Mục tiêu: Đánh giá tính an toàn và hiệu quả tiện lợi của phẫu thuật nội soi (PTNS) xuyên đuôi vách ngăn vào xoang bướm để lấy bệnh lý trong xoang bướm (XB), tuyến yên (TY). Phương pháp: Mô tả có can thiệp, thực hiện tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ tháng 08/2010 đến tháng 08/2011. Kết quả: Có 22 bệnh nhân (13 nữ, 9 nam), tuổi trung bình 44 - 45 (thay đổi từ 20 đến 78), 15 ca bệnh xoang bướm, 7 ca u tuyến yên. Thời gian phẫu thuật 45-60 phút (bệnh XB), 100-120 phút (u TY). Không cần nhét merocel cầm máu. Thời gian nằm viện hậu phẫu 3-5 ngày (XB), 8-10 ngày (TY). Không có biến chứng về mạch máu, mắt, thần kinh, não. Quá trình lành niêm mạc lỗ thông xoang từ tuần thứ 2 đến tuần thứ 6, không có ca nào chít hẹp hoàn toàn lỗ mổ thông XB. Kết luận: PTNS xuyên đuôi vách ngăn vào xoang bướm là một kỹ thuật dễ dàng, an toàn, và tiện lợi để lấy bệnh tích xoang bướm, tuyến yên.
7 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 256 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu thuật nội soi xuyên đuôi vách ngăn vào xoang bướm, tuyến yên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 156
PHẪU THUẬT NỘI SOI XUYÊN ĐUÔI VÁCH NGĂN
VÀO XOANG BƯỚM, TUYẾN YÊN
Trần Đình Khả*, Trần Việt Hồng*, Trần Thị Bích Liên**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá tính an toàn và hiệu quả tiện lợi của phẫu thuật nội soi (PTNS) xuyên đuôi vách ngăn
vào xoang bướm để lấy bệnh lý trong xoang bướm (XB), tuyến yên (TY).
Phương pháp: Mô tả có can thiệp, thực hiện tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ tháng 08/2010 đến
tháng 08/2011.
Kết quả: Có 22 bệnh nhân (13 nữ, 9 nam), tuổi trung bình 44 - 45 (thay đổi từ 20 đến 78), 15 ca bệnh
xoang bướm, 7 ca u tuyến yên. Thời gian phẫu thuật 45-60 phút (bệnh XB), 100-120 phút (u TY). Không cần
nhét merocel cầm máu. Thời gian nằm viện hậu phẫu 3-5 ngày (XB), 8-10 ngày (TY). Không có biến chứng về
mạch máu, mắt, thần kinh, não. Quá trình lành niêm mạc lỗ thông xoang từ tuần thứ 2 đến tuần thứ 6, không có
ca nào chít hẹp hoàn toàn lỗ mổ thông XB.
Kết luận: PTNS xuyên đuôi vách ngăn vào xoang bướm là một kỹ thuật dễ dàng, an toàn, và tiện lợi để lấy
bệnh tích xoang bướm, tuyến yên.
Từ khóa và viết tắt : Xoang bướm (XB), tuyến yên (TY), phẫu thuật nội soi (PTNS).
ABSTRACT
ENDOSCOPIC TRANS-CAUDAL SEPTAL SPHENOIDOTOMY APPROACH TO THE SPHENOID
AND PITUITARY
Tran Dinh Kha, Tran Viet Hong, Tran Thi Bich Lien
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 156 - 162
Objective: to determine the safety, effectiveness and convenience of the endoscopic trans-caudal septal
sphenoidotomy approach to the sphenoid and pituitary.
Design: A methodological survey, at Nhan Dan Gia Dinh Hospital from August 2010 to August 2011
Results: 22 patients (13 females, 9 males), average age is 44 - 45 (varies from 20 to 78), 15 cases of sphenoid
disease, 7 cases of pituitary tumor. Surgical time: 45-60 minutes for sphenoid disease, 100-120 min for pituitary
tumor. No need to insert merocel for bleeding control. Length of postoperative hospital stay: 3-5 days for sphenoid
disease, 8-10 days for pituitary tumor. No complication of blood vessel, eye, nerve, brain... The healing process of
sinus ostium’s mucosa is from the 2nd week to the 6th. No case of completely obstructed ostium.
Conclusions: The endoscopic trans-caudal septal sphenoidotomy is a easy, safe, and convenient technique to
approach to the sphenoid, pituitary lesions.
Keywords and abbreviations: Sphenoid sinus ( XB), pitutary (TY), Endoscopic surgery (PTNS).
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh lý xoang bướm (XB), tuyến yên (TY)
khó chẩn đoán và khó phẫu thuật vì chúng
nằm sâu trong sọ, xung quanh có nhiều cơ
quan quan trọng như thần kinh thị, động
mạch cảnh trong, TY, đáy sọ...Những năm
* Khoa Tai Mũi Họng - Bệnh viện Nhân Dân Gia Định ** Đại Học Y Dược Tp Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS BS. Trần Đình Khả, ĐT: 0903375370 Email: khay1996@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Tai Mũi Họng 157
gần nay, do có nhiều ưu điểm, phẫu thuật nội
soi (PTNS) được nhiều tác giả ứng dụng để mở
đường vào XB – TY. Chúng tôi lựa chọn phát
triển ứng dụng kỹ thuật PTNS xuyên đuôi vách
ngăn vào XB - TY để đánh giá tính an toàn, hiệu
quả tiện lợi của phương pháp này trong điều trị
bệnh lý XB - TY, đồng thời khảo sát sự thông
thoáng của lỗ mở XB sau phẫu thuật.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu mô tả có can thiệp, thực hiện tại
bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ tháng 8/20011
08/2012. Đối tượng là những bệnh nhân ≥ 18
tuổi, bị viêm XB hoặc u TY.
Phương pháp phẫu thuật
Tách cuốn dưới, cuốn giữa ra ngoài. Tiếp
cận, mở rộng lỗ thông XB theo hướng xuống
dưới, vào trong. Rạch niêm mạc đuôi vách ngăn,
bóc tách, đục bỏ một phần nhỏ xương đuôi vách
ngăn, gặm bỏ phần mũi tàu XB, hướng về lỗ
thông xoang. Rìa lỗ thông được bấm gọn bằng
microdebrider. Lấy bệnh lý trong xoang. Nếu
cần thiết, lấy bỏ vách ngăn xoang, hợp nhất 2
xoang. Nếu vào hố yên, phẫu thuật viên Ngoại
thần kinh sẽ đục trần xoang, tiếp cận hố yên.
Sau mổ, bệnh nhân được điều trị nội khoa, chăm
sóc, đánh giá định kỳ.
KẾT QUẢ
Từ tháng 8/2010 8/2011, tiến thành phẫu
thuật cho 22 bệnh nhân (nam: 9, nữ: 13), từ 78
- 20 tuổi, trung bình là 44 - 45 tuổi, 15 ca bệnh
XB (3 ca viêm xoang đơn thuần, 8 ca viêm đa
xoang, 4 ca nấm), 7 ca u TY. Triệu chứng nổi
bật trong bệnh XB: nhức đầu, nghẹt mũi, khạc
đàm, trong u TY là rối loạn nội tiết (Basedow,
suy yên, vô kinh) hoặc đấu hiệu thần kinh
(đau đầu, mờ mắt).
Tình trạng lỗ thông xoang
Bít tắt hoàn toàn:13 ca (59,09%), bít tắt một
phần: 8 ca (36,36%), không thấy lỗ thông: 1 ca
(4,55%).
Bệnh phối hợp
Polyp khe trên: 1 ca (4,55%), polyp khe giữa:
1 ca (4,55%), kén khí cuốn giữa: 2 ca (9,09%), gai
vách ngăn: 4 ca (18,18%).
CT-Scan
Sự thông bào
XB kích thước lớn: 14 ca (41,18%), trung
bình: 15 ca (44,12%), nhỏ: 5ca (14,71%).
Hình ảnh lòng XB
Sáng hoàn toàn: 4 ca (18,18%).
Mờ toàn bộ: 10 ca (45,45%), mờ một phần: 8
ca (36,36%) (viêm XB, polyp).
Đám vôi hóa: 4 ca (18,18%) (nấm XB).
Có khuyết xương: 3 ca (13,64%) (1 ca u TY tái
phát sau phẫu thuật và xạ trị, 1 ca XB xơ cứng, 1
ca viêm XB / tiểu đường.
Các mốc giải phẫu
XB có 1 vách liên xoang chính: 13 ca
(59,09%), 1 vách chính + 1vách phụ: 9 ca
(40,91%). Vách liên xoang bám vào ống động
mạch cảnh trong: 4 ca (18,18%).
Lồi động mạch cảnh trong vào trong lòng
XB: 8 ca (36,36%). Lồi ống thần kinh thị giác vào
trong lòng XB: 9 ca (40,91%), Khuyết xương ống
thần kinh thị giác: 3 ca (13,64%). Có 1 ca ống
thần kinh thị giác nằm hẳn trong lòng tế bào
sàng Onodi, đi ngang qua thành ngoài XB.
Đánh giá trong lúc mổ
Bệnh tích trong lòng XB ở những bệnh nhân bị
viêm XB
Phù nề niêm mạc: 9 ca (60,00%), nhầy mủ: 9
ca (60,00%), mủ đặc lẫn những khối nâu xanh,
đen: 4 ca (26,67%).
Những phẫu thuật phối hợp
Cắt gai vách ngăn: 4 ca (18.18%), cắt concha
bullosa cuốn giữa: 2 ca (9,09%), cắt cuốn trên: 3
ca (13,64%), mở xoang hàm: 7 ca 9 (31,82%), mở
xoang sàng trước và sau: 7 ca (31,82%).
Cầm máu
Tất cả các bệnh nhân đều không cần cầm
máu sau mổ thông XB. Mổ u tuyến yên cần cầm
máu ở vị trí mở vào trần XB – màng cứng bằng
đốt điện và gelfoam.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 158
Thời gian phẫu thuật
Bệnh lý TY: 100-120 phút; bệnh lý XB 2 bên
hoặc viêm đa xoang: 80-90 phút, bệnh lý XB
đơn thuần 1 bên: 45-60 phút.
Sau mổ 1 tuần Sau mổ 4 tuần
Lỗ thông và lòng xoang sau mổ 9 tháng
CT-Scan trước và sau mổ 9 tháng
Hình 1: Hình ảnh lỗ thông và niêm mạc XB sau mổ ở
bệnh nhân nấm XB (P).
Thời gian nằm viện sau phẫu thuật
Bệnh lý XB: 3-5 ngày, bệnh lý TY: 8-10 ngày.
Có 1 ca tử vong vì bệnh nội khoa, không đáp
ứng điều trị.
Biến chứng
Không có biến chứng về mạch máu, mắt,
thần kinh, não, màng não, chít hẹp lỗ mỗ
thông XB. Có 1 ca dính cuốn trên – vách ngăn.
Lỗ thông và niêm mạc xoang bướm (Hình 1),
(Hình 2)
Quá trình lành niêm mạc lỗ thông xoang từ
tuần thứ 2 đến tuần thứ 6. Sau 6 tuần, hầu hết lỗ
mở XB có co nhỏ hơn so với lúc mổ nhưng đều
có thể dùng ống soi 4mm để đưa qua lỗ thông,
quan sát vào trong lòng XB dễ dàng. Có 1 bệnh
nhân có lỗ thông co nhỏ lại nhiều, làm quan sát
lòng xoang bị hạn chế. Không có ca nào lỗ thông
bị tắt hoàn toàn.
Hình 2: Lỗ thông XB bên (P) và hình ảnh lòng XB
sau mổ u TY 5 tháng.
BÀN LUẬN
Về tính an toàn của phẫu thuật
CT-Scan
Theo Mosher, phẫu thuật XB là một trong
những phẫu thuật nguy hiểm và gây mù
nhiều nhất(14). Những biến chứng có thể là tổn
thương động mạch bướm khẩu cái, động
mạch cảnh trong - xoang hang, giao thoa -
ống thần kinh thị giác, chảy dịch não tủy....
Do đó, cần khảo sát kỹ CT-Scan trước mổ để
nắm vững cấu trúc giải phẫu.
Vách liên xoang
Tình trạng vách ngăn XB bám vào ống động
mạch cảnh trong hoặc ống thần kinh thị khá phổ
biến, tỉ lệ đính vào động mạch cảnh trong theo
Nguyễn Hữu Dũng(14) : 12%, chúng tôi: 18,18%,
Sethi: 40%... Sethi thấy 7% vách liên xoang đính
vào lồi thần kinh thị. Vì vậy, cần phải thận trọng
khi lấy vách liên xoang.
Sự bộc lộ các cấu trúc giải phẫu
XB thông khí quá mức làm các cấu trúc quan
trọng lồi vào lòng xoang, làm tăng nguy cơ khi
phẫu thuật. Tỉ lệ lồi ống động mạch cảnh trong
và ống thần kinh thị lần lượt theo Van Alyea:
65% - 40%, Lang: 85,7% - 19%, Nguyễn H. Dũng:
67% - 29%(14), chúng tôi: 36,36% - 40,91%. Tỉ lệ
động mạch cảnh trong – thần kinh thị giác bộc
lộ trong XB do không có vỏ xương bảo vệ theo
Kenedy: 25% - ?%, Fujii: 8% - 4%, Sethi: 7% - 3%,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Tai Mũi Họng 159
Nguyễn Hữu Dũng ?- 5%(14), Sillers(18): ?- 10%.
Trong nghiên cứu này, có 3/22 ca (13,64%) có
khuyết xương ống thần kinh thị. Những trường
hợp này, khi phẫu thuật phải hết sức thận trọng,
nhất là khi niêm mạc phù nề, bệnh tích nhiều,
các mốc giải phẫu bị che lấp. Theo kinh nghiệm
Nguyễn Hữu Dũng(14): trường hợp động mạch
cảnh trong bị bộc lộ, niêm mạc thành ngoài XB
hoặc khối bệnh tích sẽ đập theo nhịp mạch.
Tính an toàn của phẫu thuật
Stammberger(17) nhận xét: “việc định hướng
vùng sàng sau và XB gặp nhiều khó khăn hơn”.
Đã có nhiều đường phẫu thuật mở vào XB,
nhưng chưa có kỹ thuật nào được là an toàn
tuyệt đối. Theo Parsons(17), có 2 cạm bẫy khi
phẫu thuật viên nổ lực mở thành trước XB: (1)
phẫu thuật viên đang tiếp cận thành sau của XB;
(2) thao tác đưa dụng cụ vào lỗ thông xoang có
hướng đi từ trước ra sau, đây là động tác đẩy và
có thể làm tổn thương những cấu trúc giải phẫu
nằm trực tiếp ở hướng này.
Các cấu trúc giải phẫu ở các thành XB thay
đổi rất đa dạng. Động mạch cảnh trong, thần
kinh thị và các cấu trúc khác được bảo vệ
mỏng manh. PTNS xuyên đuôi vách ngăn vào
XB – hố yên có ưu điểm là tiếp cận theo
đường giữa, hạn chế tối đa sự tổn thương các
cấu trúc quan trọng này.
Về tính hiệu quả tiện lợi trong bệnh lý
xoang bướm – tuyến yên
Dễ dàng mở rộng lỗ thông xoang
Bước quan trọng nhất là xác định lỗ thông
xoang. Nếu lỗ thông chưa bị bít tắt hoàn toàn, có
thể tiếp cận dễ dàng. 75% lỗ thông XB trong
nghiên cứu của Nguyễn Hữu Dũng(14) bị bít tắc
hoàn toàn gây khó khăn cho việc tìm lỗ thông
xoang. Đầu tiên chúng tôi tìm lỗ thông tự nhiên
của XB, mở rộng lỗ thông một phần; sau đó, đục
lấy xương đuôi vách ngăn, tiếp tục mở rộng lỗ
thông xoang đến mức đạt yêu cầu. Khi cần mở
lỗ thông 2 bên, chúng tôi lựa chọn xén đuôi
vách ngăn ở bên có ngách sàng bướm rộng, để
dễ tiếp cận lỗ thông xoang tự nhiên, sau khi lấy
xương đuôi vách ngăn, việc tiếp cận lỗ thông
xoang đối bên trở nên dễ dàng hơn. Một số tác
giả thực hiện một số can thiệp khác để dễ tiếp
cận lỗ thông xoang như cắt cuốn mũi trên
(Ralph Metson(11), Parsons(17)), cắt cuốn giữa
(Stankiewicz(19), Ta-Jen Lee(9), Sillers(18)). Theo
Sethi, Wigan(14), 77% trường hợp không cần phải
cắt bỏ cuốn giữa, chỉ cần bẻ ra ngoài. PTNS chỉ
mở rộng lỗ thông xoang tự nhiên can thiệp nhẹ
nhàng hơn, nhưng nhiều trường hợp rất khó
tiếp cận. Theo Ta-Jen Lee(9), khi XB xơ cứng (dựa
vào CT-Scan), phẫu thuật viên rất khó mở rộng
lỗ thông tự nhiên.
Phẫu thuật dễ dàng, nhanh chóng, thẩm mỹ và
an toàn, có tính ứng dụng rộng
Trong các kỹ thuật vào XB–TY, theo
Katzenmeyer(7): tiếp cận xuyên vách ngăn là một
phương pháp dễ dàng, nhanh chóng, thẩm mỹ
và an toàn.
Với kỹ thuật mở XB qua sàng sau
Al-Nashar(1) cho rằng nhược điểm lớn nhất
là phẫu thuật theo đường chéo, nguy cơ tổn
thương các cơ quan ở thành ngoài XB. Theo
Mosher, Metson(11), 10% trường hợp có nhẫm lẫn
tế bào Onodi với XB. Kevin và Stankiewicz (19), (14)
cho rằng việc xác định tế bào sàng Onodi sẽ khó
khăn khi niêm mạc phù nề, thoái hóa..
So với các phương pháp tiếp cận không xuyên đuôi
vách ngăn
PTNS xuyên đuôi vách ngăn có ưu điểm là
định hướng theo đường giữa, giúp phẫu thuật
viên định hướng dễ dàng, hạn chế rủi ro do
nhầm lẫn hoặc làm chấn thương thành ngoài
XB... Nên áp dụng kỹ thuật này trong trường
hợp viêm XB hai bên, u TY. Trường hợp bệnh
XB đơn thuần một bên, nó cũng có rất nhiều ưu
điểm trong trường hợp: cần mở rộng lỗ thông
xoang để lấy sạch bệnh tích như (nấm; niêm mạc
xoang phù nề nhiều..), hốc mũi chật hẹp (quá
phát cuốn mũi, mào – gai vách ngăn, ngách
sàng bướm hẹp), hoặc có khó khăn về giải
phẫu XB (XB quá nhỏ, vách liên xoang vẹo lệch
hẳn 1 bên, khuyết xương thành xoang, không
xác định được lỗ thông tự nhiên, XB xơ cứng),
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 160
những bệnh nhân có nguy cơ tái phát cao cần
hạn chế sẹo hẹp sau mổ.
Ưu điểm PTNS trong bệnh lý tuyến yên
Trước đây, kính hiển vi (KHV) phẫu thuật
vốn là phương pháp chuẩn kinh điển với đường
vào ở rãnh lợi môi trên, tránh tai biến về sọ não
nhưng có nhiều di chứng, theo Ciric(4), thường
gặp nhất là thủng vách ngăn (>40). Và Theo
Gandhi(4), nhược điểm của kính hiển vi là tầm
nhìn bị giới hạn theo hướng thẳng và hẹp, vì
vậy nhiều phẫu thuật viên dùng nội soi để bổ
sung cho kính hiển vi để cải thiện tầm nhìn.
Ngày nay, nhiều phẫu thuật viên đã hoàn thiện
phẫu thuật lấy u TY qua nội soi mà không cần
sử dụng kính hiển vi. Bên cạnh yếu tố thẩm mỹ,
với ứng dụng từ PTNS XB, việc tiếp cận TY trở
nên dễ dàng hơn. Theo Vrionis(20), nội soi cho
phép quan sát đến những ngóc ngách khó khăn
kể cả những góc mù dưới kính hiểu vi.
Gendeh(5), Gandhi(4) nhận xét: PTNS có lợi thế
đặc biệt trong trường hợp cần lấy những u TY
tái phát hoặc còn sót lại.
So với những đường mổ nội soi đã có, PTNS
xuyên XB là phẫu thuật có nhiều ưu điểm, giúp
rút ngắn thời gian phẫu thuật. Theo
Couldwell(2): PTNS xuyên XB vào hố yên là một
bước tiến lớn, xâm lấn tối thiểu, giảm thiểu tỉ lệ
tái phát . Có tác giả như Kennedy thích sử dụng
đường xuyên xoang sàng mở vào XB rồi đến TY.
Một số phẫu thuật viên chỉ mở rộng lỗ thông tự
nhiên như Nguyễn Hữu Dũng(15). PTNS xuyên
đuôi vách ngăn vào XB với việc lấy hợp nhất 2
xoang, tạo điều kiện cho phẫu thuật viên tiếp
cận đường giữa vào hố yên dễ dàng, có thể thao
tác ở cả 2 XB cùng một lúc. Chính vì vậy, tuy
tiếp cận bằng phẫu thuật mở rộng lỗ thông tự
nhiên XB nhưng một số trường hợp khó khăn,
tác giả Nguyễn Hữu Dũng cũng phải lấy đi
vách liên xoang(15). Khối u TY có một số đặc
điểm rất thích hợp để lựa chọn cách tiếp cận
này. Thứ nhất, hầu hết các khối u TY nằm ở vị
trí đường giữa(5), nên PTNS vào XB xuyên đuôi
vách ngăn là cách tiếp cập khối u trực tiếp. Thứ
hai, khối u TY có thể rất lớn hoặc khả năng tái
phát cao, vì vậy, kỹ thuật mổ với hạn chế chít
hẹp lỗ thông sau mổ, là một cách chuẩn bị cho
phẫu thuật lần sau.
Giảm thiểu biến chứng và hậu phẫu nhẹ nhàng
Theo Nguyễn Hữu Dũng(14), phẫu thuật XB
đơn thuần chảy máu trong khi mổ và sau mổ rất
ít, khoảng 40% trường hợp polyp cần nhét
meche. Khi cần mở lớn lỗ thông, phẫu thuật
viên thường phải mở xuống dưới vào trong và
dễ làm tổn thương nhánh của động mạch bướm
khẩu cái chạy ngang qua vùng ngách sàng
bướm. Kỹ thuật mở rộng lỗ thông xuyên đuôi
vách ngăn, với ưu điểm mở vào trong và không
cần phải mở rộng nhiều xuống dưới, phẫu thuật
viên có thể hạn chế làm tổn thương nhánh mạch
máu này. Chúng tôi không cần nhét merocel
cầm máu; sau mổ, bệnh nhân vẫn thở mũi dễ
dàng.
Biến chứng trong phẫu thuật u TY có thể
bao gồm những biến chứng trong phẫu thuật
mũi xoang và cả phẫu thuật lấy u TY. Với phẫu
thuật viên TMH, khi lấy vách liên XB, phải hết
sức thận trọng vì có nhiều trường hợp vách liên
xoang bám vào lồi ống động mạch cảnh trong.
So với các phương pháp khác, Netea-Maier(12)
cho rằng PTNS xuyên XB vào hố yên đã giảm
thiểu tối đa biến chứng và sự khó chịu cho bệnh
nhân, giúp rút ngắn thời gian nằm viện.
Về sự thông thoáng của lỗ mở xoang bướm
sau phẫu thuật
Vấn đề mở rộng lỗ thông xoang
Theo Metson(11), Sang-Hoon Chun(3): nên tạo
lỗ thông có đường kính 5-10mm. Wigan mở
rộng 10mm; Guerrier, Righini mở lỗ thông đủ
lớn sao cho có thể đưa được ống nội soi 4mm và
một kìm blakesley vào trong lòng xoang(14). Tác
giả Nguyễn Hữu Dũng mở rộng 6-10mm để
phải quan sát được toàn bộ lòng XB và lấy được
hết bệnh tích. Với kỹ thuật xén lấy một phần
nhỏ xương đuôi vách ngăn, lỗ thông xoang mới
tương đối rộng khoảng 10mm, có thể đưa ống
soi 00 hoặc 300 vào quan sát khá trọn vẹn lòng
xoang và đưa dụng cụ lấy bệnh tích.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Tai Mũi Họng 161
Đề phòng sẹo hẹp lỗ thông xoang
Theo Võ Hiếu Bình(20): lỗ thông xoang có
khuynh hướng hẹp lại theo thời gian khi niêm
mạc phủ dần các bờ xương của lỗ thông và có
thể bít hoàn toàn nếu mô sẹo hoạt động mạnh.
Tác giả chia 3 mức độ: Độ I: lỗ xoang thông
thoáng, dễ quan sát lòng xoang; Độ II: lỗ thông
bị lấp một phần, quan sát lòng xoang bị hạn chế;
Độ III: lỗ thông bị lấp kín.
Theo dõi sau mổ 6 tuần, 21/22 bệnh nhân có
lỗ thông đạt mức độ I, 1 trường hợp còn lỗ
thông xoang nhưng ở mức độ II, không có
trường hợp nào bít tắt hoàn toàn lỗ thông, có 1
trường hợp có di chứng dính cuốn mũi trên -
vách ngăn mũi. Trong nguyên cứu của Nguyễn
Hữu Dũng(14), có 2 ca viêm xoang do nấm bị chít
hẹp lỗ thông xoang. Ramadan(25): những bệnh xơ
nang, bệnh suy giảm miễn dịch hoặc bệnh bất
thường lông chuyển hay gây sẹo hẹp lỗ thông
xoang sau mổ, tỉ lệ thất bại của tác giả là 4/87 ca
(5%). Trong nghiêu cứu của Võ Hiếu Bình: có 7
ca bị bít lỗ thông ở tạng sẹo lồi, polyp. Nhiều
phẫu thuật viên chủ trương không lấy rộng quá
để bảo tồn được chức năng sinh lý của xoang,
nhưng nếu lỗ thông được mở không đủ lớn thì
lại có nguy cơ chít hẹp sau mổ. Theo Nguyễn
Hữu Dũng, Guerrier, Righini(14), để phòng
ngừa sẹo hẹp, nên bảo tồn bờ trên và bờ ngoài
của lỗ thông xoang, càng ít sang chấn càng tốt.
Chúng tôi nhận thấy sau khoảng 2 tuần, vết mổ
bắt đầu lành, sự lành niêm mạc có thể kéo dài
đến tuần thứ 6 như nguyên cứu của Nguyễn
Hữu Dũng, Fernades, Rosen(14) .
KẾT LUẬN
Về tính an toàn
Cần nắm vững cấu trúc giải phẫu, khảo
sát kỹ CT-Scan trước mổ. PTNS xuyên đuôi
vách ngăn vào XB – TY với ưu điểm là tiếp
cận đường giữa, hạn chế nguy cơ tổn thương
các cấu trúc quan trọng. Tuy vậy, cần có kỹ
thuật tinh tế, và thận trọng.
Về tính hiệu quả và tiện lợi
Về mặt kỹ thuật
Việc dễ dàng mở rộng lỗ thông XB. Nên xén
đuôi vách ngăn ở bên ngách sàng bướm rộng.
Trong bệnh lý TY, kỹ thuật này tạo phẫu trường
rộng, có thể thao tác cả 2 tay ở 2 hốc mũi, dễ
dàng và an toàn tiếp cận vào hố yên.
Áp dụng lâm sàng
Nên áp dụng trong trường hợp viêm XB 2
bên hoặc u TY. Kỹ thuật này cũng có nhiều ưu
điểm trong nhiều trường hợp bệnh XB đơn
thuần một bên.
Hậu phẫu nhẹ nhàng
Chảy máu trong và sau mổ không đáng
kể, không cần nhét merocel cầm máu, hẫu
phẫu nhẹ nhàng, bệnh nhân vẫn thở mũi.
Trong u TY, đây là kỹ thuật xâm lấn tối thiểu,
rút ngắn thời gian phẫu thuật và nằm viện,
tránh những di chứng thường gặp của
phương pháp kinh điển với kính hiển vi.
Về sự thông thoáng của lỗ thông xoang
Lỗ thông mới rộng khoảng 10mm, dễ dàng
đưa ống soi quan sát và dụng cụ phẫu thuật.
Niêm mạc lành từ tuần 2 đến tuần 6. Sau một
thời gian, các lỗ thông xoang có thu nhỏ hơn
so với lúc mổ những không có trường hợp
nào bít tắc hoàn toàn. Kỹ thuật này tạo ra lỗ
thông thích hợp, chuẩn bị cho phẫu thuật lần
sau ở bệnh nhân có nguy cơ tái phát bệnh như
u TY. Để đề phòng sẹo sơ dính, cần hạn chế
sang chấn, bảo tồn niêm mạc bờ trên và ngoài
của lỗ thông xoang, nên mở rộng lỗ thông về
phía đuôi vách ngăn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Al-Nashar IS; Carrau RL.; Herrera A (2004). Endoscopic
transnasal transpterygopalatine fossa approach to the la