Bài viết này nghiên cứu tác động của thay đổi chính sách tiền tệ đến giá cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam trong giai đoạn từ tháng 01/2002 đến tháng 12/2014 bằng
việc sử dụng mô hình VAR kết hợp với mô hình nghiên cứu của Thorbecke (1997). Kết quả cho thấy
lãi suất tái chiết khấu có tác động ngược chiều và cung tiền đều có tác động cùng chiều đến giá cổ
phiếu. Ngoài ra, VN-INDEX còn phản ứng khá mạnh với sự thay đổi của lạm phát và sản lượng, nhất
là ở giai đoạn sau khi NHNN ban hành chỉ thị số 03/2007/CT-NHNN về kiểm soát quy mô, chất lượng
tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán đối với các tổ chức tín dụng.
10 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 701 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của chính sách tiền tệ đến giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
44
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐẾN GIÁ CỔ
PHIẾU TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Đặng Thị Quỳnh Anh*
TÓM TẮT
Bài viết này nghiên cứu tác động của thay đổi chính sách tiền tệ đến giá cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam trong giai đoạn từ tháng 01/2002 đến tháng 12/2014 bằng
việc sử dụng mô hình VAR kết hợp với mô hình nghiên cứu của Thorbecke (1997). Kết quả cho thấy
lãi suất tái chiết khấu có tác động ngược chiều và cung tiền đều có tác động cùng chiều đến giá cổ
phiếu. Ngoài ra, VN-INDEX còn phản ứng khá mạnh với sự thay đổi của lạm phát và sản lượng, nhất
là ở giai đoạn sau khi NHNN ban hành chỉ thị số 03/2007/CT-NHNN về kiểm soát quy mô, chất lượng
tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán đối với các tổ chức tín dụng.
Từ khóa: giá cổ phiếu, chính sách tiền tệ, thị trường chứng khoán
IMPACT OF MONETARY POLICY TO THE MARKET PRICE OF
SECURITIES IN VIETNAM
ABSTRACT
This paper investigates the impact of monetary policy on stock prices in Vietnam over the
period 2002 - 2014 using VAR model combined with model of Thorbecke (1997). Results indicate
that discount interest rates in the opposite effect and the money supply are affected the same way
on stock prices. Additionally, VN-INDEX also react strongly to changes in inflation and output,
particularly in the period after the State Bank issued Directive No. 03/2007/CT-NHNN on controlling
the size, quality credit and loans in securities trading.
Keywords: stock prices, monetary policy, stock market
* ThS. GV. Khoa Tài chính, Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM.
Email: anhdtq@buh.edu.vn - Điện thoại: 0908.642674
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Qua hơn 15 năm hình thành và phát triển,
thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam
ngày càng chứng tỏ vai trò là kênh huy động
vốn trung dài hạn cho nền kinh tế, tạo thanh
khoản cho chứng khoán được phát hành và
là nơi đánh giá hoạt động của các doanh
nghiệp cũng như cung cấp cơ hội đầu tư cho
công chúng. Tuy nhiên, thị trường cũng trải
qua nhiều giai đoạn biến động mạnh về giá
cổ phiếu, giá trị giao dịch, số lượng công ty
chứng khoán, số lượng công ty niêm yết... Sự
thăng trầm đó do tác động của nhiều nhân tố
trong đó không thể không kể đến các chính
sách kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Tuy nhiên, các nhân tố vĩ mô trong nền
kinh tế lại chịu tác động mạnh từ những thay
đổi trong điều hành chính sách tiền tệ của
Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Vì vậy, cần có
nghiên cứu chuyên sâu được thực hiện nhằm
45
Tác động của chính sách . . .
giúp các nhà hoạch định chính sách hiểu rõ
hơn về cơ chế tác động của chính sách tiền
tệ đến giá cổ phiếu trên TTCK, từ đó có các
quyết định hỗ trợ cho sự phát triển của TTCK
Việt Nam.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC
NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý thuyết
Theo mô hình chiết khấu cổ tức (Dividend
Discount Model – DDM) của Gordon (1962)
thì giá cổ phiếu được xác định dựa trên giá trị
hiện tại của dòng cổ tức kỳ vọng nhận được
trong tương lai và lãi suất yêu cầu của nhà đầu
tư trên thị trường. Giá cổ phiếu S
t
được xác
định như sau:
Trong đó:
E
t
: kỳ vọng của nhà đầu tư dựa trên các
thông tin có được vào thời điểm t
S
t
: giá cổ phiếu ở thời điểm t
D
t+j
: cổ tức dự tính nhận được từ thời điểm
t đến thời điểm j
K: thời gian nắm giữ cổ phiếu
r: lãi suất được sử dụng bởi các nhà đầu
tư trên thị trường khi chiết khấu dòng cổ tức
trong tương lai
Từ công thức (1) cho thấy sự thay đổi
trong điều hành chính sách tiền tệ sẽ tác động
đến giá cổ phiếu qua hai cách. Cách thứ nhất
là ảnh hưởng trực tiếp đến giá cổ phiếu thông
qua tác động đến lãi suất yêu cầu của nhà đầu
tư. Khi NHTW thực hiện nới lỏng tiền tệ sẽ
làm giảm lãi suất trên thị trường, do đó cũng
làm giảm lãi suất yêu cầu của nhà đầu tư khi
mua cổ phiếu công ty, từ đó làm tăng giá cổ
phiếu. Theo Ioannidis and Kontonikas (2008)
cơ chế tác động trên xảy ra dựa trên hai giả
định là: lãi suất chiết khấu mà nhà đầu tư trên
thị trường sử dụng có liên hệ chặt chẽ với lãi
suất thị trường và giả định thứ hai là NHTW
có thể tác động đến lãi suất thị trường. Cách
thứ hai là theo Patelis (1997) chính sách tiền
tệ có thể tác động gián tiếp đến giá cổ phiếu
thông qua tác động đến lợi nhuận kỳ vọng của
công ty trong tương lai, từ đó ảnh hưởng đến
cổ tức kỳ vọng. Việc nới lỏng chính sách tiền
tệ sẽ tác động giảm lãi suất, do đó kích thích
doanh nghiệp tăng đầu tư, mở rộng sản xuất
dẫn đến lợi nhuận được kỳ vọng sẽ tăng lên,
từ đó làm tăng giá cổ phiếu trên TTCK. Vì
vậy, nếu CSTT có ảnh hưởng đến nền kinh tế
thì TTCK cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố
của CSTT.
Theo lý thuyết số lượng tiền tệ của Brunner
(1961), Friedman (1961) và Friedman and
Schwartz (1975) thì chính sách tiền tệ có
thể tác động đến giá cổ phiếu qua việc lựa
chọn danh mục của nhà đầu tư. Khi NHTW
nới lỏng tiền tệ, nhà đầu tư đang nắm giữ các
tài sản khác nhau trong danh mục sẽ chuyển
từ nắm giữ tiền sang nắm giữ các tài sản có
mức sinh lời cao hơn, trong đó có cổ phiếu
(hiệu ứng của cải). Sự gia tăng của mức cầu
cổ phiếu sẽ đẩy giá cổ phiếu trên thị trường
tăng lên.
Rozeff (1974) đã đưa ra mô hình danh mục
đầu tư tiền tệ, vận dụng lý thuyết số lượng
tiền tệ để giải thích về mối quan hệ giữa chính
sách tiền tệ và giá cổ phiếu. Theo đó tác động
của sự gia tăng cung tiền là dẫn đến sự tăng
lên của mức giá cả hàng hóa trong dài hạn, từ
đó làm tăng tỷ lệ lạm phát dự tính trong nền
kinh tế. Việc tăng tỷ lệ lạm phát dự tính (theo
hiệu ứng Fisher) sẽ làm tăng lãi suất danh
nghĩa. Lý thuyết số lượng tiền tệ cho thấy nhà
đầu tư sẽ chuyển từ nắm giữ tiền sang nắm
giữ các tài sản tài chính (trong đó có cổ phiếu)
46
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
để được hưởng tỷ suất sinh lời cao hơn. Do
đó, thúc đẩy tăng giá cổ phiếu trên thị trường.
2.2. Một số nghiên cứu thực nghiệm về tác
động của chính sách tiền tệ đến giá cổ phiếu
Một trong những nghiên cứu sớm nhất
về mối quan hệ giữa CSTT và giá cổ phiếu
là nghiên cứu của (Sprinkel 1964). Dựa trên
phân tích đồ thị đỉnh và đáy của dữ liệu từ
năm 1918 đến 1960 trên thị trường Mỹ, cho
thấy cung tiền và giá cổ phiếu có mối quan hệ
cùng chiều. Những thay đổi của giá cổ phiếu
có độ trễ trung bình 6 tháng so với thay đổi
tốc độ tăng cung tiền.
Từ sau những nghiên cứu ở thập niên 70
của thế kỷ XX, các nghiên cứu về tác động của
CSTT đến giá cổ phiếu trên TTCK tại các quốc
gia trên thế giới tiếp tục phát triển nhiều hướng
tiếp cận khác nhau. Bernanke and Kuttner
(2005) đã sử dụng phương pháp nghiên cứu
sự kiện (event study) để đo lường phản ứng
của giá cổ phiếu đối với những thay đổi của
CSTT (xét trên góc độ toàn thị trường và từng
ngành), đồng thời nghiên cứu nguyên nhân gây
ra những phản ứng đó. Kết quả cho thấy, việc
cắt giảm 25 điểm cơ bản lãi suất ngoài kỳ vọng
làm tăng giá cổ phiếu 1%. Thắt chặt tiền tệ làm
giảm giá cổ phiếu do tăng rủi ro khi đầu tư cổ
phiếu (vì chi phí sử dụng vốn tăng làm giá trị
tài sản doanh nghiệp giảm). Ngoài ra, thắt chặt
tiền tệ còn làm giảm giá cổ phiếu do tác động
vào nhu cầu mua cổ phiếu của nhà đầu tư (tiêu
dùng giảm, tăng tiết kiệm).
Một cách khác để xem xét mối quan hệ này
đó là nghiên cứu ảnh hưởng của những thay
đổi CSTT ngoài kỳ vọng đối với giá cổ phiếu.
Vì theo lý thuyết thị trường hiệu quả, những
thay đổi cung tiền (hoặc lãi suất) trong dự đoán
sẽ không tác động đến TTCK. Nhiều nghiên
cứu như của Bernanke and Kuttner (2005),
Ehrmann and Fratzscher (2004), Rigobon and
Sack (2004) trên thị trường Mỹ cho thấy tăng
cung tiền ngoài kỳ vọng có mối quan hệ cùng
chiều với giá cổ phiếu trên thị trường.
Lastrapes (1998) đã sử dụng mô hình
VAR để ghiên cứu về mối quan hệ dài hạn
giữa CSTT và giá cổ phiếu trên TTCK. Kết
quả cho thấy giá cổ phiếu tại các quốc gia
G7 có phản ứng cùng chiều với các thay đổi
của cung tiền. Ở khu vực ASEAN gần đây có
nghiên cứu của Raghavan and Dungey (2015)
tại Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia
và Phillipin. Kết quả cho thấy tại các quốc gia
được nghiên cứu, giá cổ phiếu có mối quan hệ
dài hạn với các biến vĩ mô như tổng sản lượng
thực, tổng cung tiền và tỷ giá hối đoái.
Để đánh giá tác động của các nhân tố vĩ
mô đến TTCK tại Việt Nam, thời gian gần đây
đã có một số nghiên cứu như: Trần Thị Xuân
Anh và Ngô Thị Hằng (2012), Phan Thị Bích
Nguyệt và Phạm Dương Phương Thảo (2013),
Phan Đình Nguyên và Hà Minh Phước (2012)...
Hầu hết đây là các nghiên cứu định lượng nhằm
đánh giá tác động của một số biến vĩ mô như:
lạm phát, tỷ giá, cung tiền, lãi suất, sản lượng
công nghiệp đến thanh khoản, hoặc giá cổ
phiếu, tỷ suất sinh lời của cổ phiếu trên TTCK
Việt Nam. Các nghiên cứu trên bước đầu đã
giúp cho nhà hoạch định chính sách thấy được
tác động của các nhân tố vĩ mô đến TTCK, từ
đó hỗ trợ cho việc ra các quyết định chính sách.
Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu đánh giá riêng
tác động của CSTT đến giá cổ phiếu trên
TTCK tại Việt Nam.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ
NGUỒN DỮ LIỆU
Mô hình nghiên cứu được xây dựng dựa
trên mô hình của Thorbecke (1997) và được
phát triển bởi nhiều nghiên cứu sau này như
Ehrmann, Fratzscher và cộng sự (2005),
Ben Naceur, Boughrara và cộng sự (2007),
Ioannidis và Kontonikas (2008).
47
Tác động của chính sách . . .
Δs
t
= β
0
+ β
1
Δr
t
+ЃX
t
+ ε
t
(2)
Trong đó: s
t
là giá cổ phiếu, r là lãi suất
chính sách (là công cụ do NHTW sử dụng
như: lãi suất tái chiết khấu hoặc lãi suất liên
ngân hàng). Z là vector các biến vĩ mô có thể
tác động đến việc điều hành CSTT (lạm phát,
tăng trưởng kinh tế, lãi suất thị trường...). X
là vector các biến vĩ mô có tác động đến giá
cổ phiếu. Công thức (2) cho biết phản ứng của
giá chứng khoán khi có sự thay đổi của lãi suất
chiết khấu và các biến số vĩ mô trong vector X.
Để xem xét tác động của CSTT đến giá
cổ phiếu trên TTCK Việt Nam, các biến số
trong phương trình (2) được xác định như sau:
Δs
t
là thay đổi giá cổ phiếu với đại diện là
chỉ số chứng khoán VN-Index. Δr
t
là thay đổi
lãi suất tái chiết khấu do NHNN thông báo.
Vector X
t
gồm các biến vĩ mô như sau: chỉ số
sản xuất công nghiệp (IPI) và chỉ số giá tiêu
dùng (CPI) và lãi suất thị trường (LR) và cung
tiền (M2). Mô hình nghiên cứu về thay đổi
của giá cổ phiếu trước cú sốc trong điều hành
CSTT được biểu diễn như sau:
ΔVNI
t
= β
0
+ β
1
Δr
t
+Γ›X
t
+ ε
t
(3)
Trong đó, vector X
t
gồm có các biến:
sản lượng (IPI), giá hàng hóa (CPI) và cung
tiền (M2).
VN-INDEX được lựa chọn là biến đại diện
cho giá cổ phiếu toàn thị trường. Việc lựa chọn
chỉ số chứng khoán làm đại diện cho sự thay
đổi của TTCK được sử dụng tại nhiều nghiên
cứu như Rigobon và Sack (2004), Ioannidis
và Kontonikas (2008), Stoica and Diaconașu
(2012), Raghavan và Dungey (2015).
Biến đại diện cho điều hành CSTT của
NHNN là lãi suất tái chiết khấu (DR), vì đây
là lãi suất thấp nhất mà NHNN sẵn sàng cho
các NHTM vay. Các lãi suất khác trên thị
trường như lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay,
lãi suất liên ngân hàng có xu hướng biến động
cùng chiều với lãi suất này.
Chỉ số sản xuất công nghiệp được nhiều
nghiên cứu trên thế giới sử dụng như là thước
đo để thay thế cho biến số tăng trưởng GDP
như Thorbecke (1997), Ben Naceur, Boughrara
và cộng sự (2007), Ioannidis và Kontonikas
(2008), Raghavan và Dungey (2015).
Biến cung tiền M2 đại diện cho mục tiêu
trung gian của CSTT. Đối với các nghiên cứu
được thực hiện tại nhiều quốc gia có mức độ
phát triển kinh tế không đồng đều như nghiên
cứu của Lastrapes (1998), Aziza (2010) thì
biến đại diện cho mục tiêu trung gian của
CSTT thường được lựa chọn là cung tiền.
Bảng 2: Tổng hợp các biến số và nguồn dữ liệu
Biến số Ký hiệu Diễn giải Nguồn
Chỉ số chứng khoán VN-Index VN-Index Log(VN-Index
t
/VN-Index
t-1
) HOSE
Lãi suất tái chiết khấu DR
Lãi suất tái chiết khấu do NHNN
Việt Nam công bố (%)
NHNN
Chỉ số sản xuất công nghiệp IP Chỉ số sản xuất công nghiệp (%) ARIC1
Lạm phát CPI Chỉ số giá tiêu dùng (%) IFS2
Cung tiền M2 Tổng phương tiện thanh toán (%) IFS
Lãi suất cho vay LR
lãi suất cho vay của các ngân hàng
thương mại (%/năm)
IFS
1 Asia Regional Integration Center (Trung tâm Hội nhập Khu vực Châu Á)
2 International Financial Statistics (Thống kê tài chính quốc tế)
48
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu tần suất tháng
trong giai đoạn từ tháng 01/2002 đến tháng
12/2014 với 156 quan sát. Nguyên nhân là do
trong khoảng thời gian từ 2000- 2001, TTCK
Việt Nam mới bắt đầu hoạt động với 5 công
ty niêm yết, giá trị vốn hóa thị trường nhỏ hơn
1% GDP, giá trị giao dịch hàng ngày chỉ vài
tỷ đồng, do đó chưa thực sự thu hút được sự
quan tâm của đông đảo công chúng.
4. KIỂM ĐỊNH TÍNH DỪNG VÀ LỰA
CHỌN ĐỘ TRỄ TỐI ƯU
Để ước lượng phương trình (3) nghiên cứu
sử dụng mô hình tự hồi quy vector (VAR). Mô
hình VAR do Sims, Stock và cộng sự (1990)
xây dựng để nghiên cứu và dự báo động thái
của các biến số kinh tế vĩ mô. Trong mô hình
VAR, mỗi biến số được giải thích bằng một
phương trình chứa các giá trị trễ của các biến
số khác.
4.1. Kiểm định tính dừng
Hồi quy theo mô hình VAR đòi hỏi các
biến được sử dụng phải dừng để tránh hiện
tượng hồi quy giả mạo, kết quả ước lượng
không đáng tin cậy. Kết quả kiểm định tính
dừng được thể hiện trong bảng 3:
Bảng 3: Kết quả kiểm định ADF và PP các chuỗi dữ liệu mô hình VAR
Biến số
Chuỗi gốc Chuỗi sai phân bậc I
Kết
quả
Trị thống kê t
(Kiểm định ADF)
Trị thống kê t
(Kiểm định PP)
Trị thống kê t
(Kiểm định ADF)
Trị thống kê t
(Kiểm định PP)
VN-
INDEX -7,5982*** -7,4894*** I(0)
DR -11,4698*** -11,5486*** I(0)
IP -4,1414*** -10,2782*** I(0)
CPI -2,8099* -2,6210* I(0)
M2 -10,3768*** -10,4916*** I(0)
LR -3,2561 -2,4372 -5,4899*** -8,2992*** I(1)
(Ghi chú: *, *** lần lượt cho biết mức ý nghĩa 10% và 1%)
Nguồn: Trích xuất từ phần mềm Eviews 8.0
Từ kết quả ở bảng 3, các chuỗi đều dừng ở
bậc gốc, trừ lãi suất cho vay (LR). Vì vậy, để
đảm bảo các chuỗi dữ liệu đều dừng, tác giả
tiến hành lấy sai phân bậc I cho chuỗi LR. Kết
quả cho thấy chuỗi LR dừng ở sai phân bậc I
với mức ý nghĩa 1%.
4.2. Lựa chọn độ trễ tối ưu
Bảng 4 cho thấy, ba tiêu chí là FBE, AIC,
và HQ đều cho kết quả lựa chọn độ trễ là 2.
Theo Brooks (2008), việc lựa chọn độ trễ tối
ưu thường sử dụng tiêu chuẩn AIC và FPE; vì
vậy tác giả chọn độ trễ tối ưu cho mô hình là 2.
Bảng 4: Xác định độ trễ tối ưu
Lag LogL LR FPE AIC SC HQ
0 -2556.863 NA 38039454 34.48139 34.72332 34.57968
1 -2223.622 630.6988 704275.6 30.49157 31.45928* 30.88473
2 -2155.570 123.3157 459278.5* 30.06134* 31.75484 30.74938*
3 -2125.525 52.02426 500713.1 30.14127 32.56056 31.12419
4 -2096.995 47.10227 560136.2 30.24155 33.38662 31.51934
5 -2065.342 49.71046 605244.8 30.29989 34.17075 31.87256
6 -2028.285 55.21256* 613852.4 30.28570 34.88235 32.15324
Nguồn: Trích xuất từ phần mềm Eviews 8.0
49
Tác động của chính sách . . .
4.3. Các kiểm định mô hình VAR
Từ kết quả kiểm định tính ổn định tổng
quát của mô hình bằng nghiệm nghịch đảo của
đa thức đặc tính AR cho thấy tất cả các nghiệm
của đa thức đều nằm trong vòng tròn đơn vị,
chứng tỏ mô hình VAR được ước lượng có
tính ổn định. Kết quả kiểm định tương quan
chuỗi của phần dư cho thấy không có tồn tại
tương quan chuỗi của phần dư. Vì vậy, mô
hình VAR được ước lượng là đáng tin cậy.
Lags LM-Stat Prob
1 46.27245 0.1173
2 45.82125 0.1265
3 40.08518 0.2938
4 43.56162 0.1807
5 46.99930 0.1037
6 39.36892 0.3216
7 49.73832 0.0635
8 38.06107 0.3757
9 36.55984 0.4427
10 27.16609 0.8556
Probs from chi-square with 36 df.
Nguồn: Trích xuất từ phần mềm Eviews 8.
5. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
5.1. Phân tích phản ứng đẩy
Từ hình 1 cho thấy phản ứng của VN-
INDEX khi có cú sốc lãi suất tái chiết khấu
xảy ra đúng như dự đoán. Sự tăng lên đột ngột
của lãi suất tái chiết khấu làm VN-INDEX
giảm mạnh ở mức 2,5% ngay ở tháng thứ hai.
Sau đó, VN-INDEX tiếp tục sụt giảm về mức
cân bằng mới là giảm 4% sau 12 tháng xảy ra
cú sốc. Kết quả này phản ánh đúng diễn biến
thực tế trên TTCK Việt Nam, đặc biệt từ năm
2008 đến nay. Việc tăng lãi suất tái chiết khấu
đột ngột vào tháng 05/2008 từ 6% lên 11% và
tăng liên tục các tháng sau đó đến cuối năm
2008; cùng với các biện pháp thắt chặt tiền tệ
khác như tăng tỷ lệ DTBB, khống chế tổng dư
nợ cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư
kinh doanh chứng khoán đã gây khó khăn về
thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, đẩy lãi
suất trên thị trường tăng cao.
Sự tăng lên của lãi suất thị trường làm tăng
chi phí đi vay của doanh nghiệp, từ đó làm
giảm lợi nhuận kỳ vọng và tăng lãi suất chiết
khấu khi định giá cổ phiếu. Theo mô hình chiết
khấu cổ tức và lý thuyết số lượng tiền tệ thì giá
cổ phiếu sẽ giảm. Vì vậy, việc thắt chặt tiền
tệ từ đầu năm 2008 đã làm VN-INDEX liên
tục giảm nhiều tháng và đạt mức thấp nhất 12
tháng sau đó với 261,54 điểm.
Hình 1: Phản ứng tích lũy của VN-INDEX-Index
do sốc lãi suất tái chiết khấu, cung tiền, lãi suất
thị trường, giá và sản lượng
Sốc lãi suất tái chiết khấu
Sốc lãi suất thị trường
50
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Sốc M2
Sốc sản lượng
Sốc giá
Nguồn: Trích xuất từ phần mềm Eviews 8.0
Lãi suất thị trường tác động đến VN-
INDEX đúng như kỳ vọng. Chỉ số giá cổ
phiếu giảm 1% ngay có cú sốc xảy ra đối với
lãi suất thị trường và đạt mức cân bằng mới
là giảm 2% sau 2 quý. Từ kết quả này cho
thấy mức tăng của VN-INDEX do sốc lãi suất
lãi suất thị trường yếu hơn do sốc lãi suất tái
chiết khấu vì lãi suất thị trường chỉ là một
trong các kênh truyền dẫn tác động của CSTT
nên mức ảnh hưởng không lớn như lãi suất tái
chiết khấu, một công cụ của CSTT.
Cú sốc sản lượng không tác động ngay
lập tức tới VN-INDEX mà bắt đầu xảy ra sau
1 quý. VN-INDEX tăng từ tháng thứ 4 với
mức 1% và đạt mức cân bằng mới tăng 2%
sau 6 tháng. Kết quả này đúng như kỳ vọng và
giống với kết quả của Phan Thị Bích Nguyệt
2013, Võ Lê Mai (2012) cho thị trường Việt
Nam và cũng như một số nghiên cứu trên các
thị trường phát triển và thị trường mới nổi như
(Thorbecke 1997, Ben Naceur, Boughrara et
al. 2007, Ioannidis and Kontonikas 2008,
Raghavan and Dungey 2015). Theo mô hình
chiết khấu cổ tức và lý thuyết số lượng tiền
tệ, sự gia tăng của sản lượng trong nền kinh
tế cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp tốt hơn, gia tăng lợi nhuận
từ đó tác động làm tăng dòng tiền kỳ vọng và
tăng giá cổ phiếu.
Ngược lại với cú sốc sản lượng, VN-
INDEX phản ứng khá mạnh trước cú sốc lạm
phát. VN-INDEX bắt đầu giảm từ ngay từ
tháng đầu tiên khi có cú sốc chỉ số giá tiêu
dùng xảy ra và đạt mức cân bằng mới giảm tới
9% sau 3 quý. Kết quả này cho thấy các nhà
đầu tư trên TTCK Việt Nam phản ứng mạnh
trước cú sốc chỉ số giá tiêu dùng. Lo ngại về
sự bùng lên của lạm phát luôn thường trực và
ảnh hưởng lớn đến tâm lý nhà đầu tư. Ngoài
ra, tác động gián tiếp của lạm phát đến VN-
INDEX là do việc tăng giá hàng hóa trong
nền kinh tế (nhất là những năm có lạm phát
cao như 2008, 2011) đã làm tăng giá nguyên
liệu đầu vào của các doanh nghiệp (trong đó
có các doanh nghiệp niêm yết), gây khó khăn
cho hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó làm
giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây cũng là
yếu tố làm giảm giá cổ phiếu trên thị trường.
Từ các kết quả phân tích ở trên cho thấy,
CSTT đã có những tác động nhất định đến giá
cổ phiếu trên TTCK Việt Nam. Những thay
đổi trong điều hành CSTT của NHNN thông
qua thay đổi lãi suất tái chiết khấu và cung tiền
đã có những ảnh hưởng đến giá chứng khoán,
đặc biệt VN-INDEX khá nhạy cảm với sự thay
51
Tác động của chính sách . . .
đổi của lạm phát. Khi có sự gia tăng đột ngột từ
CPI thì VN-INDEX cũng phản ứng giảm nga