Mở đầu: Việc điều trị phù bạch mạch vẫn còn là vấn đề khó khăn và thách thức. Phẫu thuật chuyển vạt hạch
có cuống mạch nuôi (ghép hạch) là một kỹ thuật đầy hứa hẹn để điều trị phù bạch mạch ở chi.
Mục tiêu: Mục tiêu của báo cáo này là đưa ra một số nhận xét ban đầu về phẫu thuật ghép hạch bạch huyết
trong điều trị phù bạch mạch ở chi.
Đối tượng và phương pháp: Gồm 6 bệnh nhân phù bạch mạch chi trên được phẫu thuật ghép vạt hạch có
cuống mạch nuôi.
Kết quả: Tất cả các vạt đều sống hoàn toàn, chỉ có 1 trường hợp tụ dịch ở nơi cho vạt. Thời gian phẫu thuật
trung bình là 5,8 giờ. Các bệnh nhân đều cảm thấy cải thiện sau phẫu thuật 1 tháng. Tỉ lệ giảm về chu vi của tay
phù sau mổ 1 tháng giảm 2% và 3 tháng giảm 10%.
Kết luận: Phẫu thuật ghép hạch mở ra một lựa chọn mới cho việc điều trị phù bạch mạch với kết quả ban
đầu đáng khích lệ
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 245 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu thuật ghép hạch bạch huyết trong điều trị phù bạch mạch: Một số nhận xét ban đầu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 386
PHẪU THUẬT GHÉP HẠCH BẠCH HUYẾT
TRONG ĐIỀU TRỊ PHÙ BẠCH MẠCH: MỘT SỐ NHẬN XÉT BAN ĐẦU
Nguyễn Văn Phùng*, Cái Hữu Ngọc Thảo Trang*, Trần Minh Hiếu**
TÓM TẮT
Mở đầu: Việc điều trị phù bạch mạch vẫn còn là vấn đề khó khăn và thách thức. Phẫu thuật chuyển vạt hạch
có cuống mạch nuôi (ghép hạch) là một kỹ thuật đầy hứa hẹn để điều trị phù bạch mạch ở chi.
Mục tiêu: Mục tiêu của báo cáo này là đưa ra một số nhận xét ban đầu về phẫu thuật ghép hạch bạch huyết
trong điều trị phù bạch mạch ở chi.
Đối tượng và phương pháp: Gồm 6 bệnh nhân phù bạch mạch chi trên được phẫu thuật ghép vạt hạch có
cuống mạch nuôi.
Kết quả: Tất cả các vạt đều sống hoàn toàn, chỉ có 1 trường hợp tụ dịch ở nơi cho vạt. Thời gian phẫu thuật
trung bình là 5,8 giờ. Các bệnh nhân đều cảm thấy cải thiện sau phẫu thuật 1 tháng. Tỉ lệ giảm về chu vi của tay
phù sau mổ 1 tháng giảm 2% và 3 tháng giảm 10%.
Kết luận: Phẫu thuật ghép hạch mở ra một lựa chọn mới cho việc điều trị phù bạch mạch với kết quả ban
đầu đáng khích lệ.
Từ khoá: Phù bạch mạch, ghép hạch.
ABSTRACT
LYMPH NODE GRAFT FOR LYMPHEDEMA MANAGEMENT: SOME PRELIMINARY REMARKS
Nguyen Van Phung, Cai Huu Ngoc Thao Trang, Tran Minh Hieu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 386 - 391
Background - objectives: The treatment of lymphedema has difficulties and challenges. Vascularized lymph
node transplantation appears to be a potential solution for extremitieslymphoedema.The purpose ofthis report was
to provide some preliminary remarks of lymph node graft for the treatment of upper limb lymphedema.
Methods: Six patients with upper extremity underwent lymph node graft. Evaluation included qualitative
assessment and quantitative volumetric analysis before surgery and at 1 month, 2 months, 3 months after the
procedure.
Results: All flaps survived, one case with seroma on donor site. The mean operative time was 5.8 hours.
Symptoms are improvedby surgery. The reduction rate of the circumference of the lymphedematous arm was 2 %
at 1 month, 5 % at 2 months, 10% at 3 months.
Conclusions: Lymph node transplation will be a potential method for lymphoedema.
Key words: Lymphederma, lymphatico-venous anastomosis, vascularized lymph node transplantation,
lymph node graft.
MỞ ĐẦU
Phù bạch mạch là hiện tượng lâm sàng được
định nghĩa bằng sự gia tăng thể tích của một
vùng trên cơ thể do sự lưu thông kém của hệ
thống bạch huyết. Có rất nhiều nguyên nhân gây
phù bạch mạch nhưng có thể chia thành 2 nhóm
nguyên nhân là: do bẩm sinh (do dị dạng bẩm
sinh của hệ thống bạch mạch)hoặc do mắc phải
do tổn thương hệ thống bạch mạch và/hoặc bạch
huyết (sau phẫu thuật ung thư, xạ trị, nhiễm ký
sinh trùng). Tại các nước phát triển, ung thư
* Bộ môn TH – TM ĐHYD TP. HCM ** Bệnh viện Bình Dân
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Văn Phùng ĐT: 0902727138 Email: ngvaph@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Tạo Hình Thẩm Mỹ 387
và các phương pháp điều trị của nó là những
nguyên nhân phổ biến nhất của phù bạch mạch.
Trong ung thư vú, tỷ lệ phù bạch mạch khoảng
từ 10% đến 40% cách đây khoảng hơn 30 năm,
trong vòng 10 năm trở lại đây nhờ vào những
tiến bộ trong phẫu thuật điều trị ung thư vú mà
tỉ lệ này giảm xuống còn 5% đến 10 %. Tỉ lệ phù
bạch mạch tăng ở các bệnh nhân có nạo vét hạch
kèm xạ trị. Đây là hậu quả đáng sợ của điều trị
ung thư vú và vùng chậu, nó gây khó chịu cho
bệnh nhân vì sự biến dạng tại chỗ của phù bạch
mạch không thể dùng quần áo bình thường để
che dấu được, làm cho bệnh nhân thường xuyên
có cảm giác về bệnh tình của họ, mất tự tin về cơ
thể, giảm thể lực, mệt mỏi và suy giảm tâm lý
từ đó làm giảm chất lượng sống của bệnh nhân.
Có nhiều phương pháp khác nhau để điều
trị phù bạch mạch gồm điều trị nội khoa và phẫu
thuật, tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể,
từng giai đoạn khác nhau để có thể áp dụng một
hoặc nhiều phương pháp phối hợp. Các phương
pháp phẫu thuật điều trị phù bạch mạch có thể
chia thành 2 nhóm: Phẫu thuật giảm nhẹ và
phẫu thuật sinh lý. Phẫu thuật giảm nhẹ là
phương pháp giúp làm giảm thể tích chi bị phù
bằng cách cắt bỏ hoặc hút mỡ, phương pháp này
ngày nay ít sử dụng vì không giải quyết được
tình trạng ứ động bạch huyết và có thể để lại sẹo
xấu (cắt bỏ). Phẫu thuật sinh lý bao gồm các
phẫu thuật nhằm lập lại sự lưu thông của dòng
bạch huyết bằng cách tạo ra các kênh mới để
tăng công suất của hệ thống bạch huyết: phẫu
thuật nối bắc cầu bạch mạch - tĩnh mạch, bắc cầu
bạch mạch vùng phù sang vùng bạch mạch bình
thường, ghép hạch. Việc khôi phục sự lưu thông
của hệ thống bạch huyết bằng phẫu thuật nối
bạch mạch – tiểu tĩnh mạch hoặc bạch mạch –
bạch mạch trong giai đoạn đầu cho thấy hiệu
quả. Tuy nhiên về sau do áp lực trong mô kẽ
tăng cao sẽ là nguyên nhân làm tổn thương
những bạch mạch nhỏ này, với thành rất mỏng,
áp lực trong lòng bạch mạch thấp từ đó các
miệng nối này không còn hiệu quả, tình trạng
phù bạch mạch không cải thiện(3,5).
Phẫu thuật ghép hạch được thực hiện bằng
cách lấy vạt kèm hạch có cuống mạch cấp máu
cho hạch và ghép vào vùng cơ thể bị phù bạch
mạch, các nhóm hạch có thể được lấy để ghép là
ở vùng cổ, vùng nách và vùng bẹn. Đây là phẫu
thuật điều trị phù bạch mạch được áp dụng khá
phổ biến trong thời gian gần đây ở nhiều trung
tâm trên thế giới với kết quả rất khả quan.Tuy
nhiên ở Việt Nam cho đến hiện tại chưa có báo
cáo nào về việc áp dụng phẫu thuật ghép hạch
trong điều trị phù bạch mạch. Mục đích của
nghiên cứu này nhằm đưa ra một số nhận xét
ban đầu về phương pháp phẫu thuật ghép hạch
trong điều trị phù bạch mạch.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Bao gồm 6 trường hợp phù bạch mạch vùng
tay được điều trị bằng phẫu thuật ghép hạch tại
Bệnh viện Bình Dân từ tháng 7/2014 đến tháng
9/2014.
Phương pháp
Phù bạch huyết của bệnh nhân đã được
phân loại theo tiêu chí Campisi như sau: giai
đoạn I, không thường xuyên phù nề; giai đoạn
II, phù liên tục, giai đoạn III, phù dai dẳng tiến
triển với viêm bạch mạch cấp tính; giai đoạn IV,
phù bạch mạch xơ hoá; và giai đoạn V, phù chân
voi. Đo chu vi của chi tại trước và sau mổ ở các
vị trí: Nếp khuỷu, trên nếp khuỷu 10 cm, dưới
nếp khuỷu 10 cm, ngang mức mỏm trâm trụ,
điểm giữa của cổ tay và khớp bàn ngón.
Phương pháp phẫu thuật
Phẫu thuật thực hiện dưới gây gây mê. Bệnh
nhân ở tư thế nằm ngữa.
Lấy vạt hạch: Vạt hạch bạch huyết vùng bẹn
có cuống mạch nuôi được thiết kế ở dưới dây
chằng bẹn và ở phía trong cơ may. Vạt kèm đảo
da hình trám kích thước 4 x 8 cm được thiết kế
với trục dài song song và ở phía dưới dây chằng
bẹn. Rạch da theo hình thiết kế, phẫu tích bóc
vạt từ ngoài vào trong, ngay trên cân cơ may.
Bộc lộ cuống mạch của vạt là bó mạch mũ chậu
nông. Bóc vạt kèm nhóm hạch trên ngoài và
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 388
dưới ngoài của vùng bẹn.Trong quá trình phẫu
tích không nên cố gắng bộc lộ để nhận diện các
hạch bạch huyết.
Chuẩn bị nơi ghép vạt hạch: Vị trí được lựa
chọn để ghép vạt hạch là mặt sau cổ tay hoặc ở
phía dưới – trong của nếp khuỷu. Đối với trường
hợp ghép vạt hạch ở vùng khuỷu, rạch da hình
chữ S từ trên xuống dưới và hướng ra ngoài của
cẳng tay, phẫu tích bộc lộ tĩnh mạch nền và động
mạch trụ hoặc nhánh trước của động mạch quặt
ngược trụ để làm cuống mạch tiếp nhận, chuyển
vạt lên vị trí tiếp nhận và nối động mạch tận –
bên và tĩnh mạch tận - tận. Đối với trường hợp
ghép vạt hạch ở mặt sau cổ tay, rạch da ngang
mặt sau cổ tay hình chữ S lệch về phía quay, chú
ý tránh làm tổn thương nhánh nông của thần
kinh quay, phẫu tích bộc lộ tĩnh mạch đầu và
nhánh động mạch quay trong hỏm lào hoặc bộc
lộ trực tiếp động mạch quay để làm cuống mạch
tiếp nhận, chuyển vạt lên vị trí tiếp nhận và nối
động mạch tận – bên và tĩnh mạch tận -
tận.Khâu cố định vạt sau khi đặt 1 penrose.
Khâu đóng nơi cho vạt sau khi đặt 1 dẫn lưu kín.
Hậu phẫu
Sau khi phẫu thuật, băng nhẹ vết mổ và kê
cao taytrên một cái gối. Dùng 5000 đơn vị
héparin truyền qua bơm tiêm điện trong vòng 24
giờ đầu. Theo dõi tình trạng chung của bệnh
nhân và theo dõi vạt. Sau khi xuất viện bệnh
nhân được khuyến cáo tiếp tục điều trị bằng
băng éptay 5 ngày/ tuần trong 2 tháng đầu và 3
ngày/ tuần trong tháng thứ 3 sau phẫu thuật.
KẾT QUẢ
Đã có 6 trường hợp phù bạch mạch được
điều trị bằng phẫu thuật ghép hạch. Các bệnh
nhân có độ tuổi trung bình (từ 31 đến 62 tuổi).
Trong đó có 5 bệnh nhân nữ là phù bạch huyết
sau điều trị ung thư vú, 1 trường hợp còn lại là
bệnh nhân nam với phù bạch huyết bẩm sinh.
Các bệnh nhân phù bạch mạch mạch sau điều trị
ung thư vú đều có xạ trị, hoá trị và nạo hạch
nách. Tất cả các bệnh nhân đều có áp dụng
phương pháp băng ép, massage dẫn lưu bạch
huyết trên 6 tháng nhưng không cải thiện. Ở các
bệnh nhân ung thư vú, thời gian đã đoạn nhũ từ
3đến 14 năm, thời gian từ khi đoạn nhũ đến khi
bắt đầu phát hiện phù là 2,2 năm (1 - 3 năm),
thời gian phù là 5,6 năm (2 - 11 năm).
Bảng 1: Các thông số của bệnh nhân
BN Tuổi Giới Tay phù Bệnh nguyên Nạo hạch Xạ trị Giai đoạn phù Thời gian phù Điều trị bảo tồn
1 45 Nữ P Ung thư vú + + IV 2 +
2 50 Nữ P Ung thư vú + + IV 3 +
3 55 Nữ P Ung thư vú + + IV 5 +
4 58 Nữ T Ung thư vú + + IV 7 +
5 31 Nam P Bẩm sinh IV 31 +
6 52 Nữ T Ung thư vú + + IV 11 +
Các bệnh nhân phù bạch mạch ở giai đoạn
IV theo tiêu chí Campisi. Tất cả các vạt đều sống
hoàn toàn, có một trường hợp có tụ dich tại nơi
cho vạt và khỏi sau 3 tuần. Ngoài ra không ghi
nhận biến chứng nào khác ở nơi nhận cũng như
nơi cho vạt. Thời gian mổ trung bình 5,8 giờ (5-7
giờ). Thời gian nằm viện sau mổ từ 5 – 7 ngày.
Có 4 bệnh nhân có thời gian theo dõi sau mổ 3
tháng có tỉ lệ giảm về chu vi của tay bệnh so với
tay lành giảm 10 % sau 3 tháng. Có 2 bệnh nhân
có thời gian theo dõi sau mổ 2 tháng có tỉ lệ giảm
về chu vi tay bệnh so với tay lành giảm 5 %. Một
trường hợp còn lại có thời gian theo dõi sau mổ
1 tháng thì tỉ lệ giảm về chu vi của tay bệnh so
với tay lành giảm chưa đáng kể chỉ 2%. Tất cả
các bệnh nhân đều nhận thấy bắt đầu có sự cải
thiện sau mổ khoảng 1 tháng với các biểu hiện
như: Cánh tay nhẹ hơn, vùng phù mềm mại
hơn, ít đau hơn. Tỉ lệ giảm về chu vi tay bệnh so
với tay lành được xác định như sau:
sự khác biệt về chu vi tay
bệnh và lành trước mổ
- sự khác biệt về chu vi tay
bệnh và tay lành sau mổ
sự khác biệt vể chu vi tay bệnh và lành trước mổ
BÀN LUẬN
Việc điều trị phù bạch mạch cho đến nay vẫn
còn là một vấn đề khó khăn và thách thức. Điều
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Tạo Hình Thẩm Mỹ 389
trị lý tưởng cho phù bạch mạch ở chi là phải
kiểm soát được tình trạng viêm nhiễm, giảm
sưng phù chi từ đó khôi phục chức năng, cải
thiện về mặt thẩm mỹ và nâng cao được chất
lượng cuộc sống cho bệnh nhân. Năm 1912,
Charles lần đầu tiên thông báo một trường hợp
phù bạch mạch được điều trị bằng phẫu thuật
giảm nhẹ: cắt da và mô mềm cho đến lớp cân
sâu và ghép da che phủ. Năm 1927, Sistrunk là
người đầu tiên mô tả phương pháp điều trị phù
bạch mạch ở bệnh nhân ung thư vú bằng cách
cắt bỏ da thừa, mô mềm bao gồm cả lớp cân sâu
dọc theo trục dọc của chi. Vài thập niên sau,
Thomson sử dụng phươg pháp chuyển vị bạch
huyết bằng vạt da có cuống (vạt da đã được bóc
lớp thượng bì) đặt vào vùng khuyết tổn sau khi
cắt bỏ da và mô mềm. Tuy vậy chưa có bằng
chứng cho thấy phương pháp tạo ra đường dẫn
lưu bạch huyết thành công. Phương pháp hút
mỡ cũng đã được áp dụng trong điều trị phù
bạch với báo cáo đầu tiên năm 1989 của O’brien,
phương pháp này giúp giảm bớt mô mỡ phì đại
tuy nhiên cũng có thể làm tổn thương hệ thống
bạch mạch. Một số tác giả như Baumeister,
Siuda cũng giới thiệu các báo cáo về phương
pháp nối bắc cầu bạch mạch - bạch mạch từ
vùng bệnh đến vùng lành bằng đoạn ghép bạch
mạch lấy từ chi dưới. Tuy nhiên phương pháp
này sẽ để lại một vết sẹo dài và đôi khi có thể
gây ra tình trạng phù bạch mạch tại nơi cho
mảnh ghép. Để cải thiện một phần nhược điểm
này tác giả Campisi đưa ra ý tưởng dùng đoạn
ghép tĩnh mạch thay cho đoạn ghép bạch
mạch(1,4). Laine và Howard là những người đầu
tiên mô tả phương pháp nối bắc cầu bạch mạch -
tĩnh mạch (lymphovenous) ở chuột vào năm
1963 với kỹ thuật vi phẫu, sau đó Yamada áp
dụng kỹ thuật này trên chó, rồi trên người(2,10).
O’Brien mô tả lần đầu tiên phẫu thuật nối bạch
mạch – tiểu tĩnh mạch vào năm 1977 và từ đó
mở ra tiềm năng của việc ứng dụng vi phẫu
trong điều trị phù bạch mạch. Kết quả lâu dài
của phẫu thuật nối bạch mạch – tiểu tĩnh mạch
là 42 – 83% ở các bệnh nhân chọn lọc.Tuy nhiên
hiệu quả hiệu quả của phẫu thuật này tỉ lệ thuận
với số lượng bạch mạch được xác định và số
lượng miệng nối. Mạch bạch huyết ngoại biên
phù hợp để thự hiện các miệng nối rất khó để
xác định ở trong mô xơ, với tình trạng phù của
chi. Các mạch bạch huyết nhỏ, thành rất mỏng là
thách thức thực sự khi tiến hành các miệng nối.
Hơn nữa không thể theo dõi các miệng nối theo
phương thức truyền thống như đối với các vạt
tự do(5,6). Tác giả Puckett đã đưa ra một báo cáo
đáng lưu ý là 100% các miệng nối thông sau 1
tuần đầu tiên nhưng sau đó 3 tuần thì các miệng
nối đều tắc(6).
Các nghiên cứu lâm sàng và thực nghiệm đã
chứng minh rằng sự lưu thông của mạch bạch
huyết có thể được phục hồi một cách tự nhiên
bởi sự thông nối bạch mạch – bạch mạch hoặc
bạch mạch – tĩnh mạch. Một sự lựa chọn khác
cho điều trị phù bạch mạch được mở ra, đó là
phẫu thuật chuyển hạch kèm tổ chức xung
quanh hạch có cuống mạch nuôi để tái lập lại
lưu thông bạch mạch(1,8). Năm 1990, Chen và
cộng sự đã báo cáo việc tái lập lưu thông bạch
mạch mới khi thực hiện chuyển hạch có cuống
nuôi ở trên chó, với kết quả giảm kích thước chi
đáng kể(3). Thời gian gần đây nhiều tác giả đã
báo cáo về việc áp dụng phương pháp ghép mô
kèm hạch bạch huyết có cuống mạch nuôi lấy từ
vùng khác trên cơ thể để điều trị phù bạch mạch
trên lâm sàng với kết quả rất khả quan, 95 % tình
trạng phù cải thiện và 40 % thể tích chi trở về
bình thường. Về lý thuyết, sau ghi ghép hach
bạch huyết, tình trạng phù bạch mạch cải thiện
do 2 quá trình là bơm bên trong và cơ chế hút, và
sự tăng sinhbạch huyết mới sẽ tạo đường dẫn
bạch mạch mới từ hạch bạch huyết đến mô xung
quanh. Hạch bạch huyết là miệng nối bạch mạch
tĩnh mạch sinh lý. Hạch bạch huyết cấy ghép sẽ
hoạt động với cơ chế bơm bên trong và hút: cơ
chế bơm thúc đẩy bởi áp lực mạnh đẩy vào vạt
từ động mạch nơi cho và tiếp tục được hút bằng
tĩnh mạch nơi cho thông qua miệng nối bạch
mạch – tĩnh mạch sinh lý bên trong vạt. Khi áp
lực mô kẽ dưới da giảm, dịch bạch huyết ở mô
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 390
xung quanh sẽ dồn về qua “hiệu ứng lưu vực”.
Ngoài ra, các hạch bạch huyết cấy ghép sẽ tạo ra
yếu tố tăng trưởng nội mạch c (vascular
endothelial growth factor c: VEGF-c) thúc đẩy sự
tăng sinh của mạch bạch huyết(9).
Becker C qua theo dõi ghép vạt hạch sau 5
năm, nhận thấy 98% trường hợp cho kết quả tốt
trên lâm sàng cũng như trên chụp bạch mạch,
2% tình trạng phù không thay đổi và cũng
không nặng hơn. Chụp xạ hình bạch huyết sau 1
năm cho thấy các hạch bạch huyết cấy ghép hoạt
động và những mạch bạch huyết mới. Assouad J
và CS tái tạo vú vạt DIEP kết hợp ghép hạch bẹn
cho kết quả rất khả quan.
Đối với trường hợp phù bạch mạch bẩm
sinh, thông thường có sự thiểu sản của hệ thống
mạch bạch huyết vì vậy phẫu thuật nối bạch
mạch – tiểu tĩnh mạch không phù hợp. Với
những trường hợp này, theo Becker nên cần tiến
hành ghép hạch sớm để tránh quá trình viêm
nhiễm lặp đi lặp lại và tình trạng xơ hoá của tổ
chức dưới da.
Vạt da bẹn bao gồm các hạch bẹn nông là nơi
thường được lựa chọn vì đó là vùng giải phẫu
quen thuộc và có thể giấu sẹo. Các hạch vùng
bẹn bao gồm các hạch bẹn nông và sâu. Đối với
hạch bẹn nông thì chia thành 4 nhóm với mốc là
trục có gốc là vị trí đổ vào của tĩnh mạch mũ
chậu nông: trên ngoài, dưới ngoài, trên trong và
dưới trong. Nhóm trên ngoài có từ 2 – 4 hạch,
nằm dọc theo tĩnh mạch mũ chậu nông, dẫn lưu
bạch huyết chủ yếu từ thành bụng. Dẫn lưu bạch
huyết của chi dưới không bị ảnh hương khi lấy
đi nhóm hạch trên ngoài này. Vì vậy đây cũng là
một trong nhưng lý do để lựa chọn vạt da bẹn
kèm nhóm hạch này để điều trị phù bạch mạch ở
các vị trí khác.
Vị trí để tiếp nhận vạt da kèm hạch có cuống
mạch nuôi đối với chi trên có thể ở nách, khuỷu
và vùng cổ tay. Trong đó vị trí ở cổ tay theo một
số tác giả đem lại kết quả tốt hơn về mặt chức
năng, 2 vị trí còn lại thì cho kết quả tốt về mặt
thẩm mỹ. Trong nghiên cứu của chúng tôi có 5
trường hợp ghép hạch ở cổ tay, 1 trường hợp
còn lại có kèm theo tình trạng tổn thương đám
rối thần kinh cánh tay trái do xạ trị nên chúng tôi
ghép hạch ở vùng dưới nếp khuỷu để vùng cổ
tay phục vụ cho việc chuyển gân để điều trị tình
trạng liệt bàn tay trái.
Lin CH và cộng sự có 13 bệnh nhân và đều
ghép hạch ở cổ tay, trong có một trường hợp tắc
tĩnh mạch phải phẫu thuật lại nhưng vạt đều
sống 100%, có 2 trường hợp nhiễm trùng vết mổ,
ngoài ra không còn ghi nhận biến chứng nào
khác, thời gian theo dõi trung bình 56,31 tháng
với tỉ lệ giảm trung bình chu vi tay bệnh là
50,55%(5). Tất cả 6 trường hợp của chúng tôi vạt
đều sống hoàn toàn, chỉ có 1 trường hợp tụ dịch
tại nơi cho vạt sau mổ, ngoài ra không ghi nhận
biến chứng nào khác. Tất cả các bệnh nhân đều
nhận thấy có sự thay đổi tích cực như: Cánh tay
nhẹ hơn, vùng phù mềm mại hơn, ít đau hơn.
Kết quả ban đầu ghi nhận tình trạng phù cải
thiện, tỉ lệ giảm trung bình chu vi tay bệnh so
với tay lành đạt được 10% sau 3 tháng, các bệnh
nhân đều hài lòng với phẫu thuật. Tỉ lệ giảm chu
vi tay bệnh so với tay lành của chúng tôi còn
chưa cao vì thời gian theo dõi sau mổ của chúng
tôi còn ngắn trong khi kết quả ghép hạch thường
ghi nhận rõ nét sau mổ khoãng 6 tháng. Mặc dù
đã đạt được một số kết quả bước đầu, nhưng số
lượng nghiên cứu của chúng tôi còn có hạn và
thời gian theo dõi còn ngắn. Vì vậy cần tiến hành
tiếp tục nghiên cứu với số lượng bệnh nhân lớn
hơn và thời gian theo dõi dài hơn để từ đó có thể
đánh giá một cách khách quan hiệu quả của
phẫu thuật này trong điều trị phù bạch mạch.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật ghép hạch mở ra một lựa chọn
mới cho việc điều trị phù bạch mạch với kết quả
ban đầu đáng khích lệ. Tuy nhiên cần được đánh
giá với số lượng bệnh nhân nhiều hơn và theo
dõi lâu dài hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Baumeister RGH (1997). “An investigation of lymphatic
functionfollowing free-tissue transfer (Discussion)”. Plast
Reconstr Surg, 99: 742–743.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Tạo Hình Thẩm Mỹ 391
2. Chang DW (2010). “Lymphaticovenular bypass surgery for
lymphedema management in breast cancer patients: a
prospective study”. Plast Reconstr Surg, 126 (3): 752-758.
3. Chen HC, O’Brien BM, Rogers IW, Pribaz JJ, Eaton CJ (1990).
“Lymphnode transfer for the treatment of obstructive
lymphoedema inthe canine model”. Br J Plast Surg, 43: 578–
586.
4. Cheng MH, Henry SL, Tan BK, Lin MC, Huang JJ (2013).
“Vascularized groin lymph node flap transfer for
postmastectomy upper limb lymphedema: flap anatomy,
recipient sites, and outcomes”. Plast Reconstr Surg, 131 (6):
1286-98.
5. Lin CH, Ali R, Chen SC, Wallace C, Chang YC, Chen HC (2009).
”Vascularized groin lymph node transfer using the wrist as a
recipient s