Sự biến đổi văn hóa phố nghề ở Hàng Mã, Hàng Trống (Hà Nội)

“Khéo tay hay nghề, đất lề Kẻ Chợ” Câu ca dao xưa phần nào đã nói lên đặc trưng của Hà Nội xưa, nơi quy tụ của các làng nghề, phố nghề cùng với các nghệ nhân tài khéo tứ xứ. Hà Nội với rất nhiều con phố cổ mang tên “Hàng” và có đến hàng chục phố bắt đầu bằng chữ “Hàng” đi kèm theo một nghề nhất định, đặc điểm này đã làm nên nét độc đáo của Hà Nội mà có lẽ không thủ đô nào trên thế giới có được. Đây cũng là minh chứng cho sự hưng thịnh một thời của các làng nghề, phố nghề trên mảnh đất này. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, do quá trình giao lưu hội nhập quốc tế để phát triển, nhiều nghề thủ công mới ra đời, nghề cũ cũng có nhiều biến đổi để phục vụ nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng. Nhiều tên phố “Hàng” nay đã thay đổi, hoặc giữ lại tên nhưng không còn là nơi sản xuất hay buôn bán mặt hàng đó nữa, lại cũng có nghề mới, sản phẩm mới trên phố cũ, nhiều phố nghề đã trở thành phố du lịch, dịch vụ. Sự thay đổi đó khiến cho Hà Nội mất dần đi những nét văn hóa truyền thống của vùng đất kinh kì. Nghiên cứu, tìm hiểu sự biến đổi trong văn hóa của phố nghề Hà Nội, người viết đã lựa chọn hai phố tiêu biểu là phố Hàng Mã và Hàng Trống. Đây là hai phố chuyên sản xuất các mặt hàng phục vụ nhu cầu tâm linh, tinh thần cho người dân Hà thành xưa. Sự biến đổi trong văn hóa sản xuất cũng như văn hóa kinh doanh của hai phố nghề này sẽ giúp chúng ta nhìn rõ sự biến đổi bộ mặt kinh tế, văn hóa tâm linh và thị hiếu nghệ thuật của người Hà thành hôm nay.

doc74 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2324 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sự biến đổi văn hóa phố nghề ở Hàng Mã, Hàng Trống (Hà Nội), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài “Khéo tay hay nghề, đất lề Kẻ Chợ” Câu ca dao xưa phần nào đã nói lên đặc trưng của Hà Nội xưa, nơi quy tụ của các làng nghề, phố nghề cùng với các nghệ nhân tài khéo tứ xứ. Hà Nội với rất nhiều con phố cổ mang tên “Hàng” và có đến hàng chục phố bắt đầu bằng chữ “Hàng” đi kèm theo một nghề nhất định, đặc điểm này đã làm nên nét độc đáo của Hà Nội mà có lẽ không thủ đô nào trên thế giới có được. Đây cũng là minh chứng cho sự hưng thịnh một thời của các làng nghề, phố nghề trên mảnh đất này. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, do quá trình giao lưu hội nhập quốc tế để phát triển, nhiều nghề thủ công mới ra đời, nghề cũ cũng có nhiều biến đổi để phục vụ nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng. Nhiều tên phố “Hàng” nay đã thay đổi, hoặc giữ lại tên nhưng không còn là nơi sản xuất hay buôn bán mặt hàng đó nữa, lại cũng có nghề mới, sản phẩm mới trên phố cũ, nhiều phố nghề đã trở thành phố du lịch, dịch vụ. Sự thay đổi đó khiến cho Hà Nội mất dần đi những nét văn hóa truyền thống của vùng đất kinh kì. Nghiên cứu, tìm hiểu sự biến đổi trong văn hóa của phố nghề Hà Nội, người viết đã lựa chọn hai phố tiêu biểu là phố Hàng Mã và Hàng Trống. Đây là hai phố chuyên sản xuất các mặt hàng phục vụ nhu cầu tâm linh, tinh thần cho người dân Hà thành xưa. Sự biến đổi trong văn hóa sản xuất cũng như văn hóa kinh doanh của hai phố nghề này sẽ giúp chúng ta nhìn rõ sự biến đổi bộ mặt kinh tế, văn hóa tâm linh và thị hiếu nghệ thuật của người Hà thành hôm nay. 2. Lịch sử vấn đề Phố nghề là một trong những yếu tố văn hóa quan trọng làm nên nét đẹp của văn hóa Hà Nội. Bản thân mỗi phố nghề trong quá trình hình thành, phát triển đều mang những nét đặc trưng riêng. Tìm hiểu nghiên cứu về các phố nghề cũng như diễn biến, sự phát triển của nó trong lịch sử là một việc làm hết sức ý nghĩa. Việc làm đó không chỉ ca ngợi, biểu dương cái đẹp, tài khéo của các nghệ nhân mà còn làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định các chính sách bảo tồn, phát triển khu phố cổ trong tương quan với sự phát triển kinh tế của thủ đô. Nhưng hiện nay, theo xu thế của thị trường, phố nghề Hà Nội đã có nhiều thay đổi. Phác họa bức tranh phố nghề trong hiện tại, ta không còn thấy bóng dáng Kẻ Chợ năm nào. Cho đến nay, đã có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu, chuyên luận và bài viết về các phố nghề Thăng Long – Hà Nội. Cuốn sách Làng nghề, phố nghề Thăng Long – Hà Nội do Trần Quốc Vượng, Đỗ Thị Hảo chủ biên là nghiên cứu khá công phu về một số làng nghề, phố nghề trên đất Thăng Long – Hà Nội. Trong công trình nghiên cứu này, các tác giả đã đi từ khái quát đến cụ thể. Cuốn sách chỉ ra nguồn gốc sự xuất hiện các làng nghề, phố nghề Thăng Long – Hà Nội, những nét khái quát về sự hình thành một số làng nghề, phố nghề tiêu biểu trên đất Thăng Long và đi sâu vào nghiên cứu về kĩ thuật sản xuất của các nghề đó. Phần cuối, các tác giả có đưa ra một giải pháp cụ thể để phát triển phố nghề Thăng Long – Hà Nội. Nhà văn Băng Sơn trong tập tùy bút Nghìn năm còn lại đã có một bài viết về phố Hàng Trống. Đây là những ghi chép về sự thay đổi nói chung các ngành nghề dẫn đến sự thay đổi cảnh quan của phố Hàng Trống. Bài viết bộc lộ cảm xúc nuối tiếc của nhà văn với sự biến mất của những giá trị truyền thống của phố nghề. Cuốn Tìm hiểu di sản văn hóa dân gian Hà Nội do Trần Quốc Vượng, Nguyễn Vinh Phúc, Lê Văn Lan chủ biên là một tập hợp những tổng luận về các di sản văn hóa của Hà Nội trong đó có một chương tổng luận về “phố nghề” của nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc. Trong bài viết của mình, ông đã giới thiệu khái quát một số phố nghề về các mặt: tên phố, địa giới hành chính, dân cư, di tích lịch sử. Ngô Thị Minh với công trình nghiên cứu Sự biến đổi các giá trị văn hóa thể hiện qua những mặt hàng kinh doanh trên phố Hàng Bạc, Hàng Đào, Hàng Đường, Hàng Mã ở Hà Nội (Luận văn tốt nghiệp - Đại học sư phạm Hà Nội năm 2008) đã tập trung nghiên cứu sự biến đổi về văn hóa kinh doanh thể hiện qua hình thức kinh doanh, phương thức kinh doanh và quan niệm kinh doanh trên các phố nghề Hàng Bạc, Hàng Đào, Hàng Đường, Hàng Mã. Tuy nhiên, phần hình thức và phương thức kinh doanh chưa đi sâu vào nội dung cụ thể của vấn đề, đôi chỗ còn viết lạc sang phần lịch sử phố, công nghệ, kỹ thuật chế tác. Các công trình nghiên cứu, bài viết lấy văn hóa phố nghề làm đối tượng nghiên cứu đã giúp người viết phần nào tìm hiểu được những biến đổi của một số phố nghề Hà Nội về một mặt nào đó của văn hóa sản xuất hoặc kinh doanh. Chính những công trình nghiên cứu, bài viết này đã giúp người viết có cơ sở để thực hiện công trình nghiên cứu về “Sự biến đổi văn hóa phố nghề ở Hàng Mã, Hàng Trống (Hà Nội)”. Điểm mới của công trình nghiên cứu đó là đi sâu vào tìm hiểu, nghiên cứu một cách toàn diện về sự biến đổi các hình thức sản xuất, hình thức và phương thức kinh doanh ở hai phố Hàng Mã và Hàng Trống. Từ đó, người viết đưa ra một số giải pháp cụ thể để bảo tồn và phát triển phố nghề trong thời đại mới. 3. Mục đích nghiên cứu Đề tài: “Sự biến đổi văn hoá ở phố nghề Hàng Mã, Hàng Trống (Hà Nội)” tìm hiểu sự biến đổi văn hoá của các nghề thủ công ở hai phố Hàng Mã, Hàng Trống về các mặt: Các mặt hàng chính Văn hóa sản xuất Văn hóa kinh doanh để thấy được sự biến đổi văn hoá của phố nghề Hàng Mã, Hàng Trống nói riêng, của các phố nghề ở Hà Nội nói chung; thấy được sự thay đổi về thị hiếu của người tiêu dùng trong xu thế phát triển mới của thời đại. Từ đó, người viết đưa ra một số định hướng và giải pháp cơ bản nhằm bảo tồn và phát triển văn hoá phố nghề Hàng Mã, Hàng Trống - một nét đẹp tiêu biểu của văn hoá kinh kì. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu sự biến đổi trong văn hóa sản xuất, văn hóa kinh doanh của phố nghề Hàng Mã, Hàng Trống từ đầu thế kỷ XX đến nay. - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài giới hạn nghiên cứu, khảo sát ở hai phố Hàng Mã, Hàng Trống thuộc quận Hoàn Kiếm - Hà Nội.  5. Phương pháp nghiên cứu Trong công trình nghiên cứu của mình, người viết đã tiến hành một số phương pháp nghiên cứu như sau:  - Sưu tầm, thống kê, phân tích tài liệu  - Khảo sát thực tế: quan sát, điều tra, lập bảng hỏi, phỏng vấn. - So sánh, đối chiếu, tìm thấy sự biến đổi trong văn hóa phố nghề Hàng Mã, Hàng Trống. 6. Cấu trúc khóa luận Khoá luận có cấu trúc như sau: Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của khóa luận được chia làm ba chương: Chương một: Phố nghề Hàng Mã, Hàng Trống trong tổng thể làng nghề, phố nghề Thăng Long – Hà Nội Chương hai: Khảo sát sự biến đổi trong văn hóa sản xuất ở phố nghề Hàng Mã, Hàng Trống Chương ba: Khảo sát sự biến đổi trong văn hóa kinh doanh ở phố nghề Hàng Mã, Hàng Trống PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG MỘT PHỐ NGHỀ HÀNG MÃ, HÀNG TRỐNG TRONG TỔNG THỂ LÀNG NGHỀ, PHỐ NGHỀ THĂNG LONG – HÀ NỘI “Rủ nhau chơi khắp Long Thành Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai Hàng Bồ, Hàng Bạc, Hàng Gai Hàng Buồm, Hàng Thiếc, Hàng Bài, Hàng Khay Mã Vĩ, Hàng Điếu, Hàng Giầy Hàng Lờ, Hàng Cót, Hàng Mây, Hàng Đàn Phố mới Phúc Kiến, Hàng Ngang Hàng Mã, Hàng Mắm, Hàng Than, Hàng Đồng Hàng Muối, Hàng Nón, Cầu Đông Hàng Hòm, Hàng Đậu, Hàng Bông, Hàng Bè Hàng Thùng, Hàng Bát, Hàng Tre Hàng Vôi, Hàng Giấy, Hàng The, Hàng Gà Qua đi đến phố Hàng Da Trải xem phường phố thật là cũng xinh Phồn hoa thứ nhất Long Thành Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ” Nếu như nhà văn Tô Hoài từng bảo Hồ Gươm - Kẻ Chợ tạo ra tiếng Hà Nội, do trăm nhà, trăm vùng dung hợp lại mà thành, không giống như bất cứ phương ngữ tiếng Việt nào thì “Hoa tay đất Rồng” (theo cách gọi của Thọ Sơn) là kết quả của quá trình hội tụ và kết tinh của trăm nghề, trăm ngành về đất này đua tài làm ăn. Đây chính là điều kiện cho sự hình thành làng nghề, phố nghề Thăng Long – Hà Nội trong đó có có hai phố Hàng Mã, Hàng Trống. 1. Khái niệm nghề truyền thống, làng nghề, phố nghề 1.1. Khái niệm nghề truyền thống Nghề truyền thống là những nghề tiểu thủ công nghiệp được hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử, được sản xuất tập trung tại một vùng hay một làng nào đó, từ đó hình thành nên các làng nghề. Đặc trưng cơ bản nhất của mỗi nghề truyền thống là phải có kỹ thuật và công nghệ truyền thống, đồng thời có các nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề. Sản phẩm làm ra vừa có tính hàng hóa, vừa có tính nghệ thuật và mang đậm bản sắc dân tộc. Những nghề truyền thống thường được lưu truyền trong phạm vi một làng. Mỗi nghề bao giờ cũng có ông tổ nghề được dân làng thờ phụng, ghi ơn. Trong các làng nghề truyền thống, đa số người dân đều làm nghề đó, ngoài ra, họ cũng có thể làm những nghề khác nhưng tỉ lệ này nhỏ hơn rất nhiều so với số người làm nghề truyền thống. Ngày nay, khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển mạnh mẽ, việc sản xuất các sản phẩm có tính truyền thống được hỗ trợ bởi quy trình công nghệ mới với các nguyên liệu mới. Do vậy, khái niệm nghề truyền thống cũng được nghiên cứu và mở rộng hơn. Khái niệm nghề truyền thống có thể được hiểu: Nghề truyền thống bao gồm những nghề thủ công nghiệp xuất hiện từ lâu trong lịch sử, được truyền từ đời này sang đời khác còn tồn tại đến ngày nay, kể cả những nghề đã được cải tiến hoặc sử dụng những loại máy móc hiện đại để hỗ trợ sản xuất nhưng vẫn tuân thủ công nghệ truyền thống, và đặc biệt sản phẩm của nó vẫn thể hiện những nét văn hóa đặc sắc của dân tộc. 1.2. Khái niệm làng nghề Mặc dù làng nghề ở Việt Nam xuất hiện từ cách đây hàng nghìn năm nhưng cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm chính thức về “làng nghề”. Theo giáo sư Trần Quốc Vượng thì “làng nghề (như làng gốm Bát Tràng, Thổ Hà, Phủ Lãng, Hương Canh làng đồng Bưởi, Vó, Hè Nôm, Thiện Lý, Phước Kiều ..., làng giấy vùng Bưởi, Dương Ổ…, làng rèn sắt Canh Diễn, Phù Dực, Đa Hội…) là làng ấy tuy vẫn có trồng trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi (lợn gà…), cũng có một số nghề phụ khác (đan lát, làm tương, làm đậu phụ…) song đã nổi trội một nghề cổ truyền , tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có phường (cơ cấu tổ chức), có ông trùm, có ông phó cả…cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử ư nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, sống chủ yếu bằng nghề đó và sản xuất ra những mặt hàng thủ công, những mặt hàng này có tính mĩ nghệ, đã trở thành sản phẩm hàng hóa và có quan hệ tiếp thị với một thị trường là vùng rộng lớn xung quanh và với thị trường đô thị, thủ đô (Kẻ Chợ, Huế, Sài Gòn…) và tiến tới mở rộng ra cả nước rồi có thể xuất khẩu ra nước ngoài.” [8; 9-10]. Định nghĩa này của Trần Quốc Vượng hàm ý nói về các làng nghề truyền thống, những làng nghề đã nổi tiếng và có thời gian tồn tại từ hàng nghìn năm. Còn theo nhà nghiên cứu Bùi Văn Vượng trong cuốn “Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam” thì làng nghề được hiểu “là làng cổ truyền làm nghề thủ công. Ở đây không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công. Người thợ thủ công nhiều trường hợp cũng là người làm nghề nông (nông dân). Nhưng yêu cầu chuyên môn hóa cao đã tạo ra những người thợ chuyên sản xuất hàng truyền thống ngay tại quê hương mình, hay ở làng nghề, phố nghề nơi khác. Khi nói đến một làng nghề thủ công truyền thống, ta chú ý đến nhiều mặt, trong cả không gian và thời gian, nghĩa là quan tâm đến tính hệ thống, toàn diện của làng nghề đó, trong đó, yếu tố quyết định là: nghệ nhân, sản phẩm, kĩ thuật sản xuất, thủ pháp nghệ thuật” [18;…]. Thực tế cho thấy, làng nghề thủ công là trung tâm sản xuất hàng thủ công, nơi quy tụ các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề mang tính truyền thống lâu đời. Ở các làng này có sự liên kết, hỗ trợ trong sản xuất, bán sản xuất theo kiểu phường hội, kiểu hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, có cùng tổ nghề, các thành viên luôn có ý thức tuân thủ ước chế xã hội và gia tộc. Sự liên kết, hỗ trợ nhau về nghề kỹ thuật, đào tạo thợ trẻ giữa các gia đình cùng dòng tộc, cùng phường nghề trong quá trình lịch sử hình thành, phát triển nghề nghiệp đã hình thành làng nghề ngay trên đơn vị cư trú, làng xóm truyền thống của họ. Tiến sĩ Dương Bá Phượng trong cuốn “Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa” đã đưa ra khái niệm “làng nghề là làng ở nông thôn có một (hoặc một số) nghề thủ công tách hẳn ra khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập”. Tác giả còn đưa ra một vài số liệu cụ thể như: “Về mặt định lượng, có thể hiểu làng nghề là một làng ở nông thôn có từ 35% - 40% số hộ trở lên chuyên làm một (hoặc một số) nghề thủ công nghiệp mà các hộ có thể sinh sống bằng chính nguồn thu nhập từ nghề” [8; 14]. Như vậy, có thể thấy có rất nhiều định nghĩa, nhiều cách hiểu khác nhau về làng nghề thủ công nói chung. Mỗi tác giả đều dựa trên những tiêu chí riêng, những cứ liệu và dẫn chứng cụ thể để đưa ra được định nghĩa về làng nghề. Tuy nhiên, mỗi làng nghề lại có đặc điểm riêng, do vậy khó có thể lấy một định nghĩa thống nhất cho tất cả các làng nghề. Trên thực tế, hiện nay hầu như ở các làng nghề không chỉ có những người chuyên làm nghề thủ công và cũng không có làng nào chỉ buôn bán đơn thuần như trước kia. Dựa trên những tài liệu thu thập được, người viết khái quát lại khái niệm làng nghề như sau: Làng nghề là một hoạt động kinh tế - xã hội ở nông thôn, được cấu thành bởi hai yếu tố làng và nghề, tồn tại trong một không gian địa lý nhất định trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là chính, giữa họ có mối liên hệ chặt chẽ về kĩ thuật sản xuất, mặt hàng sản xuất và nguồn tiêu thụ. 1.3. Khái niệm phố nghề Giống như làng nghề, các phố nghề đã xuất hiện, tồn tại ở nước ta từ rất lâu đời và cũng trải qua nhiều bước thăng trầm, tuy vậy, cho đến nay, chưa có một khái niệm, định nghĩa nào nhất quán về phố nghề. Để làm rõ khái niệm “phố nghề”, trước hết ta hãy làm rõ gốc tích và sự phát triển của từ “phố”. “Phố” nguyên nghĩa là nơi bán hàng, ngày nay là các cửa hiệu. Song do các “phố” đó tập trung chen sát nhau thành một dãy dài nên cái dãy gồm nhiều “phố” ấy cũng được gọi là “phố”. Dần dần, theo thời gian, từ “phố” với nghĩa là một dãy các cửa hàng lấn át từ “phố” nguyên nghĩa là một cửa hàng, chính vì thế mới có tên “phố Hàng Bạc” để chỉ con đường mà hai bên có dãy cửa hàng bán vàng bạc, “phố Hàng Mã” để chỉ con đường mà hai bên có dãy cửa hàng bán đồ vàng mã, hương giấy… Ở mỗi phố lại có các hiệp thợ thủ công ra Thăng Long để cư trú, làm theo thời vụ. Dần dà, họ định cư hẳn, kẻ trước người sau tụ tập ở một góc phường (trong số 36 phố phường), bám lấy hai bên một con đường để mở cửa hàng (tức phố) vừa sản xuất, vừa bán buôn, bán lẻ. Kể từ khi ra đời cho đến ngày nay, sự phát triển của các phố nghề đã có nhiều thay đổi cùng với những biến thiên của lịch sử. Có nhiều phố nghề đã tồn tại và phát triển mạnh, đồng thời còn mở rộng và có sự lan tỏa sang các khu vực lân cận. Bên cạnh đó, cũng có những phố nghề phát triển cầm chừng, không ổn định, thậm chí có phố nghề đã và đang dần bị mai một, bị suy vong và mất đi. Chính vì vậy, tìm hiểu về sự biến đổi văn hoá phố nghề là một việc làm vô cùng quan trọng trong công cuộc bảo tồn và phát huy những nét đẹp truyền thống của làng nghề, phố nghề đất Việt. Trước khi đến với văn hoá phố nghề cần tìm hiểu về khái niệm phố nghề. Phố nghề là nơi tập hợp phần lớn các hộ sản xuất và kinh doanh cùng một mặt hàng thủ công nào đó trên cùng một tuyến đường phố. Đối với các phố nghề ở Hà Nội, đa phần những người thợ thủ công vừa sản xuất, vừa bày bán các sản phẩm thủ công của mình ở trên phường phố. Và thường mỗi phố chỉ bày bán duy nhất một hoặc hai sản phẩm thủ công nhất định nên tên phố thường được gọi theo tên của các mặt hàng thủ công có mặt ở trên phố đó, như phố Hàng Trống, Hàng Mã, Hàng Bạc, Hàng Đào… là những ví dụ tiêu biểu. 1.4. Điểm tương đồng và khác biệt giữa làng nghề và phố nghề Khi nghiên cứu về làng nghề và phố nghề thì chúng ta phải xét đến các yếu tố cấu thành của nó. “Làng nghề” và “phố nghề” giống nhau ở chỗ đây đều là những nơi quy tụ của các phường thợ thủ công chuyên sản xuất các mặt hàng thủ công nhất định. Phương thức và quy mô lao động ở làng nghề và phố nghề về cơ bản là không khác nhau, chung quy lại, đó là một nền tiểu thủ công nghiệp gia đình, có sự phân công lao động làm chuyên môn hóa nhưng chưa cao, lao động làm thuê được sử dụng ở mức tối thiểu, thường là thân tộc. Các tiểu chủ - thợ thủ công đồng thời là người sở hữu về tư liệu sản xuất. Bên cạnh những điểm tương đồng, “làng nghề”, “phố nghề” có những điểm khác biệt nhau. Trước hết, chúng ta xét ở sự hình thành các làng nghề, phố nghề, làng nghề là do yếu tố nội sinh còn phố nghề hình thành do yếu tố ngoại sinh. Sự xuất hiện của các nghề thủ công ở làng quê lúc đầu là ngành phụ trong các gia đình tiểu nông, chủ yếu được tiến hành trong thời gian “nông nhàn”. Dần dần, trong quá trình phát triển của nền kinh tế, các ngành nghề thủ công tách ra khỏi nông nghiệp nhưng lại phục vụ trực tiếp cho nông nghiệp. Khi đó, một số thợ thủ công không còn làm nông nghiệp nữa nhưng họ vẫn gắn chặt với làng quê. Số người chuyên làm nghề thủ công ngày càng tăng lên, tách rời hẳn khỏi nông nghiệp và họ sinh sống bằng nguồn thu nhập từ chính nghề đó. Sự hình thành phố nghề thì lại gắn chặt với quá trình “di cư” của những người thợ thủ công từ “tứ chiếng” lên kinh đô làm ăn. Lúc đầu, họ chỉ tạm trú ở đây, rồi thường trú khi làm ăn được. Những người thợ làm hàng ở trong phường rồi bày bán hàng đó ở mặt phường, hình thành nên các phố. Khi đã định cư ở đây, họ kéo theo anh em và những người làng cùng lên làm nghề, mỗi phố chỉ làm một hoặc hai nghề hình thành nên các phố nghề. Lúc này, họ mang theo cả “mô hình tổ chức” từ làng quê họ lên kinh đô lập nên những “đình đền” trong phố để thờ vọng thành hoàng nơi bản quán của họ. Tựu chung lại, có thể thấy làng nghề là cái gốc sinh ra phố nghề. Các phố nghề chính là nơi thúc đẩy các nghề thủ công phát triển tới trình độ cao nhất. Phố nghề góp phần cân bằng sản xuất, kinh doanh thậm chí nhiều khi phần kinh doanh còn chiếm ưu thế hơn. Làng nghề thì lại đặc biệt chú trọng sản xuất, kinh doanh thường dưới hình thức bán buôn. 2. Lịch sử hình thành và vai trò của phố nghề Thăng Long – Hà Nội 2.1. Lịch sử hình thành của phố nghề Thăng Long – Hà Nội Căn cứ vào những di vật khảo cổ cùng những cứ liệu văn hóa dân gian, từ thời dựng nước (khoảng 2000 năm trước công nguyên), người Việt cổ đã đến định cư ở vùng đất Hà Nội. Họ lập nên những làng xóm trên các gò đất cao ven sông Tô, sông Nhuệ, sông Đuống. Cư dân ở đây ngoài nghề nông còn thạo cả nghề đánh bắt cá và săn thú rừng. Bên cạnh đó họ cũng bắt đầu biết dệt vải, xe chỉ, làm gốm, chế tác gỗ, mây tre đan…Như vậy, có thể thấy rằng ngay từ buổi đầu lịch sử, những cư dân vùng Hà Nội cổ đã thể hiện được phẩm chất tài hoa, cần cù trong lao động sản xuất. Đây chính là điều kiện hạt nhân ban đầu để tạo dựng nên những nghề thủ công thịnh vượng sau này. Mùa thu năm Canh Tuất 1010, vua Lý Công Uẩn rời đô từ Hoa Lư về Hà Nội. Hà Nội khi đó là thành Đại La - vốn là một vùng đất trù phú, địa thế đẹp, sông ngòi thuận lợi cho việc đi lại, lại có nền tảng của nghề thủ công nên đây đã sớm trở thành một vùng đông đúc với các khu phố chợ và hoạt động buôn bán tấp nập - lại càng có điều kiện phát triển, các hoạt động sản xuất, buôn bán được thúc đẩy, đời sống nhân dân ngày một nâng cao. Một trong những minh chứng về sự giàu có phồn thịnh thời kì này là các công trình kiến trúc nguy nga, tráng lệ được xây dựng ngày càng nhiều như: chùa Diên Hựu (1049), tháp Báo Thiên (1057), Văn Miếu - Quốc Tử Giám (1070), đàn Nam Giao (1154)…và hàng chục các công trình lớn khác. Để xây dựng những công trình trên, không thể thiếu bàn tay của những người thợ thủ công lành nghề, những lò sản xuất gạch ngói, chế tác đá, chạm khắc gỗ, đồng… Đây chính là điều kiện mở đầu cho sự phát triển các phường thợ, phố nghề trong nội thành cũng như các làng nghề ven đô. Rõ ràng, vào thời Lý, các phố phường đã được hình thành, Thăng Long đã trở thành một vùng dân cư tập trung và là cơ sở ban đầu của thành thị Hà Nội. Bê