Phát triển và nuôi dưỡng tố chất lãnh đạo

Chìa khóa để khắc phục hiện trạng này là bồi dưỡng và phát triển “tố chất lãnh đạo” trong mỗi con người Việt Nam và đây cần được coi là một nội dung trọng yếu của Cải cách Gia ĐÌnh(CCGD) nói chung và Cải cách Giáo dục Đại học (CCGDĐH) nói riêng.Tố chất lãnh đạo là gì? Mỗi cá nhân, gia đình, tổ chức, cộng đồng, và dân tộc tại mỗi thời điểm có những tiềm năng nhất định cho phát triển của mình. Tiềm năng này được đặc trưng bởi các định tố về thể chất, trí tuệ, văn hóa, trải nghiệm, nguồn lực vật chất, quan hệ xã hội, và các cơ may hay vận hội. Tố chất lãnh đạo là khả năng và phẩm chất giúp con người trong nỗ lực tạo nên giá trị mới cho xã hội, thông qua khai thác và phát triển tiềm năng của chính bản thân mình và của tổ chức mà họ lãnh đạo. Tố chất lãnh đạo cũng giúp mỗi cá nhân có tác động tích cực đến các cá nhân khác thông qua các quan hệ tương tác. Thiếu tố chất lãnh đạo sẽ làm cho cá nhân không chỉ không phát huy hết tiềm năng của bản thân và của tổ chức mà mình lãnh đạo mà còn làm nó thui chột theo thời gian. Một con người, một gia đình, một tổ chức, hay một quốc gia, qua thời gian sẽ chỉ có tiến lên hoặc đi xuống. Các đối tượng này sẽ đi lên hay đi xuống?; nếu đi lên thì đi lên được bao xa? Nếu đi xuống, thì đi xuống đến mức nào? Tất cả những điều này tùy thuộc một phần quyết định vào tố chất lãnh đạo trong từng cá nhân, từng gia đình, từng tổ chức, và cả xã hội.

pdf12 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 23/06/2022 | Lượt xem: 293 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển và nuôi dưỡng tố chất lãnh đạo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phát triển và nuôi dưỡng tố chất lãnh đạo Chìa khóa để khắc phục hiện trạng này là bồi dưỡng và phát triển “tố chất lãnh đạo” trong mỗi con người Việt Nam và đây cần được coi là một nội dung trọng yếu của Cải cách Gia ĐÌnh(CCGD) nói chung và Cải cách Giáo dục Đại học (CCGDĐH) nói riêng. Tố chất lãnh đạo là gì? Mỗi cá nhân, gia đình, tổ chức, cộng đồng, và dân tộc tại mỗi thời điểm có những tiềm năng nhất định cho phát triển của mình. Tiềm năng này được đặc trưng bởi các định tố về thể chất, trí tuệ, văn hóa, trải nghiệm, nguồn lực vật chất, quan hệ xã hội, và các cơ may hay vận hội. Tố chất lãnh đạo là khả năng và phẩm chất giúp con người trong nỗ lực tạo nên giá trị mới cho xã hội, thông qua khai thác và phát triển tiềm năng của chính bản thân mình và của tổ chức mà họ lãnh đạo. Tố chất lãnh đạo cũng giúp mỗi cá nhân có tác động tích cực đến các cá nhân khác thông qua các quan hệ tương tác. Thiếu tố chất lãnh đạo sẽ làm cho cá nhân không chỉ không phát huy hết tiềm năng của bản thân và của tổ chức mà mình lãnh đạo mà còn làm nó thui chột theo thời gian. Một con người, một gia đình, một tổ chức, hay một quốc gia, qua thời gian sẽ chỉ có tiến lên hoặc đi xuống. Các đối tượng này sẽ đi lên hay đi xuống?; nếu đi lên thì đi lên được bao xa? Nếu đi xuống, thì đi xuống đến mức nào? Tất cả những điều này tùy thuộc một phần quyết định vào tố chất lãnh đạo trong từng cá nhân, từng gia đình, từng tổ chức, và cả xã hội. Tố chất lãnh đạo có thể coi là sự tổng hòa của ba yếu tố nền tảng Lòng khát khao học hỏi, Tư duy, và Tầm vóc. + Lòng khát khao học hỏi hàm chứa khả năng và tính cầu thị trong học hỏi cái mới của tri thức khoa học, cái tinh hoa của nhân loại. Phẩm chất này thể hiện khả năng và nỗ lực vươn lên của cá nhân. Người Việt Nam ta có thế mạnh tiềm tang về yếu tố này. + Tư duy bao hàm khả năng nhận thức thấu đáo cơ hội, thách thức, và qui luật phát triển; ý thức học hỏi và kiểm nghiệm chân lý từ thực tiễn cuộc sống; và khả năng nhận ra cái hay, cái tốt đẹp của đồng đội và đối tác. Người Việt Nam ta còn nhiều hạn chế về yếu tố này. Dân tộc Việt Nam ta với lịch sử lâu dài bị chà đạp và áp bức để rồi phải vùng lên giành độc lập với sự hy sinh vô bờ bến nên có tính xúc cảm rất cao; do đó ảnh hưởng đến tính sáng suốt của nhận thức, và tính chiến lược trong quyết định, và tính thực tiễn trong hành động. Có khi chúng ta bước ra thế giới thấy được một điều gì hay quá là nước mắt tuôn trào vì xúc động và mê mẩn mang về áp dụng mà không biết đến hậu họa khôn lường của nó. 3 chức năng chủ yếu của giáo dục đại học (GDĐH) 1- Tạo giá trị gia tăng: GDĐH phải tạo nên giá trị gia tăng cho sinh viên trên cả bốn lĩnh vực, tư duy chiến lược, phẩm chất làm việc đặc biệt là tính chuyên nghiệp, kiến thức, và kỹ năng. Tránh tình trạng là chỉ chú trọng vào một mớ kiến thức và kỹ năng hiện đại, trong khi để não trạng bị trây lỳ trong lối tư duy cũ và nhân cách bị sa sút do tình trạng quay cóp, chạy chọt lan tràn. 2- Sáng tạo và phản biện: GDĐH, chủ yếu là đội ngũ giảng viên, thông qua các nghiên cứu của mình, đưa ra ý tưởng và công trình sáng tạo; đồng thời làm chức năng phân tích, định hướng, và phản biện các vấn đề quan trọng của xã hội. GDĐH tiếp nhận thông tin toàn cầu và đơn đặt hàng nghiên cứu từ mọi nguồn, đặc biệt từ Chính phủ và các doanh nghiệp trong nước, để tạo ra sản phẩm và công trình có giá trị sáng tạo mới; đồng thời đưa ra các đề xuất, phân tích, và phản biện các vấn đề quan trọng của xã hội. Việc xuất bản bài viết trên các tạp chí quốc tế là rất quan trọng. Thế nhưng, việc đánh giá các nghiên cứu đóng góp nên chú trọng đặc biệt về tác động (outcome) và ảnh hưởng (impact) hơn là chỉ đơn thuần đếm số lượng (output). 3- Giúp xã hội phát hiện, đoán nhận, và phân bổ nguồn lực lao động có tri thức: GDĐH giúp các xã hội phân loại, đánh giá, và tiếp thị lực lượng lao động có trình độ, trên cơ sở đó tăng hiệu quả xã hội trong phân bổ nguồn nhân lực có tri thức. GDĐH cần hết sức chú trọng công tác tuyển dụng đầu vào, lựa chọn và hướng dẫn sinh viên cho phù + Tầm vóc thể hiện ở khả năng học hỏi và lớn lên từ mỗi thất bại hay thách thức mà chính mình gặp phải. Người ta chỉ có thể lớn lên nếu thấy mình còn quá nhiều khiếm khuyết và trăn trở vì sinh ra trên đời mà chưa đóng góp gì được cho cộng đồng. Người Việt Nam ta còn rất yếu về điểm này. Bị đọa đày nhiều bởi ách ngoại xâm, chúng ta thường thiên về đổ lỗi cho khách quan, hơn là xem lại lỗi của chính mình một cách sâu sắc khi gặp phải một thất bại hay thách thức. Đã từng làm nên nhiều chiến thắng oanh liệt nhờ khát vọng độc lập vô song của cả dân tộc, chúng ta vô hình trung ngộ nhận về mình và có nguy cơ trở thành những người hiếu thắng, sợ thất bại. Vì đã chịu nhiều đau thương trong chiến tranh, cộng với vị trí địa lý lý tưởng, nên chúng ta đang được ưu ái rất nhiều bởi cộng đồng thế giới, từ viện trợ ODA đến đầu tư FDI. Vì vậy chúng ta hiện đang thiên về “nhận” và “trách móc” nhiều hơn là “đóng góp” và “trăn trở” cho sự phát triển của nhân loại. hợp nhất với ngành nghề mà họ có thế mạnh nhất, đánh giá chính xác chất lượng học sinh và giúp tiếp thị họ đến các nhà tuyển dụng. Một công cuộc cải cách GDĐH thành công phải đặt được nền móng vững bền và tiến bộ vượt bậc cho cả ba chức năng chủ yếu nói trên của GDĐH như nêu ở trên. Bởi những lẽ trên, khơi dậy và phát triển yếu tố lãnh đạo cần được coi là định hướng chiến lược, là nội dung trọng tâm, và là khâu đột phá cho toàn bộ nỗ lực cải cách của CCGD, đặc biệt là CCGDĐH ở Việt Nam. Cơ chế nội sinh để nuôi dưỡng và rèn luyện tố chất lãnh đạo Trong một sự khái quát có tính tương đối, mô hình Maslow về nhu cầu của con người cho thấy rằng, nhu cầu của mỗi con người ta phát triển theo năm thứ bậc chính. Thang bậc thấp nhất là Nhu cầu Vật chất để sinh tồn (như ăn, ở); thang bậc thứ hai là Nhu cầu An sinh (an ninh, lo lúc ốm đau, già yếu); thang bậc thứ ba là Nhu cầu Thấu cảm (tình bè bạn, cộng đồng); thang bậc thứ tư là Nhu cầu Huân dự (được sự trân trọng, ghi nhận bởi cộng đồng, Nhà nước, và xã hội), và thang bậc thứ năm, cao nhất, đó là Nhu cầu Lý tưởng, thường chỉ đạt được khi làm được một sứ mệnh cao cả (theo đuổi khát vọng, sáng tạo, chân lý, hay hiến dâng cho cộng đồng). Theo mô hình này, với đại đa số, trong điều kiện thông thường, con người ta sẽ bước lên nhu cầu ở thang bậc cao hơn khi và chỉ khi các nhu cầu ở bậc thấp hơn đã được thỏa mãn. Vì thế thỏa mãn nhu cầu ở mỗi mức tạo động lực đẩy nhu cầu của con người cao lên. Một mặt khác, nếu con người ta được dung dưỡng trong một môi trường phát triển lành mạnh, có khát vọng lớn lao, khích lệ lòng cao thượng và trân trọng phẩm chất hiến dâng, nhu cầu của con người sẽ chuyển từ bậc thấp đến bậc cao hơn hanh thông hơn vì họ có cơ hội được thỏa mãn nhiều hơn ở nhu cầu cao hơn; đặc biệt là các nhu cầu thấu cảm, huân dự, và sứ mệnh cao cả. Vĩ vậy, tạo ra một môi trường phát triển phấn khích trong khát vọng chung tạo nên động lực kéo rất mạnh mẽ để cả xã hội phấn chấn và ngày càng hạnh phúc trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, trong thực trạng nước ta hiện nay, tính quan liêu và vô cảm của bộ máy Nhà nước làm nhu cầu thấu cảm của người dân bị tổn thương. Tình trạng mua bán huân dự phổ biến làm nhu cầu huân dự bị bôi nhọ. Đất nước thiếu tầm nhìn và khát vọng phát triển làm nhu cầu hiến dâng bị tê liệt. Vì vậy, cả xã hội bị luẩn quẩn trong xoay sở thỏa mãn các nhu cầu vật chất và an sinh, với sự biến dạng ngày càng phức tạp. Trong bối cảnh nay, tố chất lãnh đạo trong người Việt Nam đang bị bào mòn và có nguy cơ bị thui chột. Buôn lậu, dối trá, vi phạm luật pháp, thiếu lòng vị tha và phẩm chất hiến dâng đang ngày càng trở lên phổ biến trong xã hội. CCGD, đặc biệt là CCGD ĐH cần hình thành và gia cường cơ chế nội sinh để phát triển và rèn luyện tố chất lãnh đạo theo mô hình 5-R sau đây: 1.Respect: Đó là sự trân trọng mọi người dù họ có trái ý kiến với mình hoặc thua kém mình rất nhiều. Tố chất lãnh đạo giúp mọi người thấu hiểu sâu sắc rằng họ cần phải và có thể học được rất nhiều điều giá trị từ người phản đối mình và từ người thua kém mình. 2.Research: Đó là sự nghiên cứu thấu đáo mỗi vấn đề mà mình bàn luận, đánh giá, hoặc đưa ra quyết định. Rèn luyện phẩm chất này giúp mỗi người sâu sắc trong suy xét, thông tuệ hơn trong khai thác túi khôn tri thức của nhân loại, và quyết định tối ưu hơn về cả tính hiệu quả và tầm chiến lược cho bản thân và tổ chức mà mình lãnh đạo 3. Review: Đó là phẩm chất tự xem lại mình, đặc biệt trước mỗi khó khăn hay thất bại. Phẩm chất này loại bỏ tính đổ cho khách quan, kiêu căng tự mãn, thích nghe phỉnh nịnh. 4. Resiliance: Đây là tính kiên cường và quyết chí theo đuổi mục tiêu, dù phải vượt qua những thách thức và thất bại ghê gớm. 5. Reform: Đây là khả năng tạo nên những đổi thay căn bản trong cục diện phát triển của cá nhân và tổ chức mình lãnh đạo trên cơ sở dũng cảm nhận thức lại căn bản tính đúng đắn của chặng đường đã qua, những thách thức và cơ hội đang và sẽ đến, với tầm nhìn và trách nhiệm sâu sắc với tương lai. Thay lời kết CCGDĐH ở Việt Nam không thể thành công bằng một số nỗ lực đầu tư cơ sở vật chất hay cải tiến giáo trình mà nó chỉ có thể thành công khi cả nước bước vào một cao trào cải cách duy tân mạnh mẽ. Khát vọng vươn lên của cả dân tộc giúp giáo viên và học sinh làm nỗ lực hết sức mình trong điều kiện vật chất còn hạn hẹp; tầm nhìn và sự giải phóng về tư tưởng giúp việc nghiên cứu và giảng dạy đạt mức cao nhất về sáng tạo và hiệu quả chiến lược trong điều kiện kiến thức và trình độ khởi đầu còn thấp; sự sống động và minh bạch của thiết chế xã hội trên nền tảng của dân chủ và tôn trọng tự do cá nhân giúp con người thấy phấn chấn và hạnh phúc được đóng góp cho dù mức đãi ngộ còn khiêm tốn. Trong các nỗ lực CCGD, đặc biệt là CCGDĐH, phát triển, nuôi dưỡng, và rèn luyện tố chất lãnh đạo cần là một nội dung trọng tâm, có vai trong nền tảng cho sự thành công của công cuộc cải cách. Tố chất lãnh đạo cần trở thành một lợi thế ưu tú của người Việt Nam trong tương lai, giúp họ phát huy hết khả năng tiềm tàng của mình không chỉ trong công cuộc xây dựng đất nước mà cả trong nỗ lực đóng góp vào tiến trình phát triển chung của nhân loại. 5 điều kiện cần để GDĐH thành công 1. Cả xã hội phải bước vào một thời kỳ cải cách sống động, với tầm nhìn sáng rõ về tương lai và công cuộc phát triển được thực hiện trên nền tảng của tri thức khoa học và lòng nhân bản. Nếu xã hội còn mơ hồ về tầm nhìn, hạn hẹp về tư duy, và nhầy nhụa trong tham nhũng và tệ nạn thì cải cách giáo dục GDĐH chắc chắn sẽ gặp phải những trở ngại khó vượt qua. 2. Cải cách giáo dục cần được tiến hành đồng bộ và mạnh mẽ ở cấp phổ thông để đảm bảo cho GDĐH nguồn đầu vào phong phú, chất lượng, và được đánh giá chính xác. 3. Các cơ quan tuyển dụng, đặc biệt là khu vực Nhà nước, thực sự phải cạnh tranh trong tìm kiếm, sử dụng hiệu quả, và nuôi dưỡng phát triển nguồn nhân lực có giá trị cao trên cả bốn mặt, phẩm chất, tư duy, kiến thức, và kỹ năng. Nếu bộ máy công quyền, thông qua thực tế tuyển dụng, truyền đi những thông điệp rằng tài năng không thể thay thế cho chạy chọt, phẩm chất là thứ yếu so với quyền lực và vị thế gia đình thì cải cách GDĐH sẽ bị yếu đi rất nhiều vì về lâu dài, sự tinh tế và lành mạnh của nhu cầu luôn là yếu tố quyết định đến chất lượng cung. 4.Nhà nước và các doanh nghiệp có nhu cầu gia tăng thực sự hàm lượng trí tuệ trong các quyết định quan trọng của mình. 5.Môi trường tự do sáng tạo và dân chủ chân chính được kiến tạo, dung dưỡng, và trân trọng, trước hết ở các trường đại học, và từng bước mở rộng ra toàn xã hội. Thông tin cung cấp cho xa hội và các nhà nghiên cứu minh bạch, khách quan, và ngày càng phong phú.