Mục tiêu nghiên cứu: So sánh độ mở góc tiền phòng qua chụp cắt lớp quang học phần trước và soi góc tiền
phòng trên những bệnh nhân ≥40 tuổi nghi ngờ tiền phòng nông. Qua đó khảo sát độ phù hợp của hai phương pháp trong việc phát hiện góc đóng. Xác định độ nhạy, độ chuyên của máy OCT bán phần trước trong việc phát hiện góc đóng khi lấy soi góc tiền phòng làm tiêu chuẩn tham khảo.
Phương pháp nghiên cứu: thiết kế nghiên cứu là mô tả cắt ngang phân tích trên 229 bệnh nhân ≥ 40 tuổi,
không có bệnh lý về mắt trước đó, nghi ngờ tiền phòng nông qua phương pháp Van Herick tại phòng laser bệnh viện Mắt TP.HCM từ tháng 1/2011 đến tháng 9/2011. Tất cả bệnh nhân đều trải qua soi góc tiền phòng và chụp OCT bán phần trước trong tối. Mỗi phần tư của góc tiền phòng được phân độ theo hệ thống phân độ Shaffer, phần tư góc được gọi là đóng khi không quan sát được mạng lưới bè sau. Trên OCT bán phần trước, phần tư góc gọi là đóng khi có bất kỳ sự tiếp xúc giữa mống mắt và thành góc về phía trước cựa củng mạc.
Kết quả: Sau khi loại ra những mắt có hình ảnh xấu, tổng cộng có 222 mắt phải được phân tích. Góc đóng ít
nhất một phần tư 59,91% mắt trên soi góc tiền phòng và 77,48% mắt trên AS-OCT (P=0,000 <0,05). Tần suất góc đóng trên AS-OCT/soi góc tiền phòng lần lượt là 68,92% / 48,65% phần tư trên, 54,50%/ 46,85% phần tư dưới, 52,70%/ 43,24 phần tư mũi, 31,53%/ 35,14% phần tư thái dương. Có 58/ 888 phần tư là đóng trên soi góc tiền phòng nhưng lại mở trên AS-OCT và 188/ 888 phần tư là mở trên soi góc tiền phòng nhưng lại đóng trên AS-OCT. Độ nhạy, độ chuyên của AS-OCT trong viêc phát hiện góc đóng là 91,73% và 43,82%.
Kết luận: Góc đóng nhiều nhất là ở phần tư trên. OCT bán phần trước có khuynh hướng phát hiện nhiều
góc đóng hơn soi góc tiền phòng, nhất là phần tư trên và dưới.
5 trang |
Chia sẻ: thuylinhqn23 | Ngày: 09/06/2022 | Lượt xem: 466 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh độ mở góc giữa chụp cắt lớp quang học phần trước và soi góc tiền phòng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Mắt 1
SO SÁNH ĐỘ MỞ GÓC GIỮA CHỤP CẮT LỚP QUANG HỌC
PHẦN TRƯỚC VÀ SOI GÓC TIỀN PHÒNG
Nguyễn Công Kiệt*, Biện Thị Cẩm Vân*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: So sánh độ mở góc tiền phòng qua chụp cắt lớp quang học phần trước và soi góc tiền
phòng trên những bệnh nhân ≥40 tuổi nghi ngờ tiền phòng nông. Qua đó khảo sát độ phù hợp của hai phương
pháp trong việc phát hiện góc đóng. Xác định độ nhạy, độ chuyên của máy OCT bán phần trước trong việc phát
hiện góc đóng khi lấy soi góc tiền phòng làm tiêu chuẩn tham khảo.
Phương pháp nghiên cứu: thiết kế nghiên cứu là mô tả cắt ngang phân tích trên 229 bệnh nhân ≥ 40 tuổi,
không có bệnh lý về mắt trước đó, nghi ngờ tiền phòng nông qua phương pháp Van Herick tại phòng laser bệnh
viện Mắt TP.HCM từ tháng 1/2011 đến tháng 9/2011. Tất cả bệnh nhân đều trải qua soi góc tiền phòng và chụp
OCT bán phần trước trong tối. Mỗi phần tư của góc tiền phòng được phân độ theo hệ thống phân độ Shaffer,
phần tư góc được gọi là đóng khi không quan sát được mạng lưới bè sau. Trên OCT bán phần trước, phần tư góc
gọi là đóng khi có bất kỳ sự tiếp xúc giữa mống mắt và thành góc về phía trước cựa củng mạc.
Kết quả: Sau khi loại ra những mắt có hình ảnh xấu, tổng cộng có 222 mắt phải được phân tích. Góc đóng ít
nhất một phần tư 59,91% mắt trên soi góc tiền phòng và 77,48% mắt trên AS-OCT (P=0,000 <0,05). Tần suất
góc đóng trên AS-OCT/soi góc tiền phòng lần lượt là 68,92% / 48,65% phần tư trên, 54,50%/ 46,85% phần tư
dưới, 52,70%/ 43,24 phần tư mũi, 31,53%/ 35,14% phần tư thái dương. Có 58/ 888 phần tư là đóng trên soi góc
tiền phòng nhưng lại mở trên AS-OCT và 188/ 888 phần tư là mở trên soi góc tiền phòng nhưng lại đóng trên
AS-OCT. Độ nhạy, độ chuyên của AS-OCT trong viêc phát hiện góc đóng là 91,73% và 43,82%.
Kết luận: Góc đóng nhiều nhất là ở phần tư trên. OCT bán phần trước có khuynh hướng phát hiện nhiều
góc đóng hơn soi góc tiền phòng, nhất là phần tư trên và dưới.
Từ khoá: AS-OCT, góc tiền phòng, soi góc tiền phòng.
ABSTRACT
COMPARISION OF DEGREE OF OPENING ANTERIOR CHAMBER ANGLE BETWEEN
GONIOSCOPY AND ANTERIOR SEGMENT OPTICAL COHERENCE TOMOGRAPHY
Bien Thi Cam Van, Nguyen Cong Kiet
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 1 - 5
Objective: Comparision of degree of opening anterior chamber angle between gonioscope and anterior
segment optical coherence tomography on subjects more than 40 years old with suspected narrow anterior
chamber and evaluation of agreement between two methods in detecting angle-closure. Gonioscopy was defined as
the reference standard of angle assessment, sensitivity and specificity of AS-OCT in detecting individuals with
angle-closure were calculated.
Method: Cross-sectional observational study. 229 subjects more than 40 years old with no previous
ophthalmic problems and suspected narrow anterior chamber by Van Herick method recruited from laser unit at
Eye hospital HCMC from 1/2011 to 9/2011. Al,l subjects underwent goniosopy and AS-OCT imaging in the
dark. Using gonioscopy, the anterior chamber angle was graded using the Shaffer system. The ACA in a
Bộ môn Mắt, Đại học Y Dược, TP.HCM.
Tác giả liên lạc: BS. Biện Thị Cẩm Vân, ĐT: 0985366883 Email: biencamvan@gmail.com.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 2
particular quadrant was classified as closed if the posterior trabecular meshwork could not be seen on gonioscopy.
A closed ACA on AS-OCT imaging was defined by the presence of any contact between the iris and angle wall
anterior to the scleral spur.
Results: After excluding eyes with poor image quality, a total of 222 right eyes were included in the analysis.
A closed angle in at least 1 quadrant was observed in 59,91% of the eyes by AS-OCT and in 77.48% of the eyes
by gonioscopy (P=0.000 <0.05). The frequency of closed angles by AS-OCT/ gonioscopy were 68.92%/48.65%
superiorly, 54.50%/46.85% inferiorly, 52.70%/43.24% nasally, 31.53%/35.14% temporally, respectively. Of the
58 of 888 quadrants that closed on gonioscopy but open on AS-OCT and 188 of 888 quadrants that were open on
gonioscopy but closed on AS-OCT. Sensitivity and specificity of AS-OCT in detecting angle-closure were
91.73% and 43.82%, respectively.
Key words: AS-OCT, anterior chamber angle, gonioscopy.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc đánh giá độ mở góc tiền phòng là một
trong những tiếp cận quan trọng và cần thiết
trong quản lý bệnh glôcôm. Nó quyết định
phương thức điều trị và quản lý bệnh nhân.
Ngoài soi góc tiền phòng, hiện nay trên thế giới
có rất nhiều phương pháp hiện đại giúp đánh
giá góc tiền phòng khách quan hơn, khắc phục
được những yếu tố gây sai lệch. Máy chụp cắt
lớp quang học phần trước (AS-OCT) ứng dụng
nguyên lý giao thoa kết hợp sóng ngắn, sử dụng
nguồn sáng laser diod có bước sóng 1310 nm
giúp ghi được hình ảnh thật của góc tiền phòng
là một bước tiến ngoạn mục trong chẩn đoán
glôcôm. Theo Winifred (2005)(6), Sakata (2007)(4)
nhận thấy rằng AS-OCT giúp phát hiện các
trường hợp góc đóng nhạy hơn so với phương
pháp soi góc tiền phòng. Nhằm đánh giá
phương pháp mới giúp tầm soát góc đóng có
thể ứng dụng rộng rãi tại Việt Nam, chúng tôi
tiến hành đề tài nghiên cứu “So sánh độ mở góc
giữa chụp cắt lớp quang học phần trước và soi
góc tiền phòng”.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
So sánh độ mở góc tiền phòng qua chụp
cắt lớp quang học phần trước và soi góc tiền
phòng trên những bệnh nhân ≥ 40 tuổi nghi
ngờ tiền phòng nông.
Mục tiêu chuyên biệt
- Mô tả đặc điểm chung, xác định độ sâu tiền
phòng và bề dày trung tâm giác mạc của bệnh
nhân ≥ 40 tuổi nghi ngờ tiền phòng nông.
- Xác định độ đóng mở góc tiền phòng của
dân số nghiên cứu ở từng phần tư qua soi góc
tiền phòng và chụp OCT bán phần trước, qua
đó kiểm định độ phù hợp giữa hai phương
pháp trong việc phát hiện góc đóng.
- Khảo sát độ nhạy, độ chuyên của máy
OCT bán phần trước trong việc phát hiện góc
đóng khi lấy soi góc tiền phòng làm tiêu
chuẩn tham khảo.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân tuổi ≥ 40 tuổi có tiền phòng
nông, không có bệnh lý về mắt trước đó tại
phòng laser Bệnh viện Mắt TP.HCM trong thời
gian từ tháng 1-2011 đến tháng 9-2011.
Tiêu chuẩn loại trừ:
- Có tiền sử phẫu thuật glaucoma hay can
thiệp nội nhãn, chấn thương xuyên, đặt kính nội
nhãn nhân tạo, hay laser phần trước.
- Có bệnh lý về mắt nói chung.
- Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên
cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt
ngang có phân tích.
Chọn mẫu theo tiêu chuẩn gồm các bước:
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Mắt 3
(1) Khai thác bệnh sử, tiền căn bệnh lý.
(2) Đo thị lực bằng bảng Snellen.
(3) Đo nhãn áp bằng nhãn áp kế Goldmann.
(4) Khám mắt tổng quát bằng sinh hiển vi.
(5) Ước lượng độ sâu tiên phòng bằng
phương pháp Van Herick.
(6) Soi góc tiền phòng bằng kính ba gương
Goldmann ở từng phần tư cả hai mắt tại phòng
laser bệnh viện Mắt.
(7) Đo bề dày trung tâm giác mạc, độ sâu
tiền phòng, đánh giá độ đóng mở góc bằng máy
chụp cắt lớp quang học bán phần trước Visante
tại phòng chẩn đoán hình khoa khúc xạ.
(8) Điền đầy đủ các dữ liệu vào phiếu thu
thập của mỗi bệnh nhân.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Đặc điểm dịch tễ
Đặc điểm về tuổi
- Tuổi trung bình của nhóm mẫu nghiên cứu
là 51,3±8,0 tuổi (40 – 81 tuổi).
Bảng 1: Phân bố nhóm tuổi được biểu hiện qua bảng
Nhóm tuổi Nhóm 1
(40 – 49
tuổi)
Nhóm 2
(50 – 59
tuổi)
Nhóm 3
(60 – 69
tuổi)
Nhóm 4
(≥70 tuổi)
Phần trăm 39,19% 44,14% 13,96% 2,70%
Đặc điểm về giới
- Tỷ lệ nam:nữ = 3:1, nữ giới chiếm tỷ lệ cao,
phù hợp nghiên cứu của các tác giả khác(2,6). Sự
khác biệt về tuổi giữa hai giới không có ý nghĩa
thống kê (p>0,05).
Đặc điểm lâm sàng
Độ sâu tiền phòng
- Độ sâu tiền phòng trung bình của dân số
nghiên cứu là 2,58±0,39mm.
- Độ sâu tiền phòng trung bình ở nam
(2,96±0,26mm) cao hơn ở nữ (2,48±0,35mm). Phù
hợp với kết quả nghiên cứu của tác giả
Nishani(3).
- So sánh độ sâu tiền phòng giữa nam và
nữ khác nhau có ý nghĩa thống kê (p=0,000,
phép kiểm t).
Bảng 2: Độ sâu tiền phòng theo nhóm tuổi
Nhóm tuổi Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4
Độ sâu tiền
phòng
(mm)
2,72 ± 0,36 2,56 ± 0.37 2,28 ± 0,34 2,04 ± 0,34
Kết quả nghiên cứu cho thấy độ sâu tiền
phòng giảm dần theo tuổi tác. Sự khác biệt
giữa độ sâu tiền phòng và nhóm tuổi là có ý
nghĩa thống kê (P = 0,0001 < 0,05). Khi tuổi
tăng (thường > 40 tuổi) thì thể thuỷ tinh bắt
đầu có sự ngấm nước làm thể thuỷ tinh phồng
lên tăng kích thước, đẩy mống mắt ra trước
làm hẹp tiền phòng.
Bề dày giác mạc trung tâm
- Bề dày trung tâm giác mạc trung bình
521,28 ± 30,64μm (450 – 640μm).
- Bề dày trung tâm giác mạc của nam giới
(522,30 ± 42,14μm) dày hơn so với nữ giới
(521,01 ± 26,88μm) 1,29μm. Sự khác biệt giữa độ
dày trung tâm giác mạc và giới tính không có ý
nghĩa thống kê (p=0,7981, phép kiểm t). Kết quả
này phù hợp với tác giả Shildkrot(5).
Bảng 3: Bề dày trung tâm giác mạc theo nhóm tuổi
Nhóm tuổi Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4
Bề dày giác
mạc trung tâm
(μm)
528,73 ±
30,22
518,92 ±
28,77
511,07 ±
34,26
501,67 ±
24,01
- Độ dày trung tâm giác mạc giảm dần
theo tuổi. Dùng phép kiểm Kruskal-Wallis so
sánh giá trị độ dày trung tâm giác mạc ở 4
nhóm nghiên cứu cách nhau 10 tuổi thì sự
khác biệt về bề dày giác mạc trung tâm giữa
các nhóm tuổi khác nhau có ý nghĩa thống
nghĩa thống kê (p=0,0381<0,05). Điều này phù
hợp với kết luận độ dày giác mạc trung tâm
giảm dần theo mỗi thập niên của tác giả
Aghaian và cs(1), Foster và cs(2).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 4
Kiểm định độ phù hợp trong việc phát hiện góc
đóng giữa soi góc tiền phòng và AS-OCT
Bảng 4:. Bảng tần suất góc đóng/mở ở từng phần tư
Phần
tư
Trên Dưới Mũi Thái
dương
Góc Đóng Mở Đóng Mở Đóng Mở Đóng Mở
SGTP 108
48,65
%
114
51,35
%
104
46,8
5%
118
53,15
%
96
43,24
%
126
56,76
%
78
35,1
4%
144
64,8
6%
AS-
OCT
153
68,92
%
69
31,08
%
121
54,5
0%
101
45,50
%
117
52,70
%
105
47,30
%
70
31,5
3%
152
68,4
7%
- Khi so sánh cả hai kỹ thuật thì khả năng
phát hiện góc đóng trên AS-OCT cao hơn hẳn
khi soi góc ở các phần tư trên, dưới, mũi. Riêng
phần tư thái dương tỷ lệ góc đóng ít hơn so với
soi góc.Sự khác biệt của hai phương pháp là có
ý nghĩa thống kê ở tất cả các phần tư p <0,05
(phép kiểm chi bình phương). Sự khác biệt này
có thể giải thích: Thứ nhất, khác nhau về độ
chiếu sáng, cả soi góc và AS-OCT đều thực hiện
dưới điều kiện chiếu sáng mờ, hoàn toàn trong
tối cho AS-OCT vì việc ghi hình không cần có
ánh sáng. Dù việc nổ lực để càng ít ánh sáng
càng tốt khi soi góc và làm tối thiểu chiều dài
khe sáng, phần trước và đồng tử vẫn bị tiếp xúc
ánh sáng khi soi góc. Lượng nhỏ ánh sáng này
có thể đủ để mở góc là đóng trong tối. Thứ hai,
biến dạng phần trước khi đặt kính soi góc dẫn
đến mở góc ở một số phần tư. Biến dạng này có
thề do cả người khám và mi mắt phía trên (nhất
là khe mí hẹp). Khi nghiêng kính quá mức, một
sự cố gắng vượt qua phần mống mắt cong
phồng cũng gây nên sự ấn lõm giác mạc làm mở
rộng góc và sự ấn này làm góc mở rộng hơn.
Thứ ba, Những mốc giải phẩu không giống
nhau của hai phương pháp. Soi góc có thể quan
sát những mốc như đường Schwalbe, vùng lưới
bè sau (có sắc tố), giới hạn vùng bè trước thì lại
khó khăn trên AS-OCT. Do cựa củng mạc dễ xác
định hơn và vùng bè nằm phía trước cấu trúc
này nên trên AS-OCT góc đóng được xác định
khi có bất kỳ sự tiếp xúc giữa mống mắt và
những cấu trúc góc phía trước cựa củng mạc.
Tuy nhiên, sự tiếp xúc giữa mống mắt chu biên
và cựa củng mạc được chia ra nhiều mức độ,
một short iridoangle contact chưa đủ để làm góc
đóng nhưng trên AS-OCT dễ nhằm lẫn với góc
đóng. Một hình thái thường gặp khác của mống
mắt trên AS-OCT là steep iris proflie là phần
mống chu biên cong phồng lên ở góc tiền phòng
mở mà khi soi góc dễ nhằm lẫn là góc đóng.
Bảng 5: Tỷ lệ phần tư đóng/ mở khi kết hợp hai
phương pháp
Phần tư Đóng/ soi góc tiền
phòng
Mở/ soi góc tiền
phòng
Đóng/AS-
OCT
Mở/ASOCT Đóng/AS-
OCT
Mở/AS-
OCT
Trên 82 (75,93%) 26 (24,07%) 71 (62,28%) 43
(37,72%)
Dưới 86 (82,69%) 18 (17,31%) 35 (29,66%) 83
(70,34%)
Mũi 73 (76,04%) 23 (23,96%) 44 (34,92%) 82
(65,08%)
Thái
dương
38 (48,72%) 40 (51,28%) 32 (22,22%) 112
(77,78%)
Tổng
cộng
279
(72,28%)
107
(27,72%)
182
(36,25%)
320
(63,75%)
- Trong tổng số 182 phần tư được phân loại
là góc mở trên soi góc nhưng đóng trên OCT
bán phần trước có 135 (74,18%) có short
iridoangle contact và trong 279 phần tư được
phân loại là đóng trên cả hai phương pháp có 87
phần tư (31,18%) có short iridoangle contact.
Tổng số phần tư có short iridoangle contact là
222 phần tư. Trong 107 phần tư được phân loại
là đóng trên soi góc và mở trên AS-OCT, có 52
phần tư (48,60%) có a steep iris profile và có 62
phần tư (19,38%) được phân loại là mở trên cả
hai phương pháp có a steep iris profile.
Độ nhạy, độ chuyên của AS-OCT
Bảng 6: Tỷ lệ mắt có góc đóng/ mở trên hai phương
pháp
SGTP AS-OCT Tổng cộng
Đóng ≥ ¼ Mở
Đóng ≥ ¼ 122 (54,95%) 11 (4,95%) 133 (59,91%)
Mở 50 (22,52%) 39 (17,57%) 89 (40,09%)
Tổng cộng 172 (77,48%) 50 (22,52%) 222
Độ nhạy =
91,73% (khoảng
tin cậy 95%)
Độ chuyên =
43,82%
(khoảng tin cậy
95%)
- Độ nhạy của AS-OCT trong việc phát hiện
góc đóng là 91,73%.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Mắt 5
- Độ chuyên của AS-OCT trong việc phát
hiện góc đóng là 43,82%.
- Mặc dù AS-OCT xác định nhiều góc đóng
hơn soi góc nhưng không chắc chắn rằng soi
góc là một tiêu chuẩn tham khảo lý tưởng.
Những yếu kém của soi góc như là một kỹ thuật
chẩn đoán gần đây đã có nhiều tranh cãi và
chúng tôi tin rằng nhiều trường hợp góc đóng
đã bị bỏ sót trên soi góc. Nếu đổi ngược lại lấy
AS-OCT làm tiêu chuẩn tham khảo thì độ nhạy
và độ chuyên của soi góc trong việc phát hiện
góc đóng là 70,93% và 78%.
Độ nhạy và độ chuyên không phải là cách
tốt nhất để đo lường vai trò của AS-OCT khi
tiêu chuẩn tham khảo có nhiều vấn đề còn tranh
cãi. Mặt khác, do những người trong nghiên cứu
này có góc hẹp hơn dân số trong cộng đồng
bình thường, đây là một xem xét quan trọng và
cần thiết để suy nghĩ tiến hành nghiên cứu này
trên dân số bình thường.
KẾT LUẬN
Tóm lại, nghiên cứu này giải thích rằng
phần tư trên có tỷ lệ góc đóng cao nhất cả trên
soi góc tiền phòng và AS-OCT và tỷ lệ góc đóng
tương đối ở các phần tư khác khác nhau tương
đối giữa các kỹ thuật.
AS-OCT là một phương pháp đơn giản, dễ
sử dụng, khách quan và dễ dung nạp với người
bệnh và nhạy hơn soi góc tiền phòng trong việc
phát hiện góc đóng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aghaian E, Lin S, et al. (2004). “Central corneal thickness of
Caucasians, Chinese, Hispanics, Filipinos, African Americans,
and Japanese in a glaucoma clinic”. Ophthalmology, 111: 2111 –
2219.
2. Foster PJ, Alsbirk PH, et al. (1998). “Central corneal thickness
and intraocular pressure in a Mongolian population”.
Ophthalmology, 105: 969 – 973.
3. Nishani A, Foster PJ, Tien Yin Wong and et al. (2009). “Variation
of Angle Parameters in Asians: An Anterior Segment Optical
Coherence Tomography Study in a Population of Singapore
Malays”. Investigative Opthalmology and Visual Science, 50(6):
2626 – 2631
4. Sakata LM, Raghavan Lavanya, Friedman DS, Aung HT, Hong
Gao, Kumar RS, Foster PJ, Aung T (2007). “Comparision of
Goinioscopy and Anterior Segment Ocular Coherence
Tomography in Dectecting Angle Closure in Different Quadants
of the Anterior Chamber Angle”.
5. Shildkrot Y, Fabijanczyk B, Tello Celso A, and Robert R (2005).
“Central Corneal Thickness Measurement in Clinical Practice”. J
Glaucoma, 14(5): 331 – 336.
6. Winifried PN, Jovina LS, Paul KC, Friedman DS, Scott DS, Sunita
Radhakrishman, Ce Zheng, Foster PJ, Aung Tin (2005). “
Detecting of primary angle closure using Anterior segment
optical coherence”.