51
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 208- Tháng 9. 2019
Tác động của công nghệ số tới hoạt động 
của khu vực tài chính
Đinh Thị Thanh Long
Khoa Kinh doanh quốc tế, Học viện Ngân hàng
Ngày nhận: 08/05/2019 Ngày nhận bản sửa: 20/07/2019 Ngày duyệt đăng: 27/08/2019
Thế giới đang chuyển mình sang một giai đoạn mới- cuộc cách mạng công 
nghiệp lần thứ 4 (4.0) với đặc điểm là công nghệ kỹ thuật số, công nghệ vật 
lý và công nghệ sinh học. Từng lĩnh vực của nền kinh tế đều chịu tác động 
theo những thay đổi do công nghệ ứng dụng phát triển trên quy mô toàn thế 
giới và thời gian được đo lường bởi từng giây, từng phút. Bài viết tập trung 
vào hai vấn đề: (i) Công nghệ kỹ thuật số; (ii) Tác động của công nghệ kỹ 
thuật số tới hoạt động của khu vực tài chính.
Từ khóa: Cách mạng công nghiệp 4.0; công nghệ kỹ thuật số; khu vực tài 
chính; dịch vụ tài chính.
The impacts of digital technology on financial sector transactions 
Abstract: The World is on a paradigm shift into a new phase of development- the Fourth Industrial Revolution, 
characterized by digital technology, physical technology, and biological technology. There have been achieved 
unprecedented changes drived by technologies respectively in economic own fields every second or minute. 
This paper will forcus on: (i) Digital techonology; and (ii) analyze how digitalization delivery its tasks on financial 
sector.
Keywords: fourth industrial revolution, digital technology/ digitalization, financial sector; financial service.
Long Thi Thanh Dinh, MEc.
Email: 
[email protected]
Fuculty of Internation Business, Banking Academy of Vietnam
1. Công nghệ kỹ thuật số
Cho tới nay, lịch sử nhân loại đang chuyển 
mình theo yêu cầu của cuộc cách mạng 
khoa học công nghiệp lần thứ tư (CMCN 
4.0). CMCN 4.0 khác với các cuộc CMCN 
trước đó bởi đặc tính ứng dụng rộng rãi 
của các thiết bị thông minh hóa sản xuất 
(smart) tạo thành một hệ thống có thể lưu 
trữ thông tin và giao dịch độc lập với nhau 
(Cyber Physical system) trong môi trường 
sản xuất. CMCN 4.0 được tiến hành dựa 
trên nền tảng cốt lõi hội nhập sâu hơn về 
trí tuệ nhân tạo và hệ thống mạng lưới. 
Công nghệ kỹ thuật số, công nghệ vật lý 
và công nghệ sinh học là ba trụ cột quan 
trọng của CMCN 4.0. Ba loại công nghệ 
Tác động của công nghệ số tới hoạt động của khu vực tài chính
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 208- Tháng 9. 201952
này sẽ dẫn dắt cuộc CMCN 4.0 với những 
ứng dụng mạnh mẽ trong từng lĩnh vực 
của nền kinh tế (Bảng 1) và sự tích hợp 
giữa các loại công nghệ với nhau.
Nếu như CMCN 3.0 tập trung vào các lĩnh 
vực phần cứng thì CMCN 4.0 có đặc điểm 
bắt nguồn từ các ứng dụng phần mềm của 
công nghệ kỹ thuật số, công nghệ vật lý và 
công nghệ sinh học.
Công nghệ kỹ thuật số được coi là lực đẩy 
quan trọng của CMCN 4.0. Công nghệ số 
cho phép tất cả các các mạng lưới tích hợp 
với nhau thông qua dòng thông tin xuyên 
suốt chuỗi giá trị. 
Ý tưởng đầu tiên của Internets kết nối 
vạn vật là làm thế nào để mọi giao dịch 
hiện hữu xung quanh chúng ta có thể giao 
tiếp với nhau để đạt được những mục tiêu 
chung. Internet kết nối vạn vật sẽ tích hợp 
sự nhận diện đa hình thức thông qua cảm 
ứng của các mạng không dây và có dây 
cho phép truyền dữ liệu, phân phối cảm 
ứng thông minh từ các trạm thông minh. 
Internet kết nối vạn vật có khả năng nhận 
diện, định vị, lần theo dấu vết và quản lý 
đối tượng. Những ứng dụng của Internet 
kết nối vạn vật ngày càng đóng vai trò 
quan trọng trong các ứng dụng đời sống 
như ngôi nhà thông minh, dịch vụ logistic, 
bảo vệ môi trường, dịch vụ an ninh công 
cộng, kiểm soát thông minh thiết bị báo 
cháy, hệ thống kiểm soát trong dây chuyền 
công nghiệp, và các lĩnh vực khác như đo 
lường, kiểm soát sức khỏe con người. 
Các phát kiến về đường truyền, tốc độ, 
tăng dung lượng lưu trữ và trí tuệ nhân tạo 
đã cho phép các thiết bị này suy nghĩ và 
hành xử (như hoạt động học tập, suy đoán, 
tư duy và lên kế hoạch) giống như con 
người. Trí tuệ nhân tạo đã giúp cho máy 
tính đạt tới những ứng dụng cao hơn tương 
tự như những hành động của con người. 
Bằng cách sử dụng các thuật toán, máy 
tính có thể nhận diện các dữ liệu hiện có, 
lặp lại các quyết định trước khi tìm ra các 
dữ liệu mới. Ngày nay, phân tích dữ liệu 
có thể được sử dụng rộng rãi trong phân 
tích tình cảm trong văn bản, nhận diện 
sinh trắc con người, phân tích thị trường 
chứng khoán và nhận dạng qua hình ảnh 
Dữ liệu lớn và điện toán đám mây là ứng 
dụng thứ ba của công nghệ số. Lý thuyết 4V 
(Li Grouping, 2017) là một khái niệm điển 
hình cho dữ liệu lớn. Dữ liệu lớn có thể được 
thu thập từ nhiều nguồn và nhiều chủng loại, 
chứa dung lượng lớn, tốc độ truyền cao và 
xử lý ngay lập tức. Để xử lý dữ liệu lớn đòi 
hỏi các thiết bị phần cứng với dung lượng 
khổng lồ thì điện toán đám mây ra đời đã 
Bảng 1. Các loại công nghệ và ứng dụng trong CMCN 4.0
Công nghệ Lĩnh vực áp dụng
Công nghệ số - Kết nối Internet vạn vật (The Internet of things)
- Trí tuệ nhân tạo và phương pháp phân tích dữ liệu (Artificial intelligence 
and machine learning)
- Dữ liệu lớn và điện toán đám mây (Big data and cloud computing)
Công nghệ vật lý - Xe không người lái (Autonomous cars)
- Công nghệ in 3D
Công nghệ sinh 
học
- Công nghệ gien (Genetic Engineering)
- Công nghệ thần kinh (Neurotechnology)
Nguồn: Li Guoping et all, 2017
ĐINH THỊ THANH LONG
Số 208- Tháng 9. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 53
khắc phục được điểm yếu này. 
Ngoài các lĩnh vực kể trên, phải kể tới các 
sáng kiến liên quan tới giao diện. Trên 
quy mô toàn cầu, giao diện giúp xây dựng 
nền kinh tế hoạt động đáp ứng theo nhu 
cầu (ví dụ như nền kinh tế chia sẻ). Giao 
diện đã ngay lập lức làm giảm chi phí giao 
dịch khi cá nhân và tổ chức chia sẻ quyền 
sử dụng một tài sản hoặc cung cấp chung 
dịch vụ. Các giao diện tạo ra các cách 
thức mới tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ, 
chỉ cần có điện thoại thông minh. Cũng có 
nhiều thay đổi xảy ra với các nhà cung cấp 
hàng hóa và dịch vụ. Ví dụ, Uber, công 
ty vận chuyển lớn nhất thế giới không 
sở hữu một phương tiện nào; Facebook, 
chủ sở hữu trang báo lớn nhất thế giới 
không cung cấp một nội dung cụ thể nào; 
Alibaba, nhà bán lẻ lớn nhất thế giới, 
không hề có kho hàng. Các giao diện cũng 
cho phép cung cấp hàng loạt dịch vụ mới 
từ giặt là cho tới mua sắm, từ nhà cung 
cấp dịch vụ tại nhà hay giao hàng đường 
dài. Giao diện sẽ hoạt động như nhà môi 
giới thông tin khớp lệnh đặt mua từ phía 
người tiêu dùng và lệnh đặt bán từ phía 
nhà cung cấp với chi phí rẻ nhất, người 
tiêu dùng có nhiều cơ hội lựa chọn và cho 
phép các bên tương tác, đưa ra đánh giá về 
sản phẩm. 
2. Tác động của công nghệ số tới hoạt 
động của khu vực tài chính
Thời đại công nghệ số đang dần dần thay 
đổi cấu trúc và hoạt động của khu vực tài 
chính, từ sự thay đổi chức năng của khu 
vực tài chính, công nghệ mới ứng dụng 
trong khu vực tài chính, sự ra đời của các 
định chế tài chính điện tử, sự ra đời của 
các sản phẩm tài chính điện tử, sự tương 
tác giữa các chủ thể trong khu vực tài 
chính. 
2.1. Các thuật ngữ mới trong lĩnh vực tài 
chính
Một số thuật ngữ mới đã xuất hiện và ngay 
lập tức được chấp nhận rộng rãi trong các 
hoạt động đang diễn ra hàng ngày của khu 
vực tài chính. Để hiểu rõ hơn những thay 
đổi trong hoạt động của khu vực tài chính, 
bài viết sẽ đề cập tới các thuật ngữ này.
- Tài chính số (Digital Finance): Tài chính 
số mô tả quá trình số hóa trong khu vực 
tài chính nói chung và là nền tảng cho sự 
ra đời của các sản phẩm tài chính điện tử 
như thẻ tín dụng (credit), thẻ chip, trao đổi 
dữ liệu điện tử (electronic trading system), 
dịch vụ ngân hàng tại nhà (home banking), 
các dịch vụ giao dịch tại nhà khác (home 
trading services), máy rút tiền tự động 
(automated teller machines) Hơn nữa, 
tài chính số còn giúp người sử dụng tiếp 
cận dịch vụ ngân hàng ở những vùng chưa 
có sự hiện diện thương mại của các định 
chế tài chính với sự hỗ trợ của điện thoại 
và các ứng dụng thông minh khác. Ở một 
số nước, người ta còn sử dụng dịch vụ 
thanh toán trước kèm theo dịch vụ Internet 
(Rizzo, 2014).
- Công nghệ tài chính (Fintech): Thuật 
ngữ Fin Tech, Fin- tech, Fintech cho dù 
được viết khác nhau nhưng đều là từ ghép 
của hai từ “Tài chính/Financial”và “Công 
nghệ/Technology”, mô tả mối quan hệ 
giữa việc sử dụng các công nghệ ứng dụng 
Internet (như điện toán đám mây, điện 
thoại kết nối Internet) với các dịch vụ 
tài chính (như hoạt động cho vay và các 
dịch vụ thanh toán khác). Thông thường 
Fintech sẽ liên quan tới các sáng kiến hoặc 
khó khăn trong quá trình xử lý giao dịch 
tài chính thông qua mạng Internet. Fintech 
giúp các công ty có mô hình giao dịch 
linh hoạt hơn, an toàn hơn, hiệu quả hơn, 
Tác động của công nghệ số tới hoạt động của khu vực tài chính
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 208- Tháng 9. 201954
có nhiều cơ hội lựa chọn dịch vụ và nhà 
cung cấp hơn chứ không phải tập trung 
vào việc thiết kế ra các sản phẩm tài chính 
(Lee, 2015a). 
- E- finance (tài chính điện tử): Có nhiều 
định nghĩa về tài chính điện tử do các nhà 
kinh tế- tài chính tiếp cận khác nhau đối 
với thuật ngữ “electronic”; còn thuật ngữ 
“finance” thì đều được hiểu chung là các 
sản phẩm, dịch vụ và/ hoặc định chế tài 
chính trong khu vực tài chính. Thuật ngữ 
“electronic”, hiểu theo nghĩa rộng là hoạt 
động giao tiếp và xử lý thông tin điện tử 
(Allen và các cộng sự, 2002). Còn Zask 
(2001) lại nhấn mạnh vai trò của Internet 
như là công nghệ điện tử, làm nền móng 
cho tài chính điện tử. Nhưng cũng cần 
phải lưu ý, nếu e- Finance được tiếp cận 
trong mối tương quan với Internet thì 
người ta sẽ tập trung tiêu chuẩn hóa các 
sản phẩm tài chính. Còn ngược lại, người 
ta sẽ tập trung vào năng lực cạnh tranh và 
sự hợp tác giữa các định chế tài chính khi 
nhìn nhận từ giác độ các định chế. 
Do thuật ngữ “Digital Finance” và “e- 
Finance” thường xuyên được sử dụng 
trong đời sống hàng ngày nên nó có thể 
được hiểu với nghĩa tương tự như nhau. Về 
cơ bản, “Digital Finance”, “Fin tech” và 
“e- Finance” đều mô tả quá trình vận động 
trong khu vực tài chính thông qua việc sử 
dụng công nghệ thông tin và giao dịch. 
2.2. Tác động của công nghệ số tới hoạt 
động của khu vực tài chính
Tác động của CMCN 4.0 nói chung và 
công nghệ kỹ thuật số nói riêng tới hoạt 
động của khu vực tài chính được nhìn 
nhận là sự tác động trong một tổng thể 
gọi là “Không gian tài chính số/Digital 
Finance Cube” (Hình 1). Đây được hiểu 
như là một tổ hợp không gian ba chiều: 
(i) chức năng của Digital Finance; (ii) các 
Hình 1. Không gian tài chính số
Nguồn: Gomber, 2017
ĐINH THỊ THANH LONG
Số 208- Tháng 9. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 55
công nghệ có liên quan; (iii) các định chế 
tài chính cung cấp giải pháp tài chính. 
2.2.1. Tác động của công nghệ số tới các 
chức năng của khu vực tài chính
Quá trình số hóa khu vực tài chính sẽ ảnh 
hưởng tới các chức năng kinh doanh, với 
sự tương tác giữa trung gian tài chính và 
khách hàng (Business to Customer- B2C) 
và giữa các định chế tài chính với nhau 
(Business to Business- B2B) với sự ra đời 
của các dịch vụ tài chính mới như hoạt 
động tài trợ số, đầu tư số, tiền kỹ thuật số, 
thanh toán điện tử, bảo hiểm kỹ thuật số 
và dịch vụ đánh giá tài chính số.
 ○ Hoạt động tài trợ số (Digital Financing)
Thuật ngữ “Digital Financing” (tạm dịch 
là giao dịch tài trợ số) là khác biệt với 
thuật ngữ “Digital Finance” (tài chính 
số). Theo truyền thống, ngân hàng sẽ là 
nhà cung cấp nguồn vốn tài trợ cho cá 
nhân và doanh nghiệp. Các nguồn tài trợ 
khác có thể có từ hoạt động liên doanh, 
các chương trình tài trợ của Chính phủ 
cho các công ty hoặc các hoạt động khởi 
nghiệp (Klohn và Hornuf, 2012). Digital 
Financing cho phép các cá nhân, doanh 
nghiệp và hoạt động khởi nghiệp tiếp cận 
nguồn vốn hiện có sẵn trên thị trường 
hoàn toàn độc lập so với các phương thức 
truyền thống bằng cách sử dụng Internet. 
Các giao diện vốn hóa dịch vụ Digital 
Financing được chào mời ở hoạt động bao 
thanh toán (Factoring), chiết khấu hóa đơn 
(Invoicing), cho thuê (Leasing) và hoạt 
động tài trợ sáng kiến (Crowdfunding)1.
Điểm nhấn của hoạt động tài trợ số là hai 
loại hình chiết khấu hóa đơn và tài trợ 
1 Crowdfunding là một giao diện, một website được tạo ra 
cho các chiến dịch quyên góp tiền để hỗ trợ các sáng kiến
sáng kiến. Ngày càng nhiều công ty sử 
dụng hóa đơn điện tử để trao đổi dữ liệu 
nhanh hơn do quá trình xử lý hóa đơn tự 
động, do đó rút ngắn thời gian thanh toán 
hóa đơn. Một ưu việt nữa là người bán có 
thể được tài trợ bằng hóa đơn điện tử. Ví 
dụ, từ năm 2011, MarketInvoice, một công 
ty mới khởi nghiệp tại Anh, điều hành 
chợ giao dịch điện tử, hỗ trợ các công ty 
nhỏ bán các hóa đơn chưa thanh toán cho 
nhà đầu tư với giá chiết khấu. Người bán 
có thể thu tiền sớm hơn và người mua thu 
được chênh lệch giữa giá bán và trị giá 
hóa đơn. 
Crowdfunding là một giao diện, một 
website được tạo ra cho các chiến dịch 
quyên góp tiền để hỗ trợ các sáng kiến. 
Đây là nguồn tài trợ (funding) từ phía 
đám đông (crowd). Nguồn tài trợ có thể là 
nguồn quyên góp (donation), nguồn tiền 
đầu tư để đổi lấy sản phẩm trong tương lai, 
hay đơn giản chỉ là giải thưởng (reward). 
Nguồn tiền hỗ trợ sáng kiến được kêu gọi 
qua mạng Internet và mang lại lợi ích cho 
cả người khởi tạo sáng kiến và người sẵn 
sàng chi tiền đầu tư. Nhà đầu tư có thể chỉ 
phải chi một khoản tiền nhỏ cho sáng kiến, 
nhưng với sự tham gia của đám đông sẽ 
tạo thành khoản tiền lớn. Do vậy giúp nhà 
đầu tư san sẻ bớt rủi ro nếu như sáng kiến 
đó không thành công. 
 ○ Hoạt động đầu tư số (Digital Invest-
ment)
Hoạt động đầu tư số hỗ trợ cá nhân và 
doanh nghiệp ra quyết định và thực hiện 
giao dịch đầu tư thông qua cách sử dụng 
thiết bị và công nghệ tương ứng. Hoạt 
động đầu tư số có thể là giao dịch qua 
mạng điện thoại (Mobile trading), giao 
dịch qua mạng xã hội (Social trading) 
và môi giới trực tuyến (Online brokers). 
Tác động của công nghệ số tới hoạt động của khu vực tài chính
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 208- Tháng 9. 201956
Chúng ta cũng đã khá quen thuộc với việc 
giao dịch qua mạng điện thoại (Mobile 
trading) để thực hiện lệnh đặt mua và đặt 
bán chứng khoán hoặc các giao dịch thanh 
toán khác. Giao dịch qua mạng xã hội 
cho phép nhà đầu tư kinh doanh chứng 
khoán trên các giao diện mạng xã hội và 
chiến lược đầu tư được kết nối Internet. 
Ngoài các sản phẩm truyền thống ở các 
sở giao dịch, giao diện mạng xã hội cũng 
mời chào sản phẩm giao dịch qua quầy 
như ngoại hối và các loại hàng hóa khác 
(Doering và các cộng sự, 2015). Sự phát 
triển của giao dịch trên mạng xã hội hứa 
hẹn kênh giao dịch thay thế ngân hàng và 
các nhà tư vấn đầu tư- vốn đã chịu thách 
thức về lòng tin sau cuộc khủng hoảng 
kinh tế năm 2008. Ngày càng nhiều nhà 
đầu tư cá nhân tìm kiếm thông tin về đối 
tượng đầu tư và càng nhiều công ty truyền 
thông hay cung cấp thông tin minh bạch 
về công ty qua mạng xã hội. Điều này sẽ 
mang lại lợi ích cho các bên. Nhà đầu tư 
có cơ hội theo dõi hoặc bắt chước chiến 
lược kinh doanh của người khác và chia 
sẻ thông tin cho nhau. Lúc này nhà đầu 
tư đóng vai trò như một quỹ quản lý danh 
mục đầu tư, tự kinh doanh, nhận tiền 
thưởng từ kết quả kinh doanh hoặc chịu 
rủi ro cho chính mình. Môi giới online 
là một dịch vụ đóng vai trò như nhà môi 
giới truyền thống nhưng có thể hoạt động 
không kể thời gian và địa điểm với số 
lượng nhân viên điều hành ít đi, chi phí 
giao dịch cũng giảm. Các nhà đầu tư cá 
nhân cũng có cơ hội tiếp cận các công cụ 
và thông tin phân tích thị trường cho đến 
các phần mềm giao dịch chuyên dụng. 
 ○ Tiền kỹ thuật số (Digital Money)
Trong thế giới truyền thống, khi nói tới 
tiền ta thường hình dung dưới dạng giấy, 
xu và thẻ tín dụng do cơ quan quản lý 
tiền tệ của một quốc gia ban hành và kiểm 
soát tương ứng với nhu cầu của nền kinh 
tế. Ngày nay, các hình thái khác của tiền 
tệ (tiền kỹ thuật số- Digital money) ra đời 
và có tên gọi khác như tiền ảo (virtual 
currency), tiền điện tử (e- currency), tiền 
mã hóa (cyptocurrency). Tiền kỹ thuật số 
cũng thực hiện ba chức năng tương tự như 
tiền tệ và tồn tại ở dạng tiền số (digital). 
Ví dụ điển hình nhất của tiền kỹ thuật số 
là Bitcoin. Theo NHTW Châu Âu, “tiền 
ảo là tiền kỹ thuật số nhưng không do cơ 
quan quản lý tiền tệ kiểm soát, mà tiền ảo 
được phân phối và kiểm soát bởi người 
sáng lập ra nó”. Cũng cần phải phân biệt 
giữa tiền điện tử và thanh toán điện tử 
(Digital Payments). Thanh toán điện tử là 
hoạt động thanh toán điện tử sử dụng tiền 
theo nghĩa truyền thống, tức là tiền được 
kiểm soát bởi NHTW các nước. 
 ○ Hoạt động thanh toán điện tử (Digital 
Payments)
Thanh toán điện tử được Hartmann (2006) 
định nghĩa là “mọi hoạt động thanh toán 
được khởi tạo, xử lý và thu chi qua giao 
dịch điện tử”. Dịch vụ ngân hàng online là 
loại hình thanh toán điện tử, xử lý các giao 
dịch qua tài khoản giữa khách hàng và nhà 
cung cấp hàng hóa, dịch vụ. 
Dịch vụ thanh toán qua điện thoại cũng 
được coi là một bộ phận của thanh toán 
điện tử. Ngoài ra còn có các dịch vụ thanh 
toán ngang hàng (Peer-to-peer payments), 
thanh toán giữa cá nhân với cá nhân 
(person-to-person payments), private-to-
private, hay P2P payment giữa các cá nhân 
với nhau. Đại diện cho loại hình thanh 
toán này là Paypal dùng để thực hiện và 
thanh toán trên trang mua sắm eBay.
Trong loại hình thanh toán điện tử phải kể 
ĐINH THỊ THANH LONG
Số 208- Tháng 9. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 57
đến ví điện tử (e- wallet), một công cụ lưu 
trữ điện tử thực hiện chức năng như một 
chiếc ví bình thường như lưu trữ thông 
tin cá nhân (chứng minh thư, bằng lái 
xe..); thực hiện thanh toán bằng tiền mặt 
hoặc thẻ tín dụng; và lưu trữ bằng chứng 
mua hàng ưu đãi như phiếu quà tặng 
(vouchers), vé ô tô buýt Ví điện tử chỉ 
đòi hỏi được kết nối với điện thoại thông 
minh để thực hiện chức năng của một 
chiếc ví thông thường. 
 ○ Giao dịch bảo hiểm điện tử (Digital 
Insurance)
Arumugam and Cusick (2008) đã đề cập 
tới loại hình bảo hiểm điện tử. Nó được 
diễn ra dưới dạng các thành viên trong gia 
đình, bạn bè, những người thân, thậm chí 
là những người được kết nối thông qua 
giao diện bảo hiểm điện tử. Những người 
tham gia sẽ thỏa thuận đóng góp một số 
tiền thành một quỹ và sau đó thỏa thuận 
chia quỹ thành 2 phần. Một phần được duy 
trì như là một khoản tiền bảo hiểm cho các 
thành viên tham gia. Một phần sẽ là phần 
mua bảo hiểm tại công ty bảo hiểm. Trong 
những tình huống nghiêm trọng thì người 
tham gia bảo hiểm sẽ được nhận tiền bồi 
thường từ công ty bảo hiểm. Ngược lại, 
khoản tiền bảo hiểm duy trì trên tài khoản 
của các thành viên vẫn tiếp tục duy trì cho 
năm sau mà không phải đóng góp. Loại 
hình bảo hiểm điện tử sẽ giúp loại trừ hiện 
tượng thông tin bất cân xứng do người 
mua bảo hiểm cung cấp. Đồng thời người 
mua bảo hiểm vẫn giữ được tiền nếu như 
không có sự kiện gì xảy ra. Và công ty bảo 
hiểm cũng không phải mất chi phí quản lý 
cho khoản phí bảo hiểm tương đối nhỏ. 
 ○ Dịch vụ đánh giá tài chính số (Digital 
Financial Advice)
Rất nhiều nhà cung cấp mở website riêng 
để quảng cáo cho sản phẩm dịch vụ của 
mình và cho phép người sử dụng đánh 
giá, chấm điểm, xếp hạng, bình luận về 
sản phẩm của nhà cung cấp cũng như so 
sánh với các sản phẩm tương tự của các 
nhà cung cấp khác. Đây thực sự là kênh 
tư vấn tốt cho khách hàng tiềm năng. Bởi 
vì khách hàng khó có khả năng đánh giá 
chất lượng sản phẩm của một công ty cho 
đến khi phải sử dụng hết tất cả sản phẩm 
tương tự của các nhà sản xuất khác. Điều 
này mất nhiều thời gian và chi phí. Do đó,