Sốt ve mò do Rickettsia có biến chứng viêm phổi mô kẽ và hạ oxy máu nặng

Chúng tôi trình bày một trường hợp bệnh nhân nam, 38 tuổi, làm vườn, sinh sống tại tỉnh Lâm Đồng. Bệnh nhân nhập viện trong tình trạng sốt kéo dài hơn 2 tuần lễ, tỉnh, mệt, vàng da, khó thở, suy hô hâp được chẩn đoán là nhiễm Rickettsia có biến chứng viêm phổi mô kẽ, giảm oxy máu nặng, suy hô hấp. Chẩn đoán xác định nhờ tìm thấy sang thương eschar ở vùng nách, mặt trước cánh tay phải được phát hiện trong quá trình thăm khám. Bệnh nhân được điều trị hồi sức với thở máy hỗ trợ qua nội khí quản, truyền dịch, kháng sinh đặc hiệu doxycyclin. Tình trạng lâm sàng cải thiện, hết sốt sau 2 ngày, rút nội khí quản và ngưng thở máy sau 4 ngày điều trị. Bệnh nhân hồi phục hoàn toàn, xuất viện sau 10 ngày điều trị. Chẩn đoán sớm, điều trị kịp thời với kháng sinh thích hợp và điều trị hỗ trợ tích cực đặc biệt quan trọng giúp giảm tỉ lệ tử vong và ngăn ngừa những biến chứng nghiêm trọng do nhiễm Rickettsia gây ra.

pdf6 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 183 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sốt ve mò do Rickettsia có biến chứng viêm phổi mô kẽ và hạ oxy máu nặng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 74 SỐT VE MÒ DO RICKETTSIA CÓ BIẾN CHỨNG VIÊM PHỔI MÔ KẼ VÀ HẠ OXY MÁU NẶNG Trần Quang Bính*, Đinh Hồng Cẩm* TÓM TẮT Chúng tôi trình bày một trường hợp bệnh nhân nam, 38 tuổi, làm vườn, sinh sống tại tỉnh Lâm Đồng. Bệnh nhân nhập viện trong tình trạng sốt kéo dài hơn 2 tuần lễ, tỉnh, mệt, vàng da, khó thở, suy hô hâp được chẩn đoán là nhiễm Rickettsia có biến chứng viêm phổi mô kẽ, giảm oxy máu nặng, suy hô hấp. Chẩn đoán xác định nhờ tìm thấy sang thương eschar ở vùng nách, mặt trước cánh tay phải được phát hiện trong quá trình thăm khám. Bệnh nhân được điều trị hồi sức với thở máy hỗ trợ qua nội khí quản, truyền dịch, kháng sinh đặc hiệu doxycyclin. Tình trạng lâm sàng cải thiện, hết sốt sau 2 ngày, rút nội khí quản và ngưng thở máy sau 4 ngày điều trị. Bệnh nhân hồi phục hoàn toàn, xuất viện sau 10 ngày điều trị. Chẩn đoán sớm, điều trị kịp thời với kháng sinh thích hợp và điều trị hỗ trợ tích cực đặc biệt quan trọng giúp giảm tỉ lệ tử vong và ngăn ngừa những biến chứng nghiêm trọng do nhiễm Rickettsia gây ra. Từ khóa: Rickettsia, sốt ve mò, viêm phổi mô kẽ, giảm oxy máu nặng, suy hô hấp cấp, eschar. ABSTRACT SCRUB TYPHUS FEVER DUE TO RICKETTSIA WITH INTERSTITIAL PNEUMONIA AND SEVERE HYPOXEMIA Tran Quang Binh, Dinh Hong Cam * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 74 - 79 We report a male patient, 38 year old, gardener, lives in Lam Dong province, admitted to Cho Ray hospital because prolonged fever over 2 weeks, jaundice, shortness of breath and dyspnea that was diagnosed scrub typhus due to Rickettsia with the complications of interstitial pneumonia and severe hypoxemia. The definite diagnosis based on the finding of eschar in the axillary area, in front of the right arm during the examination. Patient was treated with assisted mechanical ventilation, fluid infusion and specific antibiotic therapy with doxycycline. The clinical status improved with defervescence after 2 days, removed intubation and stopped mechanical ventilation after 4 days of therapy. Patient recovered completely and discharged after 10 days of treatment. Early diagnosis and appropriate treatment in time with antibiotics associated with supportive treatment are particular important to reduce the mortality and prevent severe complications caused by Rickettsia infection. Keywords: Rickettsia, scrub typhus, interstitial pneumonia, severe hypoxemia, acute respiratory failure, eschar. ĐẶT VẤN ĐỀ Sốt ve mò (Scrub typhus) là một bệnh sốt cấp tính với đặc trưng là sốt cao, nhức đầu, phát ban. Bệnh do vi khuẩn Gram âm Orientia tsutsugamushi (trước kia gọi là Rickettsia tsutsugamushi) sống trong tế bào gây ra. Bệnh thường gặp ở Việt Nam và ở vùng Đông Á và Đông Nam Á, miền bắc Australia và các đảo Tây Thái Bình Dương(7,8,5). Triệu chứng lâm sàng đặc trưng với loét eschar điển hình, nổi hạch toàn thân, phát ban trên da, các triệu chứng mơ hồ không đặc hiệu khác như đau cơ, nhức đầu và ho. Viêm mạch máu và viêm quanh mạch * Khoa Bệnh Nhiệt Đới BV Chợ Rẫy. Tác giả liên lạc: TS.BS. Trần Quang Bính. ĐT: 0903841479. Email: binhtq@hcm.vnn.vn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 75 máu khu trú hoặc lan tỏa có thể ảnh hưởng đến phổi, tim, gan, lách và hệ thần kinh trung ương(4). Bệnh cảnh lâm sàng đa dạng có thể thay đổi từ nhẹ đến nặng, từ tự giới hạn đến tử vong. Biến chứng nặng đe dọa tính mạng gồm: viêm não màng não, viêm cơ tim, loạn nhịp tim, suy thận, suy gan, viêm phổi, hội chứng suy hô hấp cấp (Acute respiratory distress syndrome- ARDS)(4). ARDS là một biến chứng hiếm gặp nhưng nghiêm trọng vì có tỉ lệ tử vong cao. Tại Việt Nam chưa có số liệu thống kê chính thức về những trường hợp nhiễm Rickettsia gây ARDS. Một nghiên cứu hồi cứu của 72 trường hợp sốt ve mò tại bệnh viện Chang Gung Memorial, Đài Loan ghi nhận tỉ lệ sốt ve mò có ARDS là 11,1% (8/72) và tỉ lệ tử vong của sốt ve mò có biến chứng ARDS là 25% (8). Việc chẩn đoán sớm và điều trị thích hợp giúp ngăn ngừa các biến chứng nghiêm trọng và giảm tỷ lệ tử vong trong sốt ve mò. Trong nghiên cứu này chúng tôi báo cáo một trường hợp sốt ve mò có biến chứng viêm phổi mô kẽ và giảm oxy máu nặng nhập bệnh viện Chợ Rẫy được chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời giúp cứu sống bệnh nhân. TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG Bệnh nhân Trần Thế H, 38 tuổi, giới tính nam. Nghề nghiệp: làm vườn. Địa chỉ: TP Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Nhập viện bệnh viện Chợ Rẫy (BVCR) ngày 24/10/2011. Lý do nhập viện: Viêm phổi, rối loạn điện giải, suy gan suy thận (Bệnh viện Lâm Đồng chuyển). Bệnh sử: Trước nhập viện 15 ngày, sau khi đi làm vườn bị mắc mưa, bệnh nhân về nhà ngủ dưới nền nhà một đêm. Những ngày sau đó bệnh nhân sốt cao (nhưng không ghi nhận nhiệt độ), nổi hồng ban trên da, bệnh nhân tự mua thuốc điều trị (không rõ loại thuốc), hồng ban trên da có giảm nhưng tình trạng sốt không cải thiện, thể trạng chung mệt ngày càng tăng, nên bệnh nhân đến khám và điều trị tại bệnh viện Lâm Đồng (BVLĐ) từ ngày 21/10/2011 đến 24/10/2011 với chẩn đoán viêm phổi, rối loạn điện giải, suy gan, suy thận. Tại BVLĐ bệnh nhân được điều trị với Ceftazidim trong 4 ngày nhưng tình trạng bệnh nhân không cải thiện, vẫn sốt cao nên được chuyển đến bệnh viện Chợ Rẫy (BVCR). Bệnh nhân đến khoa Cấp Cứu – BVCR (17h 45 - 24/10/2011) trong tình trạng tỉnh, mệt, sốt 39oC, mạch 120 lần/phút, huyết áp 120/80 mmHg, vàng da, vàng mắt, khám phổi ghi nhận có ít rale nổ rải rác ở 2 phế trường. Các cơ quan phủ tạng khác chưa ghi nhận gì bất thường. Kết quả X quang ngực thẳng ghi nhận tình trạng thâm nhiễm rốn phổi 2 bên. Chẩn đoán tại khoa cấp cứu BVCR: nhiễm trùng huyết từ nhiễm trùng hô hấp. Được điều trị với paracetamol (Perfalgan) 1g truyền tĩnh mạch, cefoperazone – sulbactam (Forekaxim) lọ 1g tiêm tĩnh mạch chậm (TMC), thở oxy 2 lít/phút, và sau đó chuyển đến khoa Bệnh Nhiệt Đới với chẩn đoán như trên. Tại khoa Bệnh nhiệt đới: (23h30 -24/10/2011): Bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc tốt, thở nhanh nông, nhịp thở 22 lần/phút, co kéo cơ hô hấp phụ, SPO2 82%. Mạch: 120 lần/phút; huyết áp: 120/80 mmHg; nhiệt độ 37oC, kết mạc mắt vàng; tim: đều, nhanh; phổi ít rale nổ, rale rít rải rác 2 phế trường; bụng mềm, gan lách không sờ chạm. Khám lâm sàng phát hiện vùng nách mặt trước cánh tay bên phải có một vết loét hình bầu dục, kích thước 0,5 x 1,5 cm, đóng mày đen, khô, trên nền hồng ban sậm màu điển hình của loét eschar do Rickettsia. Công thức máu: Bạch cầu (BC): 11,47 G/L (% Neu: 72,9%); Tiểu cầu (PLT): 178 G/L. Đông máu toàn bộ: PT: 13,70s; INR:1,13; FIB: 4,17g/L; APTT:39s X quang ngực thẳng: thâm nhiễm mô kẽ rải rác ở phổi (P), và mờ rãnh liên thùy phổi (T) (Hình 1). Chẩn đoán: Nhiễm Rickettsia có biến chứng viêm phổi, suy hô hấp cấp. Chẩn đoán phân biệt: Nhiễm trùng huyết đường vào từ nhiễm trùng hô hấp, suy hô hấp cấp. Bệnh nhân được điều trị Cefoperazone - Sulbactam (Forekaxim) 1g: 1 lọ TMC; Bricanyl ống 0,5 mg/ 2ml: 1 ống Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 76 tiêm dưới da (TDD); Ventoline spray: xịt họng 3 nhát; thở oxy qua mũi 5l/phút; Doxycyclin 0,1mg 1viên (uống). Diễn tiến lâm sàng Kết quả xét nghiệm: Khí máu động mạch (KMĐM): pH: 7,485; PCO2: 30mmHg; PO2: 53mmHg; HCO3: 22,4mmol/L; Na+: 126 mg/dL; K+: 3,5 mg/ dL. Glucose: 108 mg/ dL. Bệnh nhân được cho thở mask có túi khí 10lít/phút. Kiểm tra lại KMĐM (sau 30 phút thở mask): pH: 7,473; PCO2: 24,9mmHg; PO2: 54 mmHg; HCO3: 18,3mmol/L; BEecf:-5mmol/L. Tình trạng giảm oxy máu, suy hô hấp và khí máu không cải thiện với thở mask có túi khí, bệnh nhân được chỉ định đặt nội khí quản và hô hấp hỗ trợ, cài đặt máy thở với các thông số Vt: 580 mL/phút; tần số f: 18 lần/phút; FiO2: 80%; PEEP: 4. Kết quả KMĐM sau 30 phút thở máy: pH: 7,448; PCO2: 31mmHg; PO2: 96 mmHg; HCO3: 23,8mmol/L. Ngày 25/10/2011: bệnh nhân tỉnh, sốt 39,5o C, vẫn tiếp tục hô hấp hỗ trợ qua ống nội khí quản, điều chỉnh FiO2: 50%; SpO2: 98%; tim đều rõ; phổi: thông khí đều 2 bên, không nghe ran; bụng mềm, gan lách không sờ chạm. Kết quả xét nghiệm chức năng gan thận với ALT: 204 U/L; AST: 289 U/L; Bilirubin toàn phần: 3,98 mg/dL (bil trực tiếp: 2,23 mg/dL); BUN: 15mg/ dL; Creatinin: 0,85 mg/ dL; Na+: 120mg/dL; K+: 3,5mg/ dL; Procalcitonin < 0,5ng/mL. Bệnh nhân được tiếp tục cho thở máy hỗ trợ, và điều trị: natrichlorua 0,9 % 500ml x 3 TTM LXg/phút; kháng sinh Forekaxim 1g 2lọ x 2 (TMC); Doxycyclin 0,1g 1viên x 2 uống qua sonde dạ dày; Fortec 25mg 3 viên x 2 uống qua sonde dạ dày. Kết quả X quang ngực (27/11/2011): thâm nhiễm mô kẽ rải rác ở phế trường và vùng rốn phổi P (hình 2). Bệnh nhân hồi phục tốt, hết sốt sau 2 ngày điều trị, được rút nội khí quản sau 4 ngày thở máy hỗ trợ. X quang ngực trở về bình thường ngày 31/10/2011 (hình 3), men gan giảm, kết quả cấy máu và cấy đàm 2 lần đều âm tính. Bệnh nhân được xuất viện ngày 3/11/2011 trong tình trạng hồi phục hoàn toàn sau 10 ngày điều trị. BÀN LUẬN Sốt ve mò (Scrub typhus) là một bệnh sốt cấp tính với đặc trưng sốt cao, nhức đầu và phát ban do Rickettsia tsutsugamushi (hiện nay gọi là Orientia tsutsugamushi) gây ra thường hay gặp ở vùng Đông Á và Đông Nam Á, miền bắc Australia và các đảo Tây Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam (7,8,5). Nguồn bệnh chính của sốt ve mò là loài gặm nhấm hoang dại, trung gian truyền bệnh của bệnh này là ấu trùng mò họ Trombiculidae(1). Orientia tsutsugamushi là một trực khuẩn gram âm, kí sinh nội bào bắt buộc, gây bệnh bằng cách tăng sinh trong tế bào nội bì mạch máu nhỏ gây viêm các mạch máu và làm cho các tế bào này trương phình và hư hại. Viêm mạch máu nhiều nơi gây nhiều biến chứng lên các cơ quan như tim, thận, gan, não, phổi Các biến chứng nghiêm trọng gồm: viêm não màng não, viêm cơ tim, loạn nhịp tim, suy gan, suy thận, choáng nhiễm trùng, viêm phổi, suy hô hấp ở nhiều mức độ khác nhau và cả hội chứng suy hô hấp cấp (Acute respiratory distress syndrome – ARDS) đã được ghi nhận trong y văn. Các biến chứng này thường xảy ra vào tuần thứ 2 của bệnh và có khả năng gây tử vong nếu chẩn đoán muộn và không điều trị kịp thời (6). Biểu hiện bệnh lý tại phổi được ghi nhận trong sốt ve mò thường gặp là viêm phổi mô kẽ, nhưng lâm sàng có thể gặp khá đa dạng từ viêm phế quản phổi, hạch rốn phổi, viêm phổi mô kẽ, tràn dịch màng phổi, phù phổi phế nang, xẹp phổi khu trú đến suy hô hấp và ARDS(5). ARDS là một biến chứng nghiêm trọng, hiếm gặp với tỉ lệ tử vong cao. R.W. Tsay và F.Y. Chang báo cáo tỷ lệ viêm phổi là 36% trong đó 42% số bệnh nhân bị viêm phổi tiến triển đến ARDS (7). Nghiên cứu hồi cứu của Chin - Chou Wang, Shih - Feng Liu và cộng sự cho thấy tỷ lệ sốt ve mò có biến chứng ARDS chiếm tỉ lệ 11,1% và tỷ lệ tử vong Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 77 do ARDS là 25% chủ yếu do việc chẩn đoán và điều trị trễ (8). Một số tác giả khác xem tình trạng giảm oxy máu nặng, hạ huyết áp, giảm tiểu cầu, giảm albumin máu và viêm phổi mô kẽ là các thông số đại diện cho mức độ nặng của nhiễm Rickettsia(5). Trong báo cáo này, chúng tôi trình bày một trường hợp bệnh nhân sốt kéo dài 15 ngày tự điều trị với thuốc không rõ loại và được điều trị tại BVLĐ với kháng sinh Ceftazidim 3g/ngày trong 3 ngày nhưng tình trạng lâm sàng không cải thiện, sốt cao, suy hô hấp tiến triển nên được chuyển đến BVCR. Việc chẩn đoán nhiễm trùng huyết đường vào từ nhiễm trùng đường hô hấp là hợp lý. Diễn tiến lâm sàng của bệnh nhân đến suy hô hấp cấp nhanh chóng chỉ sau 6 giờ vào khoa cấp cứu BVCR. Tại khoa Bệnh nhiệt đới với biểu hiện khó thở, thở nhanh nông, nhịp thở tăng, có co kéo cơ hô hấp phụ, khám phổi có ghi nhận ran nổ và ran rít và khí máu động mạch cho thấy SpO2 84%, PaO2 53mmHg. Dữ kiện lâm sàng, kết quả của x quang ngực và tình trạng giảm oxy máu nặng thể hiện trên khí máu động mạch của bệnh nhân chưa đủ tiêu chuẩn để chẩn đoán ARDS. Tuy vậy bệnh nhân được chẩn đoán là suy hô hấp là chính xác, việc điều trị ban đầu cho thấy bệnh nhân không đáp ứng với thở oxy qua mask với tình trạng khí máu động mạch PaO2 54mmHg không cải thiện sau 30 phút thở mask có túi khí. Bệnh nhân được chỉ định phương thức xâm nhập với thở máy qua nội khí quản là một chỉ định phù hợp, và là một biện pháp điều trị tích cực để hồi sức giúp bệnh nhân qua giai đoạn nguy kịch. Chẩn đoán nguyên nhân nhiễm Rickettsia biến chứng viêm phổi mô kẽ, giảm oxy máu nặng, suy hô hấp do quá trình thăm khám đã tìm thấy sang thương loét Eschar điển hình của Rickettsia. Việc bổ sung trị liệu đặc hiệu với kháng sinh Doxycyline khi nghĩ đến nguyên nhân do Rickettsia là phù hợp, điều này giúp bệnh nhân phục hồi nhanh chóng, hết sốt sau 2 ngày và được rút nội khí quản sau 3 ngày điều trị. Kháng sinh chọn lựa ban đầu tại cấp cứu và sau đó được tiếp tục là Cefoperazone - Sulbactam (Forekaxim) khi chẩn đoán nghi ngờ nhiễm trùng huyết từ đường hô hấp, và sau đó được tiếp tục khi chưa loại được bội nhiễm phổi trong quá trình đặt nội khí quản và thở máy là hợp lý. Trên bệnh nhân này của chúng tôi, các xét nghiệm bilirubin và men gan tăng cũng phản ánh có tổn thương chức năng gan, trong khi chức năng thận, lượng tiểu cầu vẫn còn trong giới hạn bình thường. Dựa vào việc tìm thấy sang thương eschar, và kết quả của xét nghiệm cấy máu và 2 lần cấy đàm âm tính, đồng thời xét nghiệm procalcitonin <0,5ng/ mL giúp khẳng định nguyên nhân gây suy hô hấp là biến chứng từ viêm phổi mô kẽ do nhiễm Rickettsia. Những xét nghiệm vi sinh học hiện nay để chẩn đoán sốt ve mò còn rất nhiều hạn chế, không khả thi cho việc chẩn đoán sớm trong điều kiện nước ta hiện nay. Phản ứng Weil Felix có độ đặc hiệu và nhạy cảm thấp. Phản ứng kháng thể miễn dịch huỳnh quang gián tiếp (IFA) được coi là tiêu chuẩn vàng nhưng xét nghiệm này cần được làm 2 lần cách nhau 2 tuần để so sánh hiệu giá kháng thể nên không giúp ích nhiều cho việc chẩn đoán sớm, mặt khác giá thành khá cao nên thường chỉ thực hiện trong phòng xét nghiệm phục vụ cho việc nghiên cứu; Kỹ thuật phản ứng chuỗi trùng hợp (Polymerase chain reaction – PCR) có độ đặc hiệu cao 96-99% nhưng độ nhạy thấp chỉ khoảng 40-56%(2). Vì vậy với những giới hạn của phương tiện chẩn đoán sốt ve mò trong phòng thí nghiệm hiện nay. Việc chẩn đoán sốt ve mò chủ yếu vẫn dựa vào dịch tễ và lâm sàng. Về khía cạnh lâm sàng, chẩn đoán sốt ve mò thường khó khăn vì có nhiều triệu chứng không đặc hiệu như: sốt, ớn lạnh, đau đầu, đau cơ, tiêu chảy, nổi hạch, phát ban, nốt loét do ấu trùng mò đốt (eschar) Eschar là sang thương quan trọng giúp chẩn đoán xác định bệnh trên lâm sàng. Tỷ lệ phát hiện eschar thay đổi tùy từng khu vực khác nhau. Báo cáo cho thấy tỷ lệ phát hiện eschar ở Hàn Quốc từ 42% đến 92%, tuy nhiên tỷ lệ phát hiện ở Thái Lan và các tiểu lục Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 78 địa Ấn Độ lại rất thấp (< 10%) (4,1). Hiện nay chưa có báo cáo nào về tỷ lệ phát hiện eschar trong bệnh sốt ve mò ở nước ta. Vị trí xuất hiện eschar đôi khi rất kín đáo như: vùng bẹn, sinh dục, dưới nách, sau cổ, trong ống tai rất khó có thể phát hiện, đòi hỏi một sự thăm khám tỉ mỉ, toàn diện đặc biệt với những trường hợp sốt kéo dài chưa tìm được nguyên nhân và sống trong vùng dịch tễ lưu hành, có tiền sử tiếp xúc với nhiều cây cối. Trường hợp bệnh nhân này của chúng tôi có loét eschar ở vị trí cũng khá kín đáo, ở mặt trước cánh tay và vùng nách (P) nếu không thăm khám cẩn thận cũng khó có thể phát hiện. Trong y văn, ghi nhận một trường hợp sốt ve mò có biến chứng suy hô hấp, suy đa cơ quan ở Đài Loan tương tự trường hợp của chúng tôi, đó là một bệnh nhân 23 tuổi, làm việc trong quân đội, có yếu tố dịch tễ tiếp xúc với cây cối, bụi rậm sau khóa huấn luyện trong rừng, sốt 11 ngày kèm đau tai, được chẩn đoán viêm tai giữa điều trị với Amoxicillin/Clavulanate nhưng sốt không giảm sau đó tiến triển đến suy hô hấp, được đặt nội khí quản, thở máy, đồng thời phát hiện 1 vết Eschar trong ống tai ngoài nên được chẩn đoán sốt ve mò, điều trị với kháng sinh Doxycillin và giảm sốt sau 1 ngày điều trị, và được rút ống nội khí quản sau 3 ngày điều trị(3). Về điều trị, trong báo cáo này bệnh nhân cải thiện nhanh chóng sau trị liệu đặc hiệu với Doxycycline, hết sốt sau 2 ngày, tự thở được sau 4 ngày và hồi phục hoàn toàn sau 10 ngày điều trị. Vậy việc chẩn đoán, điều trị kháng sinh thích hợp giúp cải thiện nhanh chóng tiên lượng và giảm các biến chứng gây tử vong. Một nghiên cứu của Hideo Yasunaga; Hiromasa Horiguchi và cộng sự đã chỉ rõ tầm quan trọng của việc phát hiện và điều trị kịp thời với Tetracycline sẽ làm giảm tỷ lệ tử vong và các biến chứng gây ra do sốt ve mò. Bệnh nhân điều trị trễ hơn 2 ngày với Tetracycline sẽ có nguy cơ cao có nhiều biến chứng so với nhóm điều trị kịp thời (9). Tỷ lệ tử vong do ARDS từ 6,1% đến 30% trong các nghiên cứu được xem là do sự chậm trễ trong việc chẩn đoán và điều trị (4). XQ ngày 24/10/2011 XQ ngày 27/10/2011 XQ ngày 31/10/2011 Hiện nay các kháng sinh trị liệu đặc hiệu rất hiệu quả cho những trường hợp nhiễm Rickettsia là doxycycline, tetracycline, và chloramphenicol. Thực tế lâm sàng nhiều trường hợp sốt kéo dài không rõ nguyên nhân với các biến chứng tổn thương đa tạng, được điều trị với các kháng sinh β Lactams, cephalosporin thế hệ 3, 4 đã không hết sốt, nhưng khi lâm sàng nghĩ đến sốt ve mò do nhiễm Rickettsia thì chỉ sau vài ngày điều trị với doxycycline bệnh nhân hết sốt và tình trạng lâm sàng cải thiện nhanh chóng. Trong điều kiện nguồn lực hạn chế, các phương tiện chẩn đoán vi sinh học còn thiếu, những trường hợp sốt kéo dài chưa rõ nguyên nhân sau khi đã loại trừ những nguyên nhân gây sốt khác, và không tìm Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 79 thấy sang thương loét eschar, việc điều trị thử ngắn ngày với doxycyline kết hợp với các yếu tố dịch tễ học có thể giúp chẩn đoán xác định căn nguyên gây bệnh là Rickettsia. KẾT LUẬN Việc chẩn đoán xác định sốt ve mò được coi là một thách thức đối với các bác sĩ lâm sàng. Việc chậm trễ trong chẩn đoán nhiễm Rickettsia dẫn đến nhiều biến chứng nặng và làm cho việc điều trị trở nên khó khăn hơn. Với biến chứng viêm phổi mô kẽ, giảm oxy máu nặng, suy hô hấp cần kết hợp điều trị tích cực với thở máy hỗ trợ, nâng đỡ thể trạng và điều trị với thuốc kháng sinh đặc hiệu. Eschar là một chỉ điểm quan trọng, cùng với các yếu tố dịch tễ giúp cho chẩn đoán xác định, chỉ có thể được phát hiện khi thăm khám cẩn thận. Vì vậy eschar nên được chú ý tìm kiếm ở tất cả những bệnh nhâncó sốt, đặc biệt với sốt kéo dài có triệu chứng của viêm phổi mô kẽ. Tuy nhiên khi không tìm thấy dấu chứng đặc hiệu thì sốt ve mò vẫn nên được tiếp tục xét đến bằng cách điều trị thử với doxycyclin ngắn ngày trước khi loại trừ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Kim DM, Won KJ et al (2007). Distribution of eschar on the body of scrub typhus patient. Am. J. Trop. Med. Hyg., 76(5), pp. 806- 809. 2. Kol. GCK et al (2010). Review: Diagnosis of Scrub Typhus Am. J.Trop. Med. Hyg., 82(3), pp.368-370 3. Lee BJ (2011). Case repore: Otalgia and e
Tài liệu liên quan