Đặt vấn đề và mục tiêu: Ghép thận là một trong những phương pháp điều trị thay thế hiệu quả nhất. Đối
với người cho thận sống kỹ thuật mổ lấy thận để ghép có thể thực hiện bằng phẫu thuật mở hay phẫu thuật nội
soi. Hiện nay trên thế giới tại các nước phát triển phẫu thuật nội soi chiếm ưu thế hơn và có xu hướng thay thế
cho mổ mở kinh điển vì có nhiều ưu điểm, ít biến chứng và sự hồi phục nhanh sau mổ đối với người cho thận.
Tại bệnh viện Chợ Rẫy (BVCR) ghép thận được thực hiện từ năm 1992, kỹ thuật mổ trong giai đoạn đầu là mổ
mở, sau đó chuyển sang phẫu thuật nội soi sau phúc mạc hoàn toàn. Báo cáo này nhằm mục đích khảo sát đánh
giá so sánh kết quả 2 kỹ thuật mổ của chúng tôi.
Đối tượng ‐ phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả cắt ngang. Người được chọn mổ cho thận là những
người có quan hệ gia đình với người nhận hoặc động cơ cho thận là nhân đạo. Tiêu chuẩn y học phải phù hợp với
tiêu chuẩn cho ‐ nhận thận của Bộ Y tế quy định (thông qua Hội Đồng Ghép thận BVCR). Thời gian thực hiện
từ tháng 12/1992 đến 12/2011.Tiêu chuẩn chọn bên để lấy thận là: 2 thận bình thường, chọn bên có chức năng
(GFR: ước lượng qua độ thanh thải đồng vị phóng xạ) bằng hoặc kém hơn so với thận để lại hoặc chọn thận có sỏi
nhỏ hay nang lành tính .Vị trí thận lấy và mạch máu thận đơn giản không phải là tiêu chuẩn ưu tiên. Kỹ thuật
mổ thực hiện được chia thành 2 nhóm: mổ mở (MM) và nội soi sau phúc mạc (NSSPM). Khảo sát so sánh đối
chiếu các biến số như: Thời gian mổ, thời gian thiếu máu nóng, biến chứng trong và sau mổ, thời gian dùng
thuốc giảm đau, thời gian nằm viện, thời gian hồi phục chức năng thận ghép, biến chứng sau ghép, di chứng xa
sau mổ. Đối với nội soi sau phúc mạc thực hiện với 3 trocar, lấy thận trực tiếp qua chỗ mở thành hông lưng giữa
2 chân trocar (được tính toán trước cách 8cm). Rửa và bảo quản thận bằng dung dịch Euro‐Collins lạnh 40C.
Sau đó, cho vào túi vô trùng bảo quản ở 40C chờ ghép.
8 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 354 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc và mổ mở cắt thận để ghép từ người cho sống tại Bệnh viện Chợ Rẫy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 51
PHẪU THUẬT NỘI SOI SAU PHÚC MẠC VÀ MỔ MỞ CẮT THẬN
ĐỂ GHÉP TỪ NGƯỜI CHO SỐNG TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Châu Quý Thuận*, Trần Ngọc Sinh*, Chu Văn Nhuận*, Thái Minh Sâm*, Dư Thị Ngọc Thu*,
Trần Trọng Trí*, Hoàng Khắc Chuẩn*, Nguyễn Thị Thái Hà*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề và mục tiêu: Ghép thận là một trong những phương pháp điều trị thay thế hiệu quả nhất. Đối
với người cho thận sống kỹ thuật mổ lấy thận để ghép có thể thực hiện bằng phẫu thuật mở hay phẫu thuật nội
soi. Hiện nay trên thế giới tại các nước phát triển phẫu thuật nội soi chiếm ưu thế hơn và có xu hướng thay thế
cho mổ mở kinh điển vì có nhiều ưu điểm, ít biến chứng và sự hồi phục nhanh sau mổ đối với người cho thận.
Tại bệnh viện Chợ Rẫy (BVCR) ghép thận được thực hiện từ năm 1992, kỹ thuật mổ trong giai đoạn đầu là mổ
mở, sau đó chuyển sang phẫu thuật nội soi sau phúc mạc hoàn toàn. Báo cáo này nhằm mục đích khảo sát đánh
giá so sánh kết quả 2 kỹ thuật mổ của chúng tôi.
Đối tượng ‐ phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả cắt ngang. Người được chọn mổ cho thận là những
người có quan hệ gia đình với người nhận hoặc động cơ cho thận là nhân đạo. Tiêu chuẩn y học phải phù hợp với
tiêu chuẩn cho ‐ nhận thận của Bộ Y tế quy định (thông qua Hội Đồng Ghép thận BVCR). Thời gian thực hiện
từ tháng 12/1992 đến 12/2011.Tiêu chuẩn chọn bên để lấy thận là: 2 thận bình thường, chọn bên có chức năng
(GFR: ước lượng qua độ thanh thải đồng vị phóng xạ) bằng hoặc kém hơn so với thận để lại hoặc chọn thận có sỏi
nhỏ hay nang lành tính.Vị trí thận lấy và mạch máu thận đơn giản không phải là tiêu chuẩn ưu tiên. Kỹ thuật
mổ thực hiện được chia thành 2 nhóm: mổ mở (MM) và nội soi sau phúc mạc (NSSPM). Khảo sát so sánh đối
chiếu các biến số như: Thời gian mổ, thời gian thiếu máu nóng, biến chứng trong và sau mổ, thời gian dùng
thuốc giảm đau, thời gian nằm viện, thời gian hồi phục chức năng thận ghép, biến chứng sau ghép, di chứng xa
sau mổ. Đối với nội soi sau phúc mạc thực hiện với 3 trocar, lấy thận trực tiếp qua chỗ mở thành hông lưng giữa
2 chân trocar (được tính toán trước cách 8cm). Rửa và bảo quản thận bằng dung dịch Euro‐Collins lạnh 40C.
Sau đó, cho vào túi vô trùng bảo quản ở 40C chờ ghép.
Kết quả: Có 219 trường hợp (TH) người cho được mổ lấy thận để ghép cho 218 người nhận (1 TH ghép 2
lần), gồm 99/219TH (45,20%) nam và 120/219TH (54,80%) nữ. Tuổi 43,4±8,89 tuổi (26‐63). BMI 22,23±3,0
kg/m2 (17,14 ‐ 35,41). Cùng huyết thống 214TH (97,7%). Máu mất không đáng kể trong cả 2 nhóm, không TH
nào phải chuyển mổ mở hay mổ lại. Chức năng thận còn lại của người cho sau mổ: Creatinin‐huyết thanh
1,10±0,22mg%. Chức năng thận ghép hoạt động tốt sau ghép. Creatinin‐huyết thanh của người nhận thận lúc
ra viện: 1,18±0,21mg%. So sánh đối chiếu các biến số giữa 2 nhóm nội soi và mổ mở kết quả ghi nhận sau: Thời
gian mổ: 165,35±50,34 phút (MM) so với 168,54±42,40 phút (NSSPM), p>0,05. Thời gian thiếu máu nóng:
108,02±75,34 giây so với 273,90±84,81 giây, p<0,05. Thời gian dùng thuốc giảm đau: 5,42±1,12 ngày so với
3,30±0,58 ngày, p<0,05. Thời gian nằm viện: 6,7±2,15 ngày so với 4,81±1,17 ngày, p<0,05. Thời gian hồi phục
chức năng thận ghép: 6,30±4,35 ngày so với 5,25±6,40 ngày. Thải ghép cấp 28 TH (31,80%) so với 20 TH
(15,30%), p<0,05. Có 1TH thải ghép tối cấp trong nhóm MM phải mổ cắt bỏ thận ghép. Trì hoãn chức năng
thận ghép (DFG): 3 TH (MM) so với 1 TH(NSSPM). Biến chứng sau mổ: 4/131 TH/NSSPM (3,1%) bao gồm:
Chảy máu chân ống dẫn lưu, khối máu tụ quanh thận ghép, dò niệu quản sau ghép, so với 2/88 TH/MM (2,3%)
bao gồm: Chảy máu, rò nước tiểu từ bàng quang, rò nước tiểu từ vị trí cắt nang thận. Di chứng xa đối với người
* Khoa Tiết Niệu Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: ThS.BS.Châu Quý Thuận. ĐT: 0903626964 Email: chauquy1963@yahoo.com.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 52
cho: 1 TH mổ lại vì tắc ruột/ nhóm MM.
Kết luận: Người cho thận an toàn trong cả 2 nhóm. Chức năng thận sau ghép hồi phục tương đương. Thời
gian mổ không có sự khác biệt. Thời gian thiếu máu nóng/ MM ngắn hơn, nhưng đau sau mổ nhiều hơn và thời
gian nằm viện dài hơn NSSPM. Di chứng xa sau mổ không gặp/ NSSPM. Kỹ thuật mổ NSSPM có nhiều ưu
điểm hơn MM trong lấy thận từ người cho sống và khả thi với ê kíp Việt Nam. Kỹ thuật này hiện nay đã trở
thành thường qui và thay thế hoàn toàn kỷ thuật mổ mở tại BVCR.
Từ khóa: cắt thận để ghép từ người cho sống. Mổ mở cắt thận để ghép. Nội soi ổ bụng cắt thận để ghép.
Phẫu thuật nội soi sau phúc mạc cắt thận để ghép
ABSTRACT
OPEN AND RETROPERITONEAL LAPAROSCOPIC LIVING DONOR NEPHRECTOMY IN CHO RAY
HOSPITAL
Chau Quy Thuan, Tran Ngoc Sinh, Chu Van Nhuan, Thai Minh Sam, Du Thi Ngoc Thu,
Tran Trong Tri, Hoang Khac Chuan, Nguyen Thi Thai Ha
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 51 ‐ 58
Introduction and objective: Renal transplant is one of the most effective alternative treatments. Living
donor nephrectomy (LDN) can be done by open surgery or laparoscopic. Presently in developed countries,
laparoscopic living donor nephrectomy (LLDN) gains more advantage and tend to replace the traditional open
surgery (open living donor nephrectomy= OLDN) due to less complication and quick recovery post‐op for donors.
Renal transplant at Cho Ray hospital started in 1992 with OLDN then completely switch to retroperitoneal
laparoscopic living donor nephrectomy (RPLDN). The aims of this report are to investigate the evaluation and
compare results of the two techniques.
Methods: Retrospective cross‐sectional study from 12/1992 to 12/2011. All of them were related living
donors or those demonstrate the humanitarian motive. The donors were chosen by the Renal Transplantation
Council of Cho Ray Hospital (donor national criteria). To choose the side of kidney to remove, we preserve the
best function kidney (by renal isotopic scan) or the healthy kidney with the donor. The position and anomaly of
vessels (2 or 3 renal arteries) were not the criteria of side choosing. The operating techniques divided in 2 groups:
open living donor nephrectomy (OLDN) and RPLDN. Survey to compare the logistics such as operating time,
warm ischemic time, intra and post operative complication, analgesic usage time, hospital stay, graft function
recovery time, immediate complication and subsequence complication post‐op. The RPLDN were started with 3
trocars, the kidney were removed through an incision of 8cm between 2 posterior trocars. The washing and
preservation of the grafts were done with Euro‐Collins or Custadiol solution at 4 Celsius degree then put in a
sterile pouch await transplant.
Results: 219 donors for 218 recipients (1 case received transplant twice). 99/219 (45.2%) males and
120/219 (54.8%) females. Average age is 43.4 yo ± 8.89 (26‐63). BMI 22.23±3.0 kg/m2 (17.14 – 35.41). Related
donors 214/219 (97.7%). Blood loss is negligible in both groups, no open surgery conversion or reoperation.
Donors renal function post‐op: serum creatinine 1.10±0.22 mg%. The graft function is good post‐op. The serum
creatinine of recipients at discharged 1.18 ± 0.21mg%. Comparing the logistics between two groups OLDN and
RPLDN results respectively were: Operating time: 165.35±50.34 (OLDN) versus 168.54±42.40 min (RPLDN),
p>0.05. Warm ischemic time: 108.02±75.34 second versus 273.90±84.81 second, p<0.05. Analgesic usage time:
5.42±1.12 day versus 3.30±0.58, p<0.05. Hospital stay: 6.7±2.15 day compare with 4.81±1.17 day, p<0.05. Graft
function recovery time: 6.30±4.35 day versus 5.25±6.40 day, p>0.05. Acute rejection: 28 case (31.80%) versus 20
case (15.30%), p<0.05. 1 case of immediate acute rejection in OLDN group that result in surgically removing of
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 53
the graft. Delay Function Graft (DFG): 3 case (OLDN) compare with 1 case (RPLDN). Complication post‐op:
4/219 (3.1%) RPLDN case bleeding at drain site, blood clots peri‐graft, ureteral leakage compare with 2/88
(2.3%) OLDN case bleeding, urine leakage from bladder, and urine leakage from renal cyst excision. Subsequence
complication to donor: 1 case ileus in OLDN group.
Conclusions: Donors are safe in both groups. Renal grafts function recovery were similar. Operating time
was not difference. Warm ischemic time is shorter in OLDN group but analgesic usage time was longer and
hospital stay was longer. Subsequence complication was not observed in RPLDN. RPLDN has more advantages
than OLDN. Therefore, it has become common and completely replaced OLDN at Cho Ray hospital.
Key words: Living Donor Nephrectomy (LDN). Open Living Donor Nephrectomy (OLDN). Laparoscopic
Living Donor Nephrectomy (LLDN). Retroperitoneal Living Donor Nephrectomy (RPLDN)
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ghép thận là một trong những phương pháp
điều trị thay thế mang lại hiệu quả và chất lượng
cuộc sống cao nhất cho người bệnh suy thận
mạn giai đoạn cuối. Đối với người cho thận
sống, phẫu thuật lấy một thận để ghép có thể
thực hiện bằng phẫu thuật mở (MM) hoặc phẫu
thuật nội soi(8). Theo lịch sử các phẫu thuật viên
ghép tạng đã thực hiện MM lấy thận trong một
thời gian dài cho đến khi phẫu thuật nội soi ra
đời vào đầu thập niên 90. Phẫu thuật nội soi ổ
bụng cắt thận từ trường hợp (TH) đầu tiên được
thực hiện bởi Clayman năm 1991(1), đã nhanh
chóng phổ biến, và trở thành một kỹ thuật được
chọn lựa trong phẫu thuật Tiết niệu. Cắt thận
qua nội soi ổ bụng từ người cho sống (LLDN)
hiện nay đang chiếm lĩnh vị trí số một, vì tính ít
xâm hại so với mổ mở và kết quả thận lấy ra tốt
như mổ mở (12,16). Vai trò thay thế phẫu thuật mở
của LLDN được khẳng định qua trường hợp thứ
1000 của Hoa kỳ tại Hội nghị Ghép Tạng Thế
giới 2006 tại Boston(2). Hiệu quả đó làm cho số
người cho thận tăng lên từ 50% đến 100% tại các
trung tâm Âu‐Mỹ.
Tại các nước Châu Á từ sau phát minh của
Gaur(4) tạo khoang sau phúc mạc, một số tác giả
còn phát triển kỹ thuật cắt thận nội soi sau phúc
mạc (RPLDN)(5), kỹ thuật này bước đầu cho thấy
có thể mang lại nhiều dễ chịu hơn đối với người
cho thận.
Ở Việt Nam, ghép thận từ người cho sống
được thực hiện từ năm 1992, kỹ thuật mổ lấy
thận trong giai đoạn đầu là MM. Đến năm 2004
BVCR tiếp thu kỹ thuật LLDN bởi các đồng
nghiệp đến từ Pháp(16). Sau đó, êkip Chợ Rẫy
nhanh chóng chuyển sang kỹ thuật RPLDN từ
8/2005 cho đến nay(17). Mục đích của báo cáo này
nhằm đánh giá so sánh đối chiếu kết quả của 2
kỹ thuật MM và NSSPM lấy thận để ghép từ
người cho sống đã tiến hành tại BVCR trong thời
gian qua.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Là những người tự nguyện hiến 1 quả thận
cho người bệnh suy thận mạn giai đoạn cuối,
được chọn theo tiêu chuẩn quốc gia và thông
qua Hội Đồng Ghép thận BVCR.
Phương pháp nghiên cứu
Hồi cứu mô tả cắt ngang. Người cho thận có
quan hệ huyết thống với người nhận hoặc
chứng minh động cơ cho thận là nhận đạo.
Chọn người cho theo tiêu chuẩn cho ‐ nhận của
Bộ Y tế quy định và thông qua Hội Đồng Ghép
thận BVCR.
Thời gian thực hiện từ tháng 12/1992 đến
tháng 12/2011. Tiêu chuẩn chọn bên thận lấy
dựa vào chức năng là chính: 2 thận có chức năng
bình thường, bên thận được chọn là:
Thận trái: nếu 2 thận có độ lọc cầu thận ước
tính qua đồng vị phóng xạ bằng nhau.
Thận có độ lọc cầu thận kém hơn.
Thận có độ lọc cầu thận bằng nhau nhưng có
sỏi nhỏ hay nang thận lành tính
Kỹ thuật mổ được áp dụng
Chia làm 2 nhóm phẫu thuật.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 54
Nhóm mổ mở qua ổ bụng và sau phúc mạc
thực hiện từ 1992 đến 2004.
Nhóm mổ nội soi: Áp dụng kỹ thuật NSSPM
thực hiện từ 2005 đến 2011 (nội soi với 3 trocar,
lấy thận trực tiếp qua chổ mở thành hông lưng
giữa 2 chân trocar cách nhau 8 cm được tính
toán trước dựa vào đường kính ngang của thận).
Rửa và bảo quản thận
Bằng dung dịch Euro‐ Collins hay Custadiol
lạnh 4 độ C. Sau đó cho vào túi vô trùng bảo
quản ở 4 độ C chờ ghép.
Dụng cụ và trang thiết bị
Nhóm mổ mở
Mâm dụng cụ mổ bụng và mổ thận (cũng
cần thiết chuẩn bị sẵn sàng trong mổ nội soi
sau phúc mạc nếu nội soi thất bại phải chuyển
mổ mở).
Nhóm mổ nội soi sau phúc mạc
Hệ thống dụng cụ phẫu thuật nội soi tiêu
chuẩn.
+ Dàn máy nội soi ổ bụng Karl‐ Storz
Endoscope®.
+ Dụng cụ nội soi ổ bụng tiêu chuẩn.
+ Máy cắt đốt đơn cực, lưỡng cực.
+ Máy cắt đốt siêu âm Harmonic Scapel
(Ethicon)®.
+ Clip Titanium 300, 400.
+ Hem‐O‐lok 400 (weck).
+ Máy khâu cắt tĩnh mạch tự động (ATW 35
ETS‐FLEX‐ Ethicon).
+ Gạc bấc dài 30cmx 1cm có cột sợi chỉ ở đầu
(mèche).
+ Bình nước nóng 100 độ C để ngâm
Telescope.
Nội dung nghiên cứu
Khảo sát so sánh đối chiếu các biến số giữa
2 nhóm phẫu thuật về thời gian mổ, thời gian
thiếu máu nóng, thời gian dùng thuốc giảm
đau, thời gian nằm viện, biến chứng trong lúc
mổ và sau mổ của người cho và người nhận,
thời gian hồi phục chức năng thận ghép, di
chứng đối với người cho Kiểm định bằng
phép kiểm chi bình phương.
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
Có tổng cộng 219 TH người cho thận và 218
TH người nhận thận (1 TH ghép 2 lần với người
cho cùng huyết thống) ñược thực hiện từ tháng
12/1992 đến tháng 12/2011 bao gồm: 88 TH mổ
mở chiếm 40,2% và 131 TH mổ nội soi sau phúc
mạc chiếm tỷ lệ 59,8%. Kết quả ghi nhận các đặc
điểm sau đây đối với người cho thận:
Giới tính: nam 99/219 TH (45,20%), nữ
120/219 TH (54,80%).
Tuổi trung bình là 44,27 ± 9,25 tuổi (26‐63).
Quan hệ cùng huyết thống 214 TH chiếm
97,7%. Nhóm mổ mở 100% cùng huyết thống.
Các TH không cùng huyết thống bao gồm: Cha
nuôi cho con trai, tu sĩ cho phật tử, chồng cho vợ
và 2 TH vợ cho chồng.
BMI trung bình= 22,23 ± 3,0 kg/m2 (17,14‐ 35,41).
GFR trung bình= 50,41 ± 6,23 (37,9‐63,08).
Mất máu không đáng kể, không có TH nào
cần truyền máu trong cả 2 nhóm.
Không có TH nào phải mổ lại hay chuyển
mổ mở.
Người cho thận an toàn trong lúc mổ và diễn
tiến hậu phẫu thuận lợi.
Khảo sát đối chiếu các biến số giữa 2 nhóm
phẫu thuật
Vị trí thận chọn lấy để ghép: Mổ mở lấy thận
phải chiếm 12/88 TH. Nội soi sau phúc mạc có
đến 45/131 TH (bảng 1).
Bảng 1. Vị trí thận được chọn để lấy
Đặc điểm mổ Mổ mở Nội soi p
Thận phải 13,6% 34,4% p < 0,05
Thận trái 86,4% 65,6% p < 0,05
Thời gian mổ: Khác biệt không có ý nghĩa
thống kê.
Bảng 2. Thời gian mổ
Mổ mở Nội soi p
165,35 ± 50,34 phút
(120- 210 phút)
168,54 ± 42,40 phút
(90-245 phút) p > 0,05
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 55
Thời gian thiếu máu nóng: Giữa 2 nhóm
khác biệt có ý nghĩa.
Bảng 3. Thời gian thiếu máu nóng
Mổ mở Nội soi p
108,02 ± 75,34 giây
(44-394 giây)
273,90 ± 84,81 giây
(150-540 giây) p < 0,05
Thời gian dùng thuốc giảm đau: Khác biệt có
ý nghĩa giữa 2 nhóm.
Bảng 4: Thời gian dùng thuốc giảm đau
Mổ mở Nội soi p
5,42 ± 1,12 ngày
(4-7 ngày)
3,30 ± 0,58 ngày
(2-4 ngày) p < 0,05
Thời gian nằm viện: Tính từ ngày mổ đến
ngày ra viện, khác biệt có ý nghĩa thống kê,
được mô tả trong bảng 5.
Bảng 5. Thời gian nằm viện
Mổ mở Nội soi p
6,7 ± 2,15 ngày
(6-10 ngày)
4,81 ± 1,17 ngày
(3-7 ngày) p < 0,05
Diễn tiến hồi phục chức năng thận sau ghép
Bảng 6. Diễn tiến chức năng thận sau ghép
Đặc điểm mổ Mổ mở Nội soi p
Có nước tiểu tại
bàn 82/88 (93,2%)
115/131
(87,8%) p <0,05
Thải ghép tối cấp 1/88 0/131 p >0,05
Thải ghép cấp 28/88 (31,8%) 20/131 (15,3%) p <0,05
Trì hoãn chức năng
thận sau ghép
(DFG)
3/88 (3,4%) 1/131 (0,8%) p <0,05
Thời gian chức
năng thận về bình
thường
6,30 ± 4,35
ngày
(2-60 ngày)
5,25 ± 6,40
ngày
(1-54 ngày)
p >0,05
Biến chứng và di chứng
Bảng 7. Biến chứng và di chứng sau mổ
Đặc điểm mổ Mổ mở Nội soi
Mổ cắt bỏ thận ghép* 1 0
Mổ lại vì tắc ruột** 1 0
Rò nước tiểu do hoại tử niệu quản*** 0 2
Rò nước tiểu từ nang thận**** 1 0
Chảy máu và rò nước tiểu***** 1 0
Tổng cộng 4 2
* Thải ghép tối cấp ngày thứ 10 sau ghép phải mổ lại cắt bỏ
thận ghép (Bệnh nhân: Đặng Thị Ph. Cha ruột cho thận).
**Mổ tắc ruột do dính 1 năm sau cho thận (Người cho:Võ
Văn Tr.).
***Rò nước tiểu sau mổ ngày thứ 13 và 17 nghĩ do đốt
điện đơn cực lúc lấy thận NSSPM.
****Cắt chóp nang thận ngoài cơ thể sau rửa thận.
*****Mổ lại 3 lần vì chảy máu và rò nước tiểu từ vị trí mổ
bàng quang (bệnh nhân:Nguyễn Thị T.).
BÀN LUẬN
Về kỹ thuật mổ lấy thận
Phương pháp mổ lấy thận để ghép trên
người cho sống bằng phẫu thuật mở truyền
thống gây tổn thương nặng thành ngực‐bụng:
vết mổ dài, đau đớn nhiều sau mổ, có thể tổn
thương màng phổi, bán tắc ruột, thoát vị thành
bụng, tê vùng thắt lưng‐bẹn, đau kinh niên vết
mổ và thời gian hồi phục sức khỏe chậm hơn đối
với người cho thận(8,10).
Từ sau TH cắt thận nội soi qua ổ bụng
(NSOB) thành công của Clayman vào năm 1991
(1) tính khả thi của kỹ thuật LLDN được nghĩ đến
và chứng minh trên thực nghiệm cắt thận heo
qua NSOB do nhóm Gill IS và Clayman RV thực
hiện năm 1994(7).Trường hợp LLDN đầu tiên
trên thế giới được thực hiện bởi Ratner LE(11)
năm 1995. Theo y văn cho thấy thận lấy bằng
LLDN vẫn đảm bảo chức năng khi ghép(1). Từ
đó LLDN được phổ biến tại các trung tâm ghép
trên thế giới đã đem lại những kết quả khác biệt
có ý nghĩa: ít đau, thời gian hồi phục nhanh, thời
gian nằm viện ngắn và có tính thẩm mỹ cao.
Làm cho số người cho thận tăng lên nhanh
chóng(1,9,17).
Phương pháp RLLDN ra đời sau thành
công của nội soi sau phúc mạc (NSSPM) cắt
thận bệnh lý của Gaur(5). Phương pháp được
giới phẫu thuật Châu Á nhanh chóng tiếp
nhận. Sau đó, là làn sóng phẫu thuật NSSPM
trên nhiều dạng bệnh lý Tiết niệu, chia sẻ bệnh
với phương pháp NSOB được chấp nhận khắp
thế giới(2,5,9), RLLDN được báo cáo đầu tiên bởi
loạt 19 người cho thận của nhóm Sulser T tại
Thụy Sĩ năm 2004(15). Những báo cáo so sánh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 56
giữa mổ mở và RPLDN cho thấy chức năng
thận ghép tương đương với mổ mở, nhưng
hơn hẳn về mặt biến chứng và di chứng(8,16).
Kết quả đạt được trong nghiên cứu này hoàn
toàn phù hợp với nhận định báo cáo trên y văn,
NSSPM ít xâm hại, an toàn và hiệu quả hơn mổ
mở kinh điển(16,17).
Về thời gian mổ
So sánh đối chiếu giữa 2 nhóm trong khảo
sát này khác biệt không có ý nghĩa thống kê:
168,54 ± 42,40 phút (NSSPM) so với 165,35 ±
50,34 (MM), p>0,05. Điều này chưa phù hợp với
những báo cáo trên y văn(3,8) mổ mở luôn có thời
gian mổ ngắn hơn mổ nội soi như: tác giả
Srivastav(14) mổ 1000 TH với thời gian 110 phút
hay Simforoosh(12) báo cáo 100 TH mất trung
bình 152,2 phút. Nhưng cũng có thể lý giải kết
quả nghiên cứu là do trong giai đoạn đầu thực
hiện ghép thận tại BVCR không thường xuyên,
từ 1992 đến 2004 (12 năm) chỉ có 88 TH (trung
bình mỗi năm ghép 7.3 TH), do đó êkip mổ sẽ
mất tính liên tục trong thực hành lâm sàng.
Về thời gian thiếu máu nóng
Lợi thế