Mục tiêu nghiên cứu: Kỹ thuật sửa van trong hở nặng van 2 lá là phức tạp do can thiệp vào nhiều bộ phận
của bộ máy van và công việc đòi hỏi độ chính xác cao. Điểm mấu chốt quan trọng trong phẫu thuật sửa van 2 lá
là đánh giá chính xác tổn thương các dây chằng và sửa chữa đúng kỹ thuật. Từ trước tới nay kỹ thuật sửa chữa
dây chằng chủ yếu là làm ngắn lại, tách dính, chuyển vị Ngày nay, có thể dùng chỉ PTFE tạo dây chằng mới
thay thế dây chằng bị hư hại, tăng cường cho lá van. Do những tiện ích, hiệu quả của kỹ thuật nên cần được
nghiên cứu áp dụng.
Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu. Các bệnh nhân được chẩn đoán trên lâm sàng và siêu âm hở van 2 lá
nặng do sa van (type 2) có chỉ định sửa van. Thời gian: 1/12/2009 đến nay.
Kết quả nghiên cứu: có 4 trường hợp sửa van 2 lá có tạo dây chằng mới bằng chỉ PTFE. Nam: 2 trường
hợp. Nữ: 2 trường hợp. NYHA II: 1 trường hợp. NYHA III: 3 trường hợp. Siêu âm tim: hở nặng van 2 lá: 3,5/4
và 4/4 do sa lá trước (Type 2). Nguyên nhân chủ yếu do dãn dài quá mức hoặc đứt dây chằng. Kỹ thuật mổ:
dùng chỉ PTFE 4-0 hoặc 5– 0 tạo dây chằng mới kèm đặt vòng van 2 lá. Siêu âm kiểm tra: lá van hoạt động tốt,
không hở. Hậu phẫu tiến triển thuận lợi, không biến chứng, không tử vong.
Kết luận: Những trường hợp hở van 2 lá nặng do tổn thương dây chằng có chỉ định sửa van 2 lá dùng chỉ
PTFE 4-0/5–0 tạo dây chằng mới là kỹ thuật không phức tạp, rút ngắn thời gian, thêm một lựa chọn kỹ thuật
cho phẫu thuật viên. Kết quả ban đầu cho thấy lợi ích của kỹ thuật, chúng tôi cần nghiên cứu thêm để có số liệu
lớn và kết luận thuyết phục hơn.
5 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 273 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sửa van 2 lá với tạo dây chằng bằng chỉ Polytetrafluoroethylene (PTFE), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 470
SỬA VAN 2 LÁ VỚI TẠO DÂY CHẰNG BẰNG CHỈ
POLYTETRAFLUOROETHYLENE (PTFE)
Trần Quyết Tiến*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Kỹ thuật sửa van trong hở nặng van 2 lá là phức tạp do can thiệp vào nhiều bộ phận
của bộ máy van và công việc đòi hỏi độ chính xác cao. Điểm mấu chốt quan trọng trong phẫu thuật sửa van 2 lá
là đánh giá chính xác tổn thương các dây chằng và sửa chữa đúng kỹ thuật. Từ trước tới nay kỹ thuật sửa chữa
dây chằng chủ yếu là làm ngắn lại, tách dính, chuyển vịNgày nay, có thể dùng chỉ PTFE tạo dây chằng mới
thay thế dây chằng bị hư hại, tăng cường cho lá van. Do những tiện ích, hiệu quả của kỹ thuật nên cần được
nghiên cứu áp dụng.
Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu. Các bệnh nhân được chẩn đoán trên lâm sàng và siêu âm hở van 2 lá
nặng do sa van (type 2) có chỉ định sửa van. Thời gian: 1/12/2009 đến nay.
Kết quả nghiên cứu: có 4 trường hợp sửa van 2 lá có tạo dây chằng mới bằng chỉ PTFE. Nam: 2 trường
hợp. Nữ: 2 trường hợp. NYHA II: 1 trường hợp. NYHA III: 3 trường hợp. Siêu âm tim: hở nặng van 2 lá: 3,5/4
và 4/4 do sa lá trước (Type 2). Nguyên nhân chủ yếu do dãn dài quá mức hoặc đứt dây chằng. Kỹ thuật mổ:
dùng chỉ PTFE 4-0 hoặc 5– 0 tạo dây chằng mới kèm đặt vòng van 2 lá. Siêu âm kiểm tra: lá van hoạt động tốt,
không hở. Hậu phẫu tiến triển thuận lợi, không biến chứng, không tử vong.
Kết luận: Những trường hợp hở van 2 lá nặng do tổn thương dây chằng có chỉ định sửa van 2 lá dùng chỉ
PTFE 4-0/5–0 tạo dây chằng mới là kỹ thuật không phức tạp, rút ngắn thời gian, thêm một lựa chọn kỹ thuật
cho phẫu thuật viên. Kết quả ban đầu cho thấy lợi ích của kỹ thuật, chúng tôi cần nghiên cứu thêm để có số liệu
lớn và kết luận thuyết phục hơn.
Từ khóa: sửa van hai lá
ABSTRACT
MITRAL VALVE REPAIR WITH NEO – CHORDAE MADE
BY POLYTETRAFLUOROETHYLENE (PTFE ) SUTURE
Tran Quyet Tien * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 470 - 474
Background: Mitral valve repair for severe regurgitation is difficult procedure because of performing in
many part of mitral valve apparatus and requiring a hightly exact technique. The important key for mitral
valve repair is an exact estimation of chordate lesions and to repair them well. Up to now, the main technique
for repairing of lesion chordaes are shortening, fenetrating, transpositionNow, we can use PTFE suture to
make the neo – chordae to replace a disuse chordate or to enforce the leaflet motion. This is a new tech -nique
which needs to study more in Viet Nam.
Material and Method: Prospective study. Time: from 1/12/ 2009 to now. All of the patient who are decided
to have mitral valve repair because of severe regurgitation in clinical feature and Echocardiography.
Results: Total: 4 cases. Male: 2 cases. Female: 2 cases. NYHA II: 1 case. NYHA III: 3 cases.
Echocardiography: Mitral valve regurgitation: 3,5/4 – 4/4 because of leaflet prolapsus (Type 2) which were
caused by elongation or rupture of chordate. The surgical technique: Neo – chordate made by PTFE suture 4–
*Bệnh viện Chợ Rẫy, Bộ Môn Ngoại Lồng ngực – Tim mạch Đại Học Y Dược TP. HCM
Tác giả liên lạc: PGS TS Trần Quyết Tiến ĐT: 0983997725 Email: tienchoray@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 471
0/5–0 to fix the leaflet in combination with using rigid ring (Carpentier – Edwards ring). Echocardiography in
postoperative time: good coaptation of leaflets without leakage. None complication neither death.
Conclusion: The surgical technique to make neo – chordate is not difficult and it can reduce the operative
time. This is another choice for chordae plasty when we can not do shortening or transposition of chordate. The
early result shows us some advantages of technique. We should continue to have a large patient number and more
persuasive conclusion.
Key words: mitral valve repair
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sửa van 2 lá là một kỹ thuật quan trọng
trong phẫu thuật tim nhờ những ưu thế của sửa
van so với thay van nói chung. Hoạt động của
bộ máy van 2 lá là một hoạt động phối hợp phức
tạp của các thành phần cấu tạo nên bộ máy này:
2 lá van, phức hợp dây chằng và các trụ cơ, vòng
van, vách ngăn và các thành tim Nguyên
nhân làm tổn thương bộ máy van 2 lá nói chung
và nguyên nhân làm hư hại ảnh hưởng chức
năng lá van nói riêng là phức tạp có nhiều
nguyên nhân, cơ chế khác nhau. Trong kỹ thuật
sửa chữa van 2 lá có kỹ thuật sửa chữa và
chuyển vị dây chằng của các lá van, hoặc dùng
dây chằng nhân tạo là chỉ PTFE 4-0 hoặc 5-0.
Nghiên cứu này khu trú trong những trường
hợp hở van 2 lá có chỉ định sửa van bằng tái tạo
dây chằng mới đơn thuần hoặc kết hợp những
kỹ thuật khác khi sửa van 2 lá.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu: tiến cứu. Thời
gian từ: 1/12/2009 đến nay.
-Qui trình chọn bệnh, chuẩn bị trước mổ, kỹ
thuật thực hiện, săn sóc hậu phẫu và theo dõi
sau mổ làm theo một chương trình soạn sẵn.
-Lựa chọn bệnh nhân
Bệnh nhân nằm trong nghiên cứu bao gồm
những trường hợp từ 16 tuổi trở lên, trên siêu
âm tim bị hở van 2 lá có chỉ định sửa van có kèm
tổn thương dây chằng đơn thuần hoặc có kèm
giãn vòng van.
-Tiêu chuẩn loại trừ
Những trường hợp hở van 2 lá không có
chỉ định sửa van hoặc có chỉ định sửa van
nhưng không cần sửa chữa các dây chằng hoặc
chỉ cần đặt vòng van 2 lá đơn thuần.
-Kết quả sửa van đựợc đánh giá qua siêu âm
ngay sau mổ trong phòng mổ và kiểm tra trong
vòng 1 tháng sau mổ.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Có 4 trường hợp
Trường hợp 1: Bùi Thị Th. Nữ. Sinh năm:
1990
Nhập viện: 13/12/2009. SNV: 106082.
Lý do nhập viện: Khám tổng quát phát hiện
hở van 2 lá nặng
Bệnh sử: Mệt nhiều khi làm nặng hơn 1
năm, mệt nhiều khi gắng sức tăng rõ trong
khoảng 1 tháng, đi khám bệnh và làm siêu âm
tim phát hiện hở van 2 lá nặng, nhập BV Chợ
Rẫy.
Tiền sử: khỏe mạnh, không mắc bệnh mạn
tính, không bị chấn thương.
Lâm sàng: NYHA III.
Cận lâm sàng:
-Chỉ số tim / ngực: 0,6.
-ECG: Nhịp xoang, trục trung gian.
-Siêu âm tim: EF: 69%. Dãn thất trái. Rách lá
trước van 2 lá tại A2 6mm, sa lá trước; sa lá sau
tại P2 do đứt dây chằng. Van 2 lá hở (type 2):
3,5/4 – 4/4. Áp lực động mạch phổi: 20mmHg.
Tường trình phẫu thuật: Khâu lại chỗ rách lá
trước; dùng chỉ PTFE 4-0 tạo các dây chằng mới:
2 cho lá trước và 1cho lá sau. Đặt vòng cứng
Carpentier - Edwards 28. Kiểm tra siêu âm van
hoạt động tốt, không hở. Giải phẫu bệnh: mẫu
bệnh phẩm là dây chằng đứt được cắt ra. Kết
quả: viêm mạn tính không đặc hiệu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 472
Hậu phẫu: tiến triển thuận lợi.
Trường hợp 2: Ngô Thị D. Nữ. Sinh năm:
1962
Nhập viện: 29/12/2009. SNV:111065.
Lý do nhập viện: làm việc mau mệt, nhất là
khi gắng sức
Bệnh sử: Cách nhập viện vài tháng cảm thấy
làm việc mau mệt và nặng ngực nhưng cố làm
việc. Một tháng nay cảm giác này rõ hơn. Đi
khám bệnh và làm siêu âm tim chẩn đoán hở
nặng van 2 lá xin nhập BV Chợ Rẫy.
Tiền sử: khỏe mạnh, không mắc bệnh mạn
tính, không bị chấn thương.
Lâm sàng: NYHA II.
Cận lâm sàng:
-Chỉ số tim / ngực: 0,6.
-ECG: Nhịp xoang, trục trung gian.
-Siêu âm tim: EF: 73%. Dãn thất trái. Sa lá
trước van 2 lá nghi do đứt dây chằng tại các
điểm A1 và A2. Van 2 lá hở (type 2): 3- 3,5/4.
Không tăng áp phổi.
Tường trình phẫu thuật: dùng chỉ PTFE 4-0
tạo 2 dây chằng mới tại các điểm A1 và A2. Đặt
vòng cứng Carpentier - Edwards 28. Kiểm tra
siêu âm van hoạt động tốt, không hở. Giải phẫu
bệnh: mẫu bệnh phẩm là dây chằng đứt được
cắt ra. Kết quả: viêm mạn tính không đặc hiệu
Hậu phẫu: tiến triển thuận lợi.
Trường hợp 3: Nguyễn Văn Th. Nam. Sinh
năm: 1940
Nhập viện: 21/06/2010. SNV: 51333.
Lý do nhập viện: Mệt nhiều khi làm việc
Bệnh sử: Cách nhập viện vài ngày đi khám
tại bệnh viện Chợ Rẫy cho làm siêu âm tim chẩn
đoán hở van 2 lá nặng xin nhập BV Chợ Rẫy.
Tiền sử: biết bị bệnh tim 6 năm, đi khám
bệnh và uống thuốc không đều, không bị chấn
thương.
Lâm sàng: NYHA III.
Cận lâm sàng:
-Chỉ số tim / ngực: 0,7.
-ECG: Nhịp xoang, trục trung gian.
-Siêu âm tim: EF: 65%. Dãn thất trái. Vòng
van 2 lá giãn, các dây chằng lá trước bám bất
thường từ các trụ cơ nằm về phía vách liên thất
gây sa lá trước nặng. Hở van 3 lá nặng (type 2).
Van 2 lá hở: 4/4. Áp lực động mạch phổi: 50
mmHg.
Tường trình phẫu thuật: Cắt bỏ các dây
chằng bị dính và co rút tại A2 dùng 2 sợi chỉ
PTFE tạo 2 dây chằng mới tại A2. Lá sau có đứt
dây chằng ở P3. Cắt bỏ một đoạn hình chữ nhật
dài 5 mm ở đoạn P2 – P3 rồi khâu lại. Đặt vòng
cứng van 2 lá Carpentier - Edwards 28, đặt vòng
cứng van 3 lá Carpentier - Edwards 28. Kiểm tra
siêu âm các van hoạt động tốt, không hở.
Hậu phẫu: tiến triển thuận lợi.
Trường hợp 4: Nguyễn Văn T. Nam. Sinh
năm: 1965
Nhập viện: 5/9/2010. SNV: 77256.
Lý do nhập viện: Mệt, khó thở nhất là khi
gắng sức.
Bệnh sử: Cách nhập viện 3 tháng mệt, khó
thở nhiều khi làm nặng, đi khám bệnh phát
hiện, bị bệnh tim, dùng thuốc. Điều trị không
giảm đi bệnh viện Chợ Rẫy làm siêu âm tim và
cho nhập viện.
Tiền sử: khỏe mạnh, không mắc bệnh mạn
tính, không bị chấn thương.
Lâm sàng: NYHA III.
Cận lâm sàng:
-Chỉ số tim / ngực: 0,7.
-ECG: Nhịp xoang, dày thất trái, trục chuyển
trái. Block nhánh phải hoàn toàn
-Siêu âm tim: EF: 72%. Thông liên nhĩ lỗ thứ
phát, đường kính 18mm. Qp/Qs: 3,5. Dãn thất
trái. Sa lá trước nghi do đứt dây chằng ở A2.Van
2 lá hở (type 2): 3,5/4; van 3 lá hở 4/4. Áp lực
động mạch phổi: 75mmHg.
Tường trình phẫu thuật: Vá lỗ thông liên
thất bằng một miếng màng ngoài tim; dùng chỉ
PTFE 5-0 tạo 2 dây chằng mới tại A2 của lá trước.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 473
Đặt vòng cứng Carpentier - Edwards 28; đặt
vòng cứng van 3 lá Carpentier - Edwards 28.
Kiểm tra siêu âm van hoạt động tốt, không hở.
Cấy vi trùng: không có vi trùng mọc.
Hậu phẫu: tiến triển thuận lợi.
BÀN LUẬN
Về mặt giải phẫu bộ máy van lá được cấu
thành bởi nhiều bộ phận. Sự phối hợp nhịp
nhàng và chính xác của mỗi bộ phận đó đảm
bảo chức năng vận hành của van 2 lá trong hoạt
động của trái tim. Mỗi một bộ phận của van 2 lá
đều nhằm bảo đảm cho sự đóng mở chính xác,
nhịp nhàng của 2 lá van. Khi chỉ một bộ phận bị
tổn thương đều ảnh hưởng đến hoạt động các lá
van(1, 2). Do vậy việc sửa chữa van 2 lá là một kỹ
thuật phức tạp, yêu cầu phải có đánh giá vừa
toàn bộ vừa chi tiết, với độ chính xác cao. Từ
trước tới nay việc sửa chữa hở van 2 lá có liên
quan đến tổn thương dây chằng chủ yếu dựa
trên sửa chữa chính dây chằng đó hoặc chuyển
vị các dây chằng. Gần đây việc này trở nên đơn
giản hơn khi người ta sử dụng dây chằng nhân
tạo bằng chỉ PTFE 4–0 hoặc 5–0 thay thế các dây
chằng bị tổn thương.
Trong nghiên cứu của chúng tôi hoàn cảnh
phát hiện bệnh không liên quan chấn thương
trong tiền sử, không phát hiện những biểu hiện
liên quan viêm nội tâm mạc, tiền căn thấp tim
hoặc viêm khớp trước đó và không có biểu hiện
cụ thể hoặc đã từng nằm viện. Quan trọng là
trong thời gian gần trước nhập viện sức khỏe các
bệnh nhân giảm sút nhanh, có suy tim: NYHA
III: 3 trường hợp, NYHA II: 1 trường hợp; làm
siêu âm phát hiện hở van 2 lá nặng trên lâm
sàng và siêu âm nên được nhập viện để mổ.
Tình trạng van 2 lá hở nặng trên siêu âm có trên
4 trường hợp do tổn thương các lá van, dây
chằng; ngoài ra có kèm hở nặng van 3 lá; đặc
biệt là có 1 trường hợp bệnh tim bẩm sinh ở
người lớn: thông liên nhĩ lỗ thứ phát có kém
tăng áp động mạch phổi rất cao 75mmHg. Có 2
trường hợp được cắt dây chằng bị đứt gửi giải
phẫu bệnh cho biết viêm mạn tính không đặc
hiệu và 1 trường hợp cấy vi trùng không có vi
trùng mọc. Về mặt bệnh nguyên, chúng tôi chưa
tìm được nguyên nhân cụ thể kinh điển như
viêm nội tâm mạc, bệnh lý thoái hóa, bệnh lý
hậu thấp.
Các tổn thương trên van 2 lá và bộ máy dưới
van được chẩn đoán trước mổ bằng siêu âm và
đánh giá tại chỗ khi mở nhĩ trái là phù hợp. Tổn
thương trên van tim khi mở tim chủ yếu là do
tổn thương tại dây chằng lá trước bị đứt hoặc
dãn dài hoặc kết dính nhau và dính vào vách,
các tổn thương khác ít gặp hơn như tổn thương
dây chằng lá sau, rách lá van. Không có tình
trạng vôi hóa nặng ở lá van, vòng van hay dây
chằng. Có 1 trường hợp bị rách gọn ở lá trước,
các trường hợp đều có các lá van trước và sau
đều còn tốt mềm mại, không bị tổn thương trên
lá van và co rút bộ máy dưới van
Kỹ thuật mổ cơ bản chúng tôi thực hiện
theo nguyên tắc chung trong sửa van 2 lá(1, 2, 4,
5). Cả 4 trường hợp đều bị giãn vòng van ở
những mức độ ít nhiều khác nhau nên cả 4
trường hợp đều được đặt vòng van sau sửa để
đảm bảo duy trì kết quả sửa lâu dài cũng như
cố định lại vòng van đã bị giãn. Các lá van còn
mềm mại sử dụng tốt khi: không bị can – xi
hóa, không bị co rút, không bị dày cứng hoặc
nếu bị dày lên còn gọt mỏng hay bóc mỏng đi
được. Lá van bị rách được khâu kín bằng chỉ
Prolène 5–0 mũi rời. Dây chằng: vẫn ưu tiên
dùng các dây chằng tự nhiên của tim khi bị
giãn dài ra thì làm ngắn lại hoặc khi cần bóc
tách dính (fenetrating), xẻ trụ cơ, chuyển vị
dây chằng trung gian hay lá van ra mép van
không chuyển vị dây chằng từ lá sau ra lá
trước mà dùng chỉ PTFE tạo dây chằng cho lá
trước. Những trường hợp dây chằng hay nhú
cơ đã bị đứt chúng tôi cắt bỏ tạo dây chằng
mới bằng chỉ PTFE. Thường mỗi vị trí chúng
tôi đặt một dây chằng mới là một cặp chỉ song
song. Ở những vị trí A1, A2, hoặc giữa A1–A2
hoặc sự phân bố dây chằng tự nhiên thưa
chúng tôi đặt 2 cặp chỉ PTFE nhằm đảm bảo
kết quả lâu dài. Chủ yếu dây chằng nhân tạo
chúng tôi làm cho là trước, chỉ có 1 trường hợp
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Khoa 474
lá sau bị cắt bỏ một đoạn dài, dây chằng tự
nhiên ít chúng tôi không chuyển vị các dây
chằng tại chỗ mà đặt luôn một cặp chỉ PTFE
làm dây chằng cho lá sau. Một trong những
điểm cần chú ý về mặt kỹ thuật là đo chiều dài
dây chằng cho thích hợp. Nguyên tắc chúng
tôi sử dụng là dùng các dây chằng tự nhiên
cạnh đó làm chuẩn để đo, khâu tạm và thử
bằng bơm nước vào thất trái. Thường có thể
phải điều chỉnh một vài mm là các lá van khép
kín. Nói chung những nguyên tắc về sửa van 2
lá của GS. Carpentier(1,2) là chuẩn mực tuân thủ
vấn đề ở đây chỉ là sự tạo thêm các dây chằng
mới bằng chỉ PTFE làm cho cuộc mổ đơn giản
hơn. Những nghiên cứu của nước ngoài về kỹ
thuật mổ không phức tạp, tác dụng, tính chất
bền lâu của dây chằng bằng chỉ PTFE đã được
khẳng định và áp dụng nhiều nơi(3, 4, 5).
Giống như những trường hợp sửa van 2 lá
nói chung, hậu phẫu của các bệnh nhân này tiến
triển nhẹ nhàng thuận lợi,(1, 3, 5) ra viện trung bình
10 ngày sau mổ mà không có những biến chứng,
vấn đề lâm sàng nào. Kiểm tra sau mổ một
tháng kết quả tốt.
KẾT LUẬN
Cho đến nay ưu tiên sửa van vẫn là một
hướng điều trị ngoại khoa bệnh lý van 2 lá được
nhiều phẫu thuật viên quan tâm nhờ những
thuận tiện cho bệnh nhân và kết quả lâu dài của
kỹ thuật(1, 2, 3). Nhưng sửa van tốt, hoạt động hiệu
quả vẫn là một vấn đề không đơn giản trong đó
đặc biệt là chỉnh sửa các dây chằng. Đây là một
trong những kỹ thuật quyết định thành bại của
sửa van 2 lá. Việc sử dụng chỉ PTFE tạo dây
chằng mới cho các lá van giúp phẫu thuật viên
rất nhiều trong khi sửa van: nhanh chóng thay
thế các dây chằng hư hại, bổ sung thêm dây
chằng cho lá van ở những vị trí quan trọng hoặc
bị thiếu mà không phụ thuộc vào chuyển vị dây
chằng tự nhiên. Kỹ thuật không phức tạp, hiệu
quả nhanh chóng, kết quả lâu dài đó là những
thuận lợi mà kỹ thuật này đem lại. Chúng ta cần
nghiên cứu thêm để có những kết luận của riêng
chúng ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A. Carpentier et A. Starr (1991): Chirurgie de la valve mitral et
de l’oreillette gauche. Masson.
2. B. Savage et F. Bolling: Mitral valve repaire. Lippincott
Williams & Wilkins.
3. J. Seeburger et al (2007): Gore – Tex Chordoplasty in
Degenative Mitral valve Repair. Thoracic and Cardiovascular
Surgery 19: 111 – 115.
4. R. M. Suri et al (2006): Survival Advantage and Improved
Durability of Mitrla Repair for Leaflet Prolapse Subsets in the
Current Era. Ann. Thorac. Surg 82: 819 – 827.
5. D.H. Adams et al (2001): Artificial Mitral Valve Chordae
Replacement Made Simple. Ann Thorac. Surg71 94): 1377 –
1379.