cases and development of a
rapid and sensitive method for diagnostic screening with
potential implications on pharmacologic treatment. J Clin
Oncol;23(4):857-65.
7. Nguyễn Thiện Nhân, Trần Đình Thanh, Nguyễn Sơn Lam,
Nguyễn Trần Phùng (2010). Báo cáo một trường hợp ung thư
phế quản – phổi xâm lấn gây chít hẹp khí quản, đáp ứng hoàn
toàn sau 10 ngày điều trị bằng erlotinib. Y học TP. Hồ Chí
Minh;14(4):379 – 85.
8. Parra HS, Cavina R, Latteri F, Zucali PA, Campagnoli E,
Morenghi E, et al (2004). Analysis of epidermal growth factor
receptor expression as a predictive factor for response to gefitinib
('Iressa', ZD1839) in non-small-cell lung cancer. Br J
Cancer;91(2):208-12.
9. Rosell R, Moran T, Queralt C, Porta R, Cardenal F, Camps C, et
al (2009). Screening for epidermal growth factor receptor mutations
in lung cancer. N Engl J Med;361(10):958-67.
10. Sequist LV, Martins RG, Spigel D, Grunberg SM, Spira A, Janne
PA, et al (2008). First-line gefitinib in patients with advanced non-
small-cell lung cancer harboring somatic EGFR mutations. J Clin
Oncol;26(15):2442-9.
11. Shepherd FA, Rodrigues Pereira J, Ciuleanu T, Tan EH, Hirsh V,
Thongprasert S, et al (2005). Erlotinib in previously treated non-
small-cell lung cancer. N Engl J Med;353(2):123-32.
12. Stinchcombe TE, Socinski MA (2008). Considerations for second-
line therapy of non-small cell lung cancer. Oncologist;13:28-36.
13. Tamura K, Okamoto I, Kashii T, Negoro S, Hirashima T, Kudoh
S, et al (2008). Multicentre prospective phase II trial of gefitinib for
advanced non-small cell lung cancer with epidermal growth factor
receptor mutations: results of the West Japan Thoracic Oncology
Group trial (WJTOG0403). Br J Cancer;98(5):907-14.
14. Toyooka S, Takano T, Kosaka T, Hotta K, Matsuo K, Ichihara S,
et al (2008). Epidermal growth factor receptor mutation, but not sex
and smoking, is independently associated with favorable prognosis of
gefitinib-treated patients with lung adenocarcinoma. Cancer
Sci;99(2):303-8.
15. Tsao MS, Sakurada A, Cutz JC, Zhu CQ, Kamel-Reid S, Squire J,
et al (2005). Erlotinib in lung cancer - molecular and clinical
predictors of outcome. N Engl J Med;353(2):133-44.
16. Uramoto H, Sugio K, Oyama T, Ono K, Sugaya M, Yoshimatsu
T, et al (2006). Epidermal growth factor receptor mutations are
associated with gefitinib sensitivity in non-small cell lung cancer in
Japanese. Lung Cancer;51(1):71-7.
17. Vũ Văn Vũ, Đặng Thanh Hồng và cs (2010). Điều trị ung thư phổi
không tế bào nhỏ tiến xa bằng erlotinib – những nhận định ban đầu
nhân 10 trường hợp tại Bệnh biện Ung bướu TPHCM 2008 – 2010.
Y học TP. Hồ Chí Minh;14(4):408 – 413.