Mục tiêu: So sánh hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật bụng trên qua catheter ngoài màng cứng (NMC) bằng
truyền liên tục và bệnh nhân tự điều khiển.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng trên 66 bệnh
nhân được phẫu thuật vùng bụng trên, ASA I, II, III từ 8/2013 đến 7/2014. Mỗi nhóm 33 bệnh nhân: giảm đau
NMC bệnh nhân tự điều khiển (PCEA) và truyền liên tục (CEIA). Giảm đau sau mổ gồm paracetamol 1g TTM/
8giờ và giảm đau NMC bupivacaine 0,125%. Nhóm CEIA truyền 4ml/giờ (4-8ml/ giờ), nhóm PCEA 2ml/ giờ,
bolus 2ml/giờ, thời gian khoá 15 phút. Theo dõi mức độ đau VNS khi nghỉ và khi ho sau mổ, tổng lượng thuốc tê
bupivacaine, morphine, tỉ lệ tác dụng phụ, thời gian có trung đại tiện, ăn đường miệng và thời gian xuất viện.
Kết quả: 30 phút sau liều đầu, VNS giảm ở nhóm PCEA từ 5,2 xuống 1,4, và CEIA từ 4,9 xuống 2,5. Các
thời điểm ghi nhận điểm đau khi nghỉ và ho, VNS trung bình nhóm PCEA đều thấp hơn nhóm CEIA, cả hai
nhóm đều đạt hiệu quả giảm đau VNS< 4. Lượng bupivacaine trong 24 và 48 giờ và tỉ lệ bệnh nhân phải tiêm
morphine thấp hơn ở nhóm PCEA. Tác dụng phụ chủ yếu là buồn nôn, nôn ói và thời gian có trung tiện, đại tiện,
ăn đường miệng và xuất viện sau mổ tương tự ở hai nhóm.
Kết luận: Giảm đau NMC bệnh nhân tự điều khiển sau phẫu thuật bụng trên đạt hiệu quả tốt, giảm lượng
thuốc tê và morphine dùng toàn thân.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 251 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh hiệu quả tê ngoài màng cứng truyền liên tục và tê ngoài màng cứng bệnh nhân tự điều khiển giảm đau sau phẫu thuật bụng trên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 413
SO SÁNH HIỆU QUẢ TÊ NGOÀI MÀNG CỨNG TRUYỀN
LIÊN TỤC VÀ TÊ NGOÀI MÀNG CỨNG BỆNH NHÂN
TỰ ĐIỀU KHIỂN GIẢM ĐAU SAU PHẪU THUẬT BỤNG TRÊN
Nguyễn Trung Cường*, Đinh Hữu Hào*
TÓM TẮT
Mục tiêu: So sánh hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật bụng trên qua catheter ngoài màng cứng (NMC) bằng
truyền liên tục và bệnh nhân tự điều khiển.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng trên 66 bệnh
nhân được phẫu thuật vùng bụng trên, ASA I, II, III từ 8/2013 đến 7/2014. Mỗi nhóm 33 bệnh nhân: giảm đau
NMC bệnh nhân tự điều khiển (PCEA) và truyền liên tục (CEIA). Giảm đau sau mổ gồm paracetamol 1g TTM/
8giờ và giảm đau NMC bupivacaine 0,125%. Nhóm CEIA truyền 4ml/giờ (4-8ml/ giờ), nhóm PCEA 2ml/ giờ,
bolus 2ml/giờ, thời gian khoá 15 phút. Theo dõi mức độ đau VNS khi nghỉ và khi ho sau mổ, tổng lượng thuốc tê
bupivacaine, morphine, tỉ lệ tác dụng phụ, thời gian có trung đại tiện, ăn đường miệng và thời gian xuất viện.
Kết quả: 30 phút sau liều đầu, VNS giảm ở nhóm PCEA từ 5,2 xuống 1,4, và CEIA từ 4,9 xuống 2,5. Các
thời điểm ghi nhận điểm đau khi nghỉ và ho, VNS trung bình nhóm PCEA đều thấp hơn nhóm CEIA, cả hai
nhóm đều đạt hiệu quả giảm đau VNS< 4. Lượng bupivacaine trong 24 và 48 giờ và tỉ lệ bệnh nhân phải tiêm
morphine thấp hơn ở nhóm PCEA. Tác dụng phụ chủ yếu là buồn nôn, nôn ói và thời gian có trung tiện, đại tiện,
ăn đường miệng và xuất viện sau mổ tương tự ở hai nhóm.
Kết luận: Giảm đau NMC bệnh nhân tự điều khiển sau phẫu thuật bụng trên đạt hiệu quả tốt, giảm lượng
thuốc tê và morphine dùng toàn thân.
Từ khóa: Phẫu thuật bụng trên, giảm đau NMC bệnh nhân tự điều khiển, giảm đau NMC truyền liên tục.
ABSTRACT
PATIENT-CONTROLLED EPIDURAL ANALGESIA VERSUS CONTINUOUS
EPIDURAL INFUSION ANALGESIA FOR POSTOPERATIVE PAIN CONTROL
IN UPPER ABDOMINAL SURGERY
Nguyen Trung Cuong, Dinh Huu Hao
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 413 - 418
Background–Objectives: To compare the effects of pain relief after upper abdominal surgery between
continuous epidural infusion analgesia (CEIA) and patient-controlled epidural analgesia (PCEA).
Methods: A randomized controlled trial, 66 patients each group of 33 patients with upper abdominal
surgery, ASA I, II, III from 8/2013 to 7/2014. Postoperative pain relief included paracetamol 1g IV/8 hours and
bupivacaine 0.125% epidural analgesia. Group of CEIA received 4 ml/hour (4-8ml/hour), group of PCEA 2 ml/h,
bolus 2 ml/h, lockout time 15 minutes. Pain scores were recorded via verbal numeric scale at rest and coughing
after surgery, the total amount of anesthetic bupivacaine, morphine, side effects rate, flatus, defecating, oral
feeding and discharge time.
Results: VNS decreased from 4.2 to 1.4 in PCEA group and 4.9 to 2.5 in CEIA group after 30 min. Means
of VNS at rest and coughing in PCEA group were statistically significant lower than those in CEIA group at
most of the time. There were no statistically significant difference in side effects (nausea, vomiting and gas, bowel,
* BV Nhân Dân Gia Định
Tác giả liên lạc: BSCK2. Nguyễn Trung Cường ĐT: 0918045257 Email: ngtrungcuong@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 414
enteral nutrition and discharge) between two groups. The number of incremental doses of analgesic bupivacaine
and morphine in CEIA group were statistically significant higher in PCEA group. Satisfaction of patients were
statistically significant higher in PCEA group.
Conclusion: PCEA patients achieve better efficiency after upper abdominal surgery, reduced local
anesthetics and morphine provides.
Keywords: upper abdominal surgery, patient-controlled epidural analgesia, continuous epidural infusion
analgesia.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật vùng bụng trên gồm phẫu thuật
dạ dày tá tràng, gan, mật, tuỵ, lách đều là
phẫu thuật lớn, đau sau mổ ảnh hưởng nhiều
đến hô hấp, do đó vấn đề giảm đau có vai trò
quan trọng trong quá trình hồi phục của bệnh
nhân (BN). Gây tê giảm đau ngoài màng cứng
(NMC) là phương pháp giảm đau chủ lực trong
giảm đau đa mô thức ở BN được phẫu thuật
vùng bụng trên. Nhiều nghiên cứu chứng minh
hiệu quả giảm đau tốt và ít tác dụng phụ về hô
hấp, nôn ói, dị ứng bí tiểu. Giảm đau NMC
truyền liên tục (Continuous Epidural Infusion
Analgesia - CEIA), liều lượng thuốc được định
sẵn có thể vượt quá hoặc chưa đủ theo nhu cầu
của BN, nhân viên y tế cần thường xuyên đánh
giá mức độ đau của BN và điều chỉnh tốc độ
bơm thuốc tê. Trong khi giảm đau NMC BN tự
điều khiển (Patient controlled Epidural
Analgesia - PCEA), BN tự đánh giá đau và tự
nạp thêm thuốc tê theo nhu cầu được cài đặt giới
hạn an toàn trên máy bơm điện, tránh trường
hợp liều giảm đau không đủ hoặc quá liều thuốc
tê, giảm được nhu cầu dùng morphine toàn
thân. PCEA giảm được các tác dụng phụ của
thuốc nhóm morphine và quá liều thuốc tê. Ứng
dụng phương pháp giảm đau PCEA ngày càng
phổ biến, nhiều tác giả báo cáo cho thấy PCEA
có nhiều ưu điểm trong những phẫu thuật lớn,
đặc biệt là vùng ngực, bụng trên(1,3,5,6). Mục tiêu
nghiên cứu của chúng tôi:
So sánh hiệu quả giảm đau, tổng liều thuốc
tê bupivacaine và thuốc giảm đau morphine
toàn thân sau phẫu thuật bụng trên qua
catheter NMC bệnh nhân tự điều khiển với
truyền liên tục.
So sánh sự hài lòng của BN về hiệu quả
giảm đau, tỉ lệ tác dụng không mong muốn:
suy hô hấp, dị ứng, buồn nôn, nôn ói, ở hai
nhóm giảm đau.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
66 Bệnh nhân đuợc lên chương trình mổ với
chỉ định phẫu thuật ở tầng trên ổ bụng như
phẫu thuật cắt u gan, tá tràng, dạ dày, tụỵtại
bệnh viện Nhân dân Gia Định trong thời gian từ
tháng 08/2013 đến tháng 07/2014.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân trong dân số nghiên cứu tuổi từ
18 đến 80, xếp loại ASA I, II, III có tri giác tỉnh
táo và hợp tác tốt trong việc ứng dụng kỹ thuật
tích hợp cho bệnh nhân tự bơm thêm thuốc vào
khoang NMC.
Tiêu chuẩn loại trừ
Tiền sử: suy gan, suy thận (creatinin > 150
mcmol/l), suy tim, ghép tạng, tiểu đường, béo
phì (BMI> 40 kg/m2), dùng thuốc phiện kéo dài,
động kinh. Chống chỉ định gây tê ngoài màng
cứng: INR> 1,5giây , PTT> 44 giây, tiểu cầu
<100.000/ml, phẫu thuật cột sống trước đây.
Không có khả năng hiểu được đánh giá đau.
Phương pháp nghiên cứu
Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm
chứng, không mù.
66 BN được chia thành hai nhóm mỗi nhóm 33
BN, nhóm truyền liên tục (CEIA) và nhóm bệnh
nhân tự điều khiển (PCEA).
Tiến hành nghiên cứu
Chuẩn bị bệnh nhân
Thăm khám tiền mê, đánh giá ASA, Ổn định
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 415
các chức năng hô hấp, tuần hoàn, dinh dưỡng,
nội tiếtGiải thích rõ về kỹ thuật cũng như các
tai biến, biến chứng và tác dụng phụ có thể xảy
ra trong và sau mổ của phương pháp gây tê
NMC và gây mê, sử dụng các thuốc an thần đêm
trước phẫu thuật. Phiếu thông tin và giải thích
cho BN tham gia nghiên cứu, cam kết đồng ý
thực hiện.
Chuẩn bị dụng cụ
Phương tiện gây mê hồi sức và các thuốc
dùng trong gây mê hồi sức, theo dõi điện tim
(ECG), độ bão hòa oxy đo bằng mạch nảy SpO2,
mạch, huyết áp không xâm lấn.
Thuốc tê: bupivacaine 0,5%, Lidocain 2% 2ml
dùng để tê tại chỗ. Bộ Kim tê Tuohy 18G: Perifix
420 Complete set, B.Braun. Máy bơm điện
Perfusor Space của hãng B.Braun có tích hợp bộ
phận bệnh nhân tự điều khiển NMC (PCEA).
Tiến hành
- Tiếp nhận BN tại phòng mổ, thiết lập
đường truyền tĩnh mạch, ghi nhận M, HA, thở
oxy 2 mũi 5l/p, tiền mê 0,05 mg/kg midazolam.
- Thực hiện đặt catheter vào khoang NMC ở
khe liên đốt N8 – N9, test 3ml lidocain 1% pha
adrenalin 1/400.000, theo dõi giảm đau và rút
catheter 48 giờ sau mổ.
- Hai nhóm BN được gây mê toàn diện qua
nội khí quản: Khởi mê với sufentanil, propofol,
rocuronium duy trì mê với sevoflurane. Trong
quá trình mổ, BN được kiểm soát các thông số
mạch, HA, SpO2, độ giãn cơ với máy TOF-
watch, bổ sung các thuốc giảm đau sufentanil
mỗi 0,1 µg/kg, giãn cơ rocuronium 0,1mg/kg để
đảm bảo gây mê cân bằng, liều sufentanil cuối
cùng được cho 30 phút trước kết thúc phẫu
thuật, truyền tĩnh mạch 1 g paracetamol khi
đóng da. Kết thúc phẫu thuật BN được hoá giải
giãn cơ, chuyển đến phòng hồi tỉnh, theo dõi và
rút nội khí quản khi đủ tiêu chuẩn.
- Giảm đau sau mổ được đánh giá theo
thang điểm VNS (Verbal Numeric Scale):
Thuốc giảm đau cho hai nhóm: bupivacaine
0,125% qua catheter NMC + paracetamol 1g
truyền tĩnh mạch mỗi 8 giờ (3 gram/ ngày)
+ Liều thuốc tê khởi đầu được tính dựa vào
chiều cao của BN : V(ml) = [chiều cao (cm) –
100]/ 10, chỉ định liều khởi đầu tương tự cho BN
ở cả hai nhóm.
+ Nhóm CEIA được tiếp tục truyền thuốc tê
NMC liên tục 4ml/ giờ (4 – 8ml/ giờ), nhóm
PCEA truyền NMC 2ml/ giờ, bolus 2ml, thời
gian khoá ( lockout time) 15 phút.
Cả hai nhóm được theo dõi VNS tại các thời
điểm trước và sau tiêm liều đầu, 15p, 30p, 1 giờ,
2, 4, 6, 8, 12, 24, 36 và 48 giờ. Nều VNS ≥ 4, bơm
thêm thuốc tê 5ml/ lần được cho 2 lần, morphine
được chỉ định nếu VNS vẫn ≥ 4 với liều 0,04mg/
kg cân nặng.
+ Theo dõi các chỉ số: M, HA, thở, SpO2, mức
độ đau, các tác dụng phụ, ghi nhận thời gian có
các dấu hiệu hồi phục: thời gian trung tiện, đại
tiên, thời gian ăn trở lại đường miệng và thời
gian xuất viện.
Ghi nhận mức độ hài lòng của BN theo
thang điểm Likert Scale với 5 mức độ: 1= hoàn
toàn không hài lòng, 2= không hài lòng, 3= hài
lòng, 4= rất hài lòng, 5= hoàn toàn hài lòng.
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung
Tổng số BN nghiên cứu 66, mỗi nhóm 33 BN.
Không có sự khác biệt về tuổi, giới, cân nặng,
chiều cao, phân độ ASA, thời gian thực hiện thủ
thuật gây tê NMC, thời gian phẫu thuật, chỉ định
phẫu thuật ở hai nhóm (p> 0,05).
Bảng 1: Tác dụng phụ
Biến số
PCEA
(n = 33)
CEIA
(n = 33)
P
Ngứa
Buồn nôn, nôn ói
Tụt HA
0
(10), 30,3
0
(2), 6,21
(8), 24,2
(1), 3
0,35
Trung bình± độ lệch chuẩn (nhỏ nhất – lón
nhất).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 416
Mức độ giảm đau theo thang điểm VNS
khi nghỉ và khi ho.
Biểu đồ 1. Điểm VNS khi nghỉ
Biểu đồ 2. Điểm VNS khi ho
Sinh hiệu sau mổ
Sự thay đổi mạch, HA, nhịp thở và độ bão
hoà oxy máu ở hai nhóm ở các thời điểm sau mổ
(p> 0,05).
Lượng thuốc tê bupivacaine dùng NMC và
morphine dùng toàn thân.
Bảng 2. Lượng thuốc tê và morphine sử dụng
Biến số
PCEA
(n = 33)
CEIA
(n = 33)
p
Lượng bupivacaine
24 giờ sau mổ
48 giờ sau mổ
133,1±25
269,4±39
164,1±20
325,8±36
0,29
0,97
Lượng morphine
Số ca chỉ định
Liều trung bình/ BN
được chỉ định (mg/BN)
(4) 12,1%
3,5±1,7
(14) 42,4%
4,1±2,98
0,006
0,09
Sự hài lòng của bệnh nhân
Bảng 3. Mức độ hài lòng sau 24, 48 giờ sau mổ
Biến số
PCEA
(n = 33)
CEIA
(n = 33)
p
Mức độ hài lòng 24 giờ
1
2
3
4
5
0
(3), 9,1
(9), 27,3
(15), 45,5
(6), 18,2
0
(1), 3,0
(21), 63,6
(10), 30,3
(1), 3,0
0,01
Biến số
PCEA
(n = 33)
CEIA
(n = 33)
p
Mức độ hài lòng 48 giờ
1
2
3
4
5
0
(1), 3,0
(15), 45,5
(15), 45,5
(2), 6,1
0
(3), 9,1
(18), 54,5
(12), 36,4
(0), 0
0,25
Thời gian
có trung tiện (giờ)
có đại tiện (ngày)
ăn đường miệng (giờ)
xuất viện (ngày)
44,1±25
3,5±1,5
50,1±28
10,1±2,9
40,3±29
4,0±1,3
49,2±28
9,1±3,9
0,08
0,18
0,52
0,85
BÀN LUẬN
Hiệu quả giảm đau của hai phương pháp
PCEA và CEIA: chúng tôi ghi nhận thời gian
trung bình xuất hiện cơn đau đầu tiên sau mổ
ở hai nhóm gần tương đương nhau, tuy vậy
thời điểm xuất hiện cơn đau đầu tiên ở từng
bệnh nhân có khác nhau. Nhóm nghiên cứu
PCEA từ 25 – 180 phút, (trung bình 86,7 phút),
còn nhóm chứng CEIA từ 20 – 255 phút ( trung
bình 75,9 phút).
Mức độ đau sau mổ
30 phút sau tiêm thuốc tê giảm đau thì VNS
lúc nghỉ nhóm PCEA 1,42 và nhóm CEIA là 2,58
thấp hơn nhiều so với trước khi tiêm liều đầu 5,2
và 4,9 (p<0,01). Liều khởi đầu thuốc bupivacaine
bơm NMC phối hợp với paracetamol truyền tĩnh
mạch đủ để đạt hiệu quả giảm đau. Nguyễn
Trung Kiên báo cáo hiệu quả PCEA với
bupivacaine 0,125% + 01 mcg fentanyl/ml đạt
điểm VNS 1,61 sau 15 phút bơm liều đầu(2).
Nghiên cứu này, BN là người cao tuổi, nhạy với
thuốc tê hơn người trẻ. Hoàng Xuân Quân cũng
dùng liều đầu bupivacaine 0,25%, ghi nhận điểm
đau sau liều khởi đầu 15 phút là 2,36 ± 0,7, sau 30
phút mới đạt VNS < 2(1).
Từ phút thứ 30 trở đi, điểm đau VNS khi
nghỉ ở nhóm PCEA và nhóm CEIA đều dao
động < 4. Đa số các thời điểm đánh giá, điểm
đau nhóm CEIA cao hơn PCEA (Biểu đồ 1). Thời
điểm 30 phút, 4 giờ, 8 giờ tiếp theo, điểm đau
VNS ở nhóm PCEA là 1,42; 1,76; 1,48 thấp hơn so
với nhóm CEIA là 2,58; 2,73; 2,58 và khác biệt có
ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 417
Khi gắng sức (ho, khạc, thở sâu,), ghi nhận
mức độ đau tại đa số các thời điểm cho thấy
VNS ở nhóm CEIA có cao hơn nhóm PCEA ở
cùng thời điểm. Mặc dù, ghi nhận VNS ở nhiều
thời điểm sự khác biệt không có ý nghĩa thống
kê (p > 0,05), nhưng ở thời điểm 1 giờ, 4 giờ và 8
giờ, nhóm CEIA mức đau VNS là 4,58; 4,18; 4,18,
trong khi nhóm PCEA mức đau trung bình là
3,18; 3,18; 3,24. Nhóm PCEA, VNS khi nghỉ và
ho đều < 4 ở tất cả các thời điểm trong khi nhóm
CEIA VNS > 4 khi ho ở thời điểm 1 giờ, 2giờ, 4
giờ, 8 giờ, và nằm yên vẫn đạt < 4.
Một số BN truyền liên tục bupivacaine 4
ml/ giờ là đủ, nhưng một số khác thì không đủ
giảm đau tốt, phải tăng liều bupivacaine.
Bolus bổ sung thuốc tê chậm đạt VNS < 4,
nhiều BN cần chỉ định morphine để nhanh
chóng đạt VNS < 4. Điều này giải thích số BN
nhóm CEIA được chỉ định morphine nhiều
hơn nhóm PCEA. Biểu đồ 2 cho thấy đường
biểu diễn mức đau trung bình VNS không ổn
định ở nhóm CEIA, cho thấy cần thiết có sự
can thiệp chỉnh liều thuốc tê, cho thêm
morphine, việc kiểm soát để đạt hiệu quả giảm
đau ổn định kém hơn. Dù vậy cả hai phương
pháp đều có hiệu quả giảm đau sau mổ tốt.
Mức độ đau trung bình theo thời gian trong
nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự nghiên
cứu của tác giả Hoàng Xuân Quân, Nguyễn Văn
Quỳ, Erturk E, Essam A, Mann C,
NightingaleSau mổ, khi được giảm đau NMC
và duy trì liên tục, điểm đau trung bình VNS
đều < 4.(1,2,5,6,7,8)
Một số nghiên cứu khác, các tác giả chỉ ghi
nhận điểm đau trung bình trong mỗi ngày hậu
phẫu, không cụ thể theo giờ và kết quả cho thấy
kỹ thuật giảm đau NMC PCEA đều đạt hiệu quả
tốt: Salman N VNS ngày 1: 0,3 ± 0,7, ngày 2: 0,2 ±
0,6, ngày 3: 0.1 ± 0.30(9). Standl T so sánh mức độ
đau trung bình của nhóm dùng ropivacaine
NMC theo kỹ thuật PCEA và CEIA là 37 ± 32 so
với 59 ± 27 (thang điểm 100), đồng thời nhóm
dùng bupivacaine cũng cho kết quả giảm đau
tương tự ropivacaine(10).
Liều lượng thuốc sử dụng
* Nghiên cứu của chúng tôi, lượng
bupivacaine sử dụng giảm đau sau mổ 24 giờ
đầu ở nhóm PCEA thấp hơn CEIA: 133,14 ± 25
mg so với 164,18 ± 20 mg, và trong 48 giờ là
269,47 ± 39 mg và 325,89 ± 36 mg. Dù sự khác
biệt không có ý nghĩa thống kê (p = 0,29), thực tế
ở nhóm PCEA có BN chỉ cần 78 mg bupivacaine
trong 24 giờ đầu, vẫn đạt hiệu quả giảm đau tốt.
Kết quả của chúng tôi tương tự nghiên cứu của
Nguyễn Trung Kiên: lượng bupivacaine 132 mg/
24 giờ và 252 mg/ 48 giờ. Một số tác giả tính tổng
lượng thuốc tê dùng PCEA như Mann C:
bupivacaine 169 mg/24giờ, 158 mg/ 24giờ tiếp
theo(7), Berti M: bupivacaine 295 mg/ 48 giờ(4).
Việc cung cấp lượng thuốc tê phù hợp với nhu
cầu của BN tự điều khiển theo mức độ đau sẽ
giảm can thiệp của nhân viên y tế là những ưu
điểm của phương pháp giảm đau PCEA.
*Lượng morphine bổ sung giảm đau toàn
thân
Kết quả của chúng tôi: tần suất sử dụng
morphine ở nhóm PCEA là 4 (12,1 %) so với 14
(42,4 %) của nhóm CEIA. Tần suất dùng
morphine ở nhóm CEIA cao hơn PCEA và khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,006), chứng tỏ
hiệu quả giảm đau của CEIA không được duy trì
liên tục khi BN nhạy đau. BN tự bổ sung thuốc
tê kịp thời (tự điều khiển PCEA), hiệu quả giảm
đau được duy trì, giảm được chỉ định morphin,
là ưu điểm của PCEA. Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi tương tự tác giả Nguyễn Trung Kiên.
Tác dụng phụ ở hai nhóm nghiên cứu chủ
yếu là buồn nôn và nôn ói, 2 (6,1%) trường hợp
bị ngứa đều có dùng morphine ở nhóm CEIA,
không gặp các tác dụng phụ khác. Tỉ lệ buồn
nôn, nôn ói ở hai nhóm khác biệt không có ý
nghĩa thống kê. Chúng tôi không gặp tai biến do
kỹ thuật gây tê hoặc giảm đau không hiệu quả.
Thời gian phục hồi, thời gian xuất viện và sự
hài lòng của bệnh nhân : Thời gian có trung tiện,
đại tiện và ăn trở lại đường miệng sau mổ ở hai
nhóm nghiên cứu tương tự nhau, khác biệt
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 418
không có ý nghĩa thống kê. Nhóm PCEA và
CEIA có thời gian trung tiện trở lại sau mổ: 44,1
± 25 giờ và 40,3 ± 29 giờ, đại tiện là 3,5 ± 1,5 ngày
và 4,0 ± 1,3 ngày và ăn uống trở lại sau 50,1 ± 28
giờ và 49,2 ± 28 giờ. Như vậy, thực sự hai kỹ
thuật giảm đau không ảnh hưởng nhiều đến sự
phục hồi chức năng tiêu hoá xét trong cùng điều
kiện phẫu thuật và chế độ dinh dưỡng chăm sóc
hậu phẫu. Nghiên cứu của Mann C, thời gian
trung và đại tiện sau mổ là 70 giờ, 80 giờ. Berti
M, thời gian có trung tiện cao hơn của chúng tôi,
nhưng thời gian có đại tiện là tương đương:
nhóm PCEA trung bình 84 giờ (3,5 ngày) và
CEIA là 96 giờ (4 ngày)(4).
Thời gian xuất viện sau phẫu thuật cũng
trong nghiên cứu của chúng tôi ở hai nhóm
PCEA và CEIA tương tự nhau: 10,1 ± 2,9 ngày và
9,1 ± 3,9 ngày. Thống kê hai nhóm không có sự
khác biệt (P = 0,85). Nghiên cứu của chúng tôi
tương tự kết quả của Mann C: 10,5 – 11,5 ngày(7).
Sự hài lòng của BN : nghiên cứu của chúng
tôi ghi nhận đa số các BN ở hai nhóm hài lòng
mức 3 trở lên 24 giờ đầu sau mổ, nhóm PCEA đa
số là rất hài lòng và hoàn toàn hài lòng (mức 4, 5)
chiếm 63,7 %, trong khi nhóm CEIA chỉ 33,3 %,
(p = 0,01). Còn lại số bệnh nhân hài lòng ở mức 3
ở hai nhóm là 27,3 % và 63,6 %. 48 giờ sau mổ, tỉ
lệ BN hài lòng ở hai nhóm PCEA và CEIA không
có sự khác biệt(p = 0,25). Nghiên cứu của các tác
giả khác ghi nhận sự hài lòng của BN ở mức khá
cao: Essam A: trung bình 9,2 (8-10), Nguyễn
Trung Kiên 75 % ở nhóm PCEA rất hài lòng, của
Nightingale, hầu hết BN đều hài lòng từ mức 3 –
4 (thang điểm 4).
KẾT LUẬN
Giảm đau NMC bệnh nhân tự điều khiển
(PCEA) đạt hiệu quả tốt và đảm bảo an toàn sau
phẫu thuật vùng bụng trên, giảm được liều
thuốc tê và morphine dùng toàn thân. Tỉ lệ tác
dụng phụ không đáng kể, chủ yếu nôn và buồn
nôn. Thời gian phục hồi trung đại tiện và ăn
uống, xuất viện tương tự nhóm truyền liên tục.
Mức độ hài lòng của BN nhóm PCEA cao hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Berti M, Fanelli G, Andrea Casati A, et al (2000), “ Patient
supplemented epidural analgesia after major abdominal
surgery with bupivacaine/fentanyl or ropivacaine/fentanyl.”
Can J anesth 47(1), pp. 27–32.
2. Erturk E, Kutanis D, Kaya FA (2014), “The Effectiveness of
Preemptive Thoracic Epidural Analgesia in Thoracic Surgery”,
BioMed Research International, pp.1- 6.
3. Essam A (2007), “Combined epidural-general anesthesia
(CEGA) In patients undergoing pancreatic surgery: comparison
between bupivacaine 0.125% and 0.25%,” AJAIC,10(1), pp.1-10.
4. Hoàng Xuân Quân, Nguyễn Quốc Kính (2012), “ So sánh hiệu
quả giảm đau sau mổ ngực do bệnh nhân tự điều khiển qua
đường ngoài màng cứng bằng bupivacaine-sufe