Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 56
SỰ PHÁT TRIỂN HÌNH THÁI VÀ KÍCH THƯỚC CUNG RĂNG 
TỪ 6,5 ĐẾN 13,5 TUỔI (NGHIÊN CỨU DỌC 
BẰNG PHƯƠNG PHÁP PROCRUSTE) 
Phạm Lệ Quyên* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: nghiên cứu này nhằm góp thêm dữ liệu về những thay đổi hình thái và kích thước cung răng 
trẻ em Việt Nam trong giai đoạn bộ răng hỗn hợp - đầu bộ răng vĩnh viễn, là giai đoạn thường bắt đầu điều 
trị chỉnh hình. 
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu dọc trên 258 mẫu hàm thạch cao của 20 trẻ theo dõi từ 6,5 tuổi đến 
13,5 tuổi. Ảnh chụp theo một chuẩn thống nhất của các cặp mẫu hàm được xử lý bằng phần mềm Procluso và 
APS. Các kết quả được xử lý thống kê hỗ trợ với phần mềm SPSS 11.5. 
Kết quả: cung răng trên và dưới đổi từ dạng thuôn sang dạng trứng; dạng cung răng dưới ngắn lại và loe 
rộng về phí sau sau trong thời gian theo dõi. Khoảng cách gian răng nanh, răng cối lớn thứ nhất cũng như chu 
vi cung răng trên có xu hướng tăng từ 6 đến 12 tuổi rồi giảm trong khi chu vi cung răng dưới nhìn chung có xu 
hướng giảm gần như liên tục, phù hợp với các nghiên cứu trước đây dựa trên đo đạc thuần túy. Hình dạng 
cung răng người Việt khác với người Âu, người Hàn Quốc và Nhật Bản. 
Kết luận: cung răng người Việt từ 6,5-13,5 tuổi có dạng trứng, với cung răng dưới loe dần về phía sau theo 
thời gian và kích thước gian răng nanh được xác lập lúc 9-10 tuổi. 
Từ khóa: cung răng, phương pháp Procruste. 
ABSTRACT 
EVOLUTION OF THE DENTAL ARCHES FROM 6.5 TO 13.5 YEARS OLD – A LONGITUDINAL 
STUDY USING PROCRUSTE METHOD 
Pham Le Quyen * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 56 - 62 
Objectives: The individualization of patients’arches is the prime concern of orthodontists. Therefore, the 
objectives of this study were to observe morphological and dimensional modifications of non-treated dental arches 
during mixed and early permanent dentition while determining possible relation between the morphology of 
dental arches and several predisposing factors. 
Materials and method: this longitudinal study was conducted on 20 Vietnamese children basing on 
plaster casts obtained biannually from 6.5 to 13.5 years-old. Photographs of 258 pairs of casts were taken in series 
with a same set-up system, then analysed with Procluso and their superimposition was done with APS. 
Statistical analysis was performed with SPSS version 11.5. 
Results: upper and lower arches changed from tapered form into ovoid one. The lower arch became 
gradually more divergent in its posterior part. Intercanine and intermolar widths as well as upper arch length 
increased from 6 to 12 years-old before decreasing thereafter. The lower arch showed a steady tendency to shorten 
during this period. Dental arches in Vietnamese were different in form with those of Caucasian, Korean and 
Japanese people. Dimensional modifications observed in our study were in accordance with previous studies 
*: Khoa RHM, Đại học Y Dược TPHCM 
Tác giả liên lạc: BS. Phạm Lệ Quyên ĐT: 0903716159; Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 57
conducted on the same population using direct measurement methods. 
Conclusion: Vietnamese dental arches changed gradually to ovoid form from 6.5 to 13.5 years old with an 
increasing divergence in the posterior part of the lower arch and the intercanine width was already determined at 
9-10 years-old. 
Key words: dental arches, Procruste method. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hình dạng cung răng chứa đựng nhiều 
thông tin quan trọng nên từ xưa đã trở thành 
đề tài nghiên cứu của các chuyên ngành sinh 
học. Trước đây hình dạng cung răng được 
khảo sát trực tiếp trong miệng bệnh nhân hoặc 
thông qua đo đạc trên mẫu hàm thạch cao 
hoặc ảnh chụp mẫu hàm. Gần đây, mẫu hàm 
ảo 3 chiều và các phương tiện phân tích hiện 
đại ngày càng thông dụng hơn. Năm 1982, 
Bookstein đã giới thiệu một quan niệm mới về 
hình thái, “sinh trắc hình thái” phối hợp hình 
học và sinh học, hình dạng và kích thước, cho 
phép khảo sát tổng thể hình dạng của một vật 
thể(5). Phương pháp chồng hình Procruste 
thường được áp dụng trong sinh trắc hình 
thái. Đầu tiên là chọn điểm tham chiếu. Điểm 
này có thể là điểm giải phẫu, điểm quy định, 
hoặc điểm ảo, là điểm giữa các mốc giải phẫu 
hoặc giữa mốc giải phẫu với điểm quy định. 
Sau đó, khảo sát riêng phần hình dạng, bằng 
cách đem các đối tượng về cùng hệ quy chiếu 
(chồng hình tại tâm của các đối tượng), cùng 
thang đo và xoay về cùng hướng. 
Ngày nay, vẫn còn nhiều câu hỏi đặt ra 
trong thực hành chỉnh hình liên quan với hình 
dạng cung răng, chẳng hạn như: có tồn tại hay 
không một dạng cung răng chung cho mỗi dân 
số và những yếu tố nào quyết định hình dạng 
này? Dạng cung răng có thay đổi theo từng 
giai đoạn phát triển của cá thể hay không và 
trong quá trình điều trị chỉnh hình răng mặt 
nên giữ lại hình dạng nguyên thủy của cung 
răng hay có thể thay đổi nó trong mức độ cho 
phép nào đó? 
Hình 1: Quy trình chồng hình theo phương pháp 
Procruste 
Mục tiêu nghiên cứu 
+ Xác định hình dạng cung răng trung bình 
ở người Việt, ở giai đoạn bộ răng hỗn hợp và 
đầu bộ răng vĩnh viễn. 
+ Quan sát biến đổi hình dạng cung răng từ 
khi răng cối lớn thứ nhất mọc lên cung hàm đến 
sau khi răng cối lớn thứ hai mọc hoàn toàn. 
+ Phát hiện những biến đổi kích thước cung 
răng theo thời gian. 
+ Liên hệ hình dạng cung răng với một số 
yếu tố như tuổi, giới tính, dạng mặt của đối 
tượng, khoảng cách gian răng nanh, giang răng 
cối và chu vi cung răng. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu là mẫu hàm thạch cao 
đỗ từ dấu alginate, được thực hiện mỗi 6 tháng ở 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 58
10 bé trai và 10 bé gái từ 6,5 đến 13,5 tuổi trích từ 
nhóm 100 đối tượng tham gia chương trình 
nghiên cứu dọc theo dõi từ 3 đến 18 tuổi của 
Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y dược Tp.Hồ 
Chí Minh, bắt đầu từ năm 1997. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
+ Cặp mẫu hàm 6,5 tuổi: có đầy đủ 4 răng cối 
lớn thứ nhất . 
+ Khoảng không có răng tối đa ứng với 1 
răng, có thể xen kẽ nhiều khoảng trên 1 
cung răng. 
+ Trên mẫu hàm 13,5 tuổi: không thiếu/ thừa 
răng, răng không xoay/ lệch nhiều; chen chúc tối 
đa 4mm, răng thưa hở kẽ tối đa 4mm; các răng 
vĩnh viễn đều hiện diện (trừ răng khôn). 
Các mẫu hàm được mài gọn gàng, phần đế 
song song với mặt phẳng nhai. Mỗi cá thể 
được chọn tham gia nghiên cứu phải có ít nhất 
1 cặp mẫu hàm mỗi năm. Có tổng cộng 258 
cặp mẫu hàm đạt yêu cầu được chọn vào mẫu 
nghiên cứu. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu dọc. 
Tiến hành nghiên cứu 
Mẫu hàm của mỗi cá thể được chụp hình 
từng cặp, theo trình tự thời gian với một hệ 
thống chuẩn hóa (Hình 3) gồm máy Canon EOS 
30D, ống kính Tamron macro AF 90mm 1:2:8 và 
đèn flash Ringlite MR 14EX cố định trên một 
chân trượt sao cho mặt ống kính song song với 
bàn đặt mẫu hàm. Dùng thước thủy tĩnh để 
kiểm tra độ song song với sàn của mặt ống kính. 
Sau đó, ảnh chụp được xử lý bằng chương 
trình Procluso, chọn 14 điểm chuẩn cho mỗi 
mẫu hàm gồm đỉnh múi các răng sau và điểm 
giữa bờ cắn răng trước. Trường hợp răng không 
hiện diện, điểm chuẩn được chọn trên sóng hàm 
giữa 2 điểm chuẩn lân cận. 
Hình 2 : Hệ thống chụp hình chuẩn hóa 
Hình 3 : Hình cung răng sau xử lý bằng Procluso 
Sau đó dùng chương trình APS để chồng 
hình và thực hiện các phép thống kê đặc hiệu, 
phối hợp xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 
phiên bản 11 và vẽ biểu đồ bằng Excel. 
APS là một chương trình do Xavier Penin 
tạo nên năm 1998 cùng với Procluso nhằm khảo 
sát hình thái cung răng. Chương trình APS dựa 
trên phép phân tích thành tố chính (Pricipal 
Component Analysis)(1) giúp đơn giản hóa các 
phép thống kê bằng cách gom các biến số ban 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 59
đầu thành nhóm biến số chính dựa trên những 
thành tố quan trọng chung. Ví dụ như trong 
hình 4, ta thấy có 2 biến số là trọng lượng và 
kích thước, trong đó thành tố 2 thể hiện lượng 
thông tin tối đa. Ngoài ra, APS còn thực hiện 
phép phân tích hồi qui, test Ficher(7). 
Hình 4: Phương pháp phân tích thành tố chính 
Để kiểm tra độ kiên định của người chọn 
điểm chuẩn, 10 hình mẫu hàm của 10 đối 
tượng khác nhau được chọn ngẫu nhiên để xử 
lý lại thêm hai lần, mỗi lần cách nhau 1 tháng 
để tính giá trị R theo phép kiểm GOODALL 
(1991)(7) đặc biệt dành cho phương pháp chồng 
hình Procruste, với giá trị R yêu cầu phải lớn 
hơn 0,992. 
Ngoài ra để phân tích liên quan giữa dạng 
mặt và hình dạng cung răng, phim sọ nghiêng 
của các đối tượng tại thời điểm 13,5 tuổi được vẽ 
nét để phân tích dạng mặt theo Steiner (dựa vào 
góc GoGn-SN). 
KẾT QUẢ 
Các kết quả đo được có độ kiên định cao với 
R= 0,999883. 
Hình 5 cho thấy cung răng trên và dưới, 
được biểu diễn bằng đường đen nối các điểm 
mốc, đều có dạng trứng (theo phân loại 
Ricketts)(3), với cung răng dưới bất đối xứng nhẹ. 
Các vector màu xanh lá biểu thị sự biến thiên vị 
trí của các điểm mốc trên từng cung răng. 
Cung răng dưới 
Cung răng trên 
Hình 5: Hình dạng chung của cung răng 
Có mối liên hệ rõ giữa hình dạng cung dưới 
và tuổi: cung răng dưới loe rộng phía sau theo 
thời gian trong khi phần trước tương đối ổn 
định. Trong khi đó, những thay đổi diễn ra trên 
toàn bộ cung răng trên, không theo mẫu hình 
đặc biệt nào. 
Cung răng dưới ở nam dạng thuôn dài 
trong khi cung răng nữ dạng ngắn tròn. Cung 
răng trên không có sự khác biệt hình thái giữa 
hai giới. 
Hình dạng cung răng trên liên hệ chặt chẽ 
với khoảng cách gian răng nanh tương ứng. Ở 
cung răng dưới mối liên hệ này ít rõ hơn. Ngược 
lại, khoảng cách gian răng cối và chu vi cung 
răng liên hệ chặt chẽ với cung răng dưới hơn. 
Không có mối liên hệ giữa hình dạng cung răng 
và dạng mặt của cùng cá thể. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 60
Cung răng dưới Cung răng trên 
Hình 6 : Sự thay đổi hình dạng cung răng theo thời gian (từ xanh thành đỏ) 
Cung răng dưới Cung răng trên 
Hình 7 : Sự khác biệt cung răng giữa nam và nữ (xanh: nam, đỏ: nữ) 
Hình 8 : Liên hệ giữa hình dạng cung răng dưới và 
chu vi cung răng (xanh: chu vi lớn, đỏ: chu vi nhỏ) 
Khoảng cách gian răng nanh ở nam lớn hơn 
ở nữ nhưng khác biệt này không có ý nghĩa 
thống kê (p>0,5). Từ 6,5 đến 12 tuổi, khoảng cách 
này tăng mạnh ở hàm trên (2,3 ở nữ và 3,2mm ở 
nam) hơn ở hàm dưới (0,9-1,6mm) rồi giảm nhẹ 
ở cả hai hàm. Kích thước gian răng nanh hàm 
dưới là 27,22mm được xác lập tương đối sớm, 
lúc 9 tuổi. 
25.00
26.00
27.00
28.00
29.00
30.00
31.00
32.00
33.00
34.00
35.00
36.00
37.00
6,5 7 7,5 8 8,5 9 9,5 10 10,5 11 11,5 12 12,5 13 13,5
Tuổi
m
m
Nam HT
Nữ HT
Nam HD
Nữ HD
Biểu đồ 1: Khoảng cách gian răng nanh hàm trên và 
hàm dưới từ 6.5 đến 13.5 tuổi 
Khoảng cách gian răng cối lớn thứ nhất ở 
nam cũng lớn hơn ở nữ nhưng chỉ khác biệt có ý 
nghĩa tại thời điểm 10 tuổi (p<0,01). Khoảng cách 
này tăng từ 6,5 đến 13,5 tuổi ở cả 2 hàm, hàm 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 61
trên tăng nhiều hơn hàm dưới, nam nhiều hơn 
nữ (hàm trên: 2,7-3,3mm, hàm dưới: 0,8-2,2mm). 
42.00
44.00
46.00
48.00
50.00
52.00
54.00
56.00
58.00
60.00
6,5 7 7,5 8 8,5 9 9,5 10 10,5 11 11,5 12 12,5 13 13,5
Tuổi
m
m
Nam HT
Nữ HT
Nam HD
Nữ HD
Biểu đồ 2: Khoảng cách gian răng cối hàm trên và 
hàm dưới từ 6.5 đến 13.5 tuổi 
Chu vi cung răng hàm trên tăng từ 6,5 đến 
12 tuổi rồi giảm nhẹ nhưng nhìn chung tăng 
khoảng 1,5mm ở nữ và 3mm ở nam, trong khi 
đó chu vi cung răng dưới giảm (1,3-1,9mm ở 
nam và ở nữ). Chu vi cung răng ở nam lớn hơn 
ở nữ, rõ nhất ở hàm dưới nhưng nhìn chung sự 
khác biệt không có ý nghĩa thống kê, ngoại trừ 
tại thời điểm 10 tuổi (p<0,001). 
78.00
80.00
82.00
84.00
86.00
88.00
90.00
92.00
94.00
96.00
98.00
100.00
102.00
6,5 7 7,5 8 8,5 9 9,5 10 10,5 11 11,5 12 12,5 13 13,5
Tuổi
m
m
Nam HT
Nữ HT
Nam HD
Nữ HD
Biểu đồ 3: Chu vi cung răng hàm trên và hàm dưới 
từ 6.5 đến 13.5 tuổi 
BÀN LUẬN 
Việc chụp ảnh mẫu hàm từ mặt nhai đã biến 
hình dạng thật của cung răng trong 3 chiều 
thành hình phẳng. Tuy nhiên, các cung răng 
được chọn nghiên cứu tương đối lý tưởng, độ 
nghiêng ngoài trong của mỗi răng trong phạm 
vi bình thường, do đó, sai số này được xem là 
không đáng kể. Một số tác giả Nhật(11) cho rằng 
điểm mốc đỉnh múi kém tin cậy do dễ bị ảnh 
hưởng khi răng mòn; tuy nhiên, trong nghiên 
cứu này, các răng vừa mọc trên cung hàm, hình 
thái các đỉnh múi còn nguyên vẹn, rõ ràng rất dễ 
xác định và chính xác. Cung răng người Việt 
trung bình trong giai đoạn này có dạng trứng, 
trong khi 68% cung răng người Âu có dạng 
thuôn hay thuôn hẹp (theo DEBLOCK 2004(3)). Ở 
người Hàn Quốc và người Nhật, dạng cung răng 
dưới hình vuông phổ biến hơn dạng trứng(4,6). 
Các nghiên cứu trước đây đều ghi nhận cung 
răng người thường bất đối xứng nhẹ và giải 
thích là do thói quen ăn nhai một bên. Trong 
nghiên cứu này, có thể có thêm một nguyên 
nhân là do vị trí sơ khởi chưa ổn định của các 
răng ngay sau khi xuất hiện trên cung hàm. 
Trong nghiên cứu, thấy rõ sự ổn định của 4 răng 
cửa, sự di gần rõ đồng thời xoay gần của răng 
cối lớn thứ nhất hàm dưới và xoay xa của răng 
này ở hàm trên. Điều này cho thấy xu hướng tự 
sắp xếp của khớp cắn hướng về hạng I Angle 
khi không có bất hài hòa xương nền. Một số 
nghiên cứu trước đây ghi nhận sự khác biệt hình 
thái cung răng giữa hai giới nhưng chưa có giải 
thích nào thỏa đáng. Ở nghiên cứu này, chúng 
tôi thấy rằng tuy các số đo ở nam lớn hơn ở nữ 
nhưng khác biệt chỉ có ý nghĩa thống kê tại một 
số mốc thời gian do lịch mọc răng khác nhau 
giữa 2 giới. Sự khác biệt về hình thái chỉ ghi 
nhận được ở hàm dưới, cung răng của nam 
thuôn dài hơn trong khi toàn bộ nam trong mẫu 
nghiên cứu đều có dạng mặt trung bình hoặc 
dài, còn nữ thì mặt trung bình hoặc ngắn. 
LAVELLE đã từng kết luận cung răng ngắn và 
to hơn ở người dạng đầu ngắn nhưng BJORK lại 
nhận thấy cung răng thu ngắn khi góc hàm phát 
triển hướng mở(3). Cần khảo sát sâu thêm mối 
liên hệ giữa hình thái cung răng và dạng mặt 
của đối tượng để có sự lựa chọn cung răng thích 
hợp cho từng cá thể. 
Chúng tôi cũng quan sát rõ sự di xa của vị trí 
răng nanh, góp phần giải thích xu hướng tăng 
của khoảng cách gian răng nanh trước 12 tuổi. 
Tuy nhiên, sau 12 tuổi kích thước này giảm trên 
cả hai hàm và ở cả hai giới trở về gần đến giá trị 
đạt được lúc 9-10 tuổi, điều này phù hợp với 
những kết luận trước đây trên người Âu của các 
tác giả khác nhưng chưa có giải thích nào thỏa 
đáng(3). Có thể cho rằng đây là kết quả thích nghi 
thứ phát của cung răng – xương ổ với hệ thống 
cơ xung quanh, nhất là trong trường hợp răng 
nanh mọc lệch môi, dự báo xu hướng tái phát 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 62
mạnh nếu kích thước này không được tôn trọng 
trong quá trình điều trị chỉnh hình. Sự tăng 
trưởng theo chiều ngang của cung răng bù trừ 
mạnh cho sự di gần của răng cối lớn thứ nhất 
vào khoảng Leeway, làm khoảng cách giữa 2 
răng này tăng trong gian đoạn từ 6,5 đến 12 tuổi, 
đồng thời, chu vi cung răng cũng được duy trì, 
thậm chí tăng ở hàm trên. Tuy nhiên, do khoảng 
Leeway ở hàm dưới lớn, cộng thêm việc loe 
rộng cung răng về phía sau ảnh hưởng hình thái 
hơn là sự gia tăng thật khoảng cách gian răng 
cối lớn thứ nhất nên chu vi cung răng dưới 
giảm, nhất là sau 12 tuổi khi sự tăng trưởng theo 
chiều ngang gần như đã kết thúc(3). 
KẾT LUẬN 
Theo dõi dọc cung răng từ 6,5 đến 13,5 tuổi 
cho thấy hình dạng cung răng chuyển từ dạng 
thuôn sang hình trứng, với cung răng dưới thu 
ngắn và loe rộng phía sau theo thời gian. Chỉ 
cung răng dưới có sự khác biệt hình thái giữa 
nam và nữ. Các kích thước cung răng ở nam đều 
lớn hơn ở nữ nhưng không có ý nghĩa thống kê. 
Khoảng cách gian răng nanh và răng cối lớn 
tăng trong giai đoạn 6,5-12 tuổi rồi giảm nhẹ, 
trong đó kích thước gian răng nanh sau cùng 
được xác định sớm, từ 9 tuổi. Chu vi cung răng 
trên nhìn chung tăng trong khi giảm.ở cung 
răng dưới. 
Procruste là phương pháp nghiên cứu đơn 
giản trực quan, hiển thị được rõ ràng những 
biến đổi về mặt hình thái theo thời gian, có thể 
ứng dụng để nghiên cứu thêm về mối liên hệ 
giữa hình thái cung răng và dạng phức hợp sọ 
mặt cũng như phân loại khớp cắn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Analyse en composantes principales. 
pales 
2. Bishara SE, Jakobsen JR, Treder J, Nowak A. (1997). Arch 
width changes from 6 weeks to 45 years of age. Am J Orthod 
Dentofacial Orthop, 111(4):363-8. 
3. Deblock A, Dobre-Chassagne S, Deblock L. (2004). Croissance 
alvéolaire et forme d’arcade. Orthod Fr, 75:141-51. 
4. Hassanali J, Odhiambo JW. (2000). Analysis of dental casts of 
6-8- and 12-year-old Kenyan children. Eur J Orthod, 22(2):135-
42. 
5. Huỳnh Kim Khang. (1992). Hình thái cung răng hàm trên ở 
người Việt. Tập san Hình thái học, 2(2):4-8. 
6. Joseph M, Loreille JP, Spillone D, Prov E, Bourdiol PM. (1987). 
De la forme d’arcade. Rapport SFODF. 
7. Kook YA, Nojima K., Moon HB, McLaughlin RP, Sinclair PM. 
(2004). Comparison of arch forms between Korean and North 
American white populations. Am J Orthod Dentofacial 
Orthop, 126:680-6. 
8. Lê Đức Lánh (2002). Đặc điểm hình thái đầu mặt và cung 
răng ở trẻ em từ 12 đến 15 tuổi tại thành phố Hồ Chí Minh. 
Luận văn Tiến sĩ Y học, Đại học Y dược Tp. Hồ Chí Minh. 
9. Morphotmetrics.  
10. Nguyễn Thị Kim Anh (1994). Đặc điểm hình thái đường rìa 
cắn đỉnh múi ngoài cung răng dưới theo 3 chiều trong không 
gian. Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ nội trú Chuyên khoa cấp 1, 
Đại học Y dược Tp.Hồ Chí Minh. 
11. Nojima K, McLaughlin RP, Isshiki Y, Sinclair PM. (2001). A 
comparative study of Caucasian and Japanese mandibular 
clinical arch forms. Angle Orthod, 71:195–200. 
12. Penin M. (2002). Etude comparative de la morphologie des 
arcades dentaires par la méthode Procuste, Université Paris V. 
13. Phạm Thị Hương Loan (2000). Đặc điểm hình thái cung răng 
người Việt (So sánh với người Ấn Độ và Trung Quốc. Tuyển 
tập công trình nghiên cứu khoa học, Khoa Răng Hàm Mặt 
Tp.Hồ Chí Minh. 
14. Ray B, Embert-Tosi L, Deblock L. (2004). Forme d'arcade dans 
une population présentant une occlusion idéale. Orthod Fr, 
75:163-78. 
15. Ross-Powell R.E, Harris E.F. (2000). Growth of the anterior 
dental arch in black American children:A longitudinal study 
from 3 to 18 years of age. Am J Orthod Dentofac Orthop, 
118:649-57. 
16. Sillman J.H. (1964). Dimensional changes of the dental arches. 
Longitudinal study from birth to 25 years. Am J Orthod, 
50:824-41. 
17. Trần Mỹ Thúy (1992). Hình thái cung xương ổ răng người 
Việt. Tập san Hình thái học, 2(1):29-32. 
18. Tsujino K, Machida Y. (1998). A longitudinal study of growth 
and development of the dental arch width from childhood to 
adolescence in Japanese, 39(2):75-89.