Nợ công Việt Nam thời gian gần đây được đánh giá vẫn trong ngưỡng
an toàn, chưa tiềm ẩn nguy cơ mất kiểm soát rủi ro dẫn đến khủng
hoảng nợ. Tuy nhiên, trong điều kiện nợ công có xu hướng tăng
nhanh, còn phụ thuộc nhiều vào các khoản vay nước ngoài, trong khi
đó chi ngân sách tiếp tục tăng cao, nhu cầu đầu tư phát triển kinh
tế lớn cùng với nguồn thu trong nước còn hạn chế, nghĩa vụ trả nợ
tiếp tục tăng lên đã đặt ra nhiều thách thức về gánh nặng nợ công
của Việt Nam. Kinh nghiệm từ các cuộc khủng hoảng nợ công tại
nhiều quốc gia cho thấy, thực hiện những biện pháp kiểm soát rủi ro
nợ công sớm sẽ phòng tránh được nguy cơ vỡ nợ, đảm bảo an toàn
tài chính quốc gia. Bài viết nhằm mục tiêu phân tích thực trạng an
toàn nợ công Việt Nam, trên cơ sở đó đánh giá và đề xuất một số giải
pháp trọng yếu nhằm tăng cường kiểm soát rủi ro nợ công, đảm bảo
sự an toàn và hướng đến tính bền vững của nợ công Việt Nam trong
tương lai.
10 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 503 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tăng cường kiểm soát an toàn nợ công Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 204- Tháng 5. 2019
Tăng cường kiểm soát an toàn nợ công Việt Nam
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ
Lê Thị Diệu Huyền
Lê Thị Minh Ngọc
Ngày nhận: 21/02/2019 Ngày nhận bản sửa: 11/03/2019 Ngày duyệt đăng: 25/03/2019
Nợ công Việt Nam thời gian gần đây được đánh giá vẫn trong ngưỡng
an toàn, chưa tiềm ẩn nguy cơ mất kiểm soát rủi ro dẫn đến khủng
hoảng nợ. Tuy nhiên, trong điều kiện nợ công có xu hướng tăng
nhanh, còn phụ thuộc nhiều vào các khoản vay nước ngoài, trong khi
đó chi ngân sách tiếp tục tăng cao, nhu cầu đầu tư phát triển kinh
tế lớn cùng với nguồn thu trong nước còn hạn chế, nghĩa vụ trả nợ
tiếp tục tăng lên đã đặt ra nhiều thách thức về gánh nặng nợ công
của Việt Nam. Kinh nghiệm từ các cuộc khủng hoảng nợ công tại
nhiều quốc gia cho thấy, thực hiện những biện pháp kiểm soát rủi ro
nợ công sớm sẽ phòng tránh được nguy cơ vỡ nợ, đảm bảo an toàn
tài chính quốc gia. Bài viết nhằm mục tiêu phân tích thực trạng an
toàn nợ công Việt Nam, trên cơ sở đó đánh giá và đề xuất một số giải
pháp trọng yếu nhằm tăng cường kiểm soát rủi ro nợ công, đảm bảo
sự an toàn và hướng đến tính bền vững của nợ công Việt Nam trong
tương lai.
Từ khóa: Nợ công, ngân sách, rủi ro nợ công, bền vững nợ công.
1. Tình hình nợ công tại
Việt Nam thời gian qua
hứ nhất, về quy
mô nợ công,
theo số liệu
công bố của
Bộ Tài chính,
quy mô nợ công Việt Nam
có xu hướng ngày càng tăng
nhanh cả về qui mô và tốc độ
tăng trong thời gian 10 năm
trở lại đây. Từ năm 2010, nợ
công Việt Nam bắt đầu vượt
trên 50% GDP, năm 2011 ở
mức 52,6% GDP và đạt ở mức
61,4% GDP năm 2017, gần
giới hạn cho phép là 65% (con
số được Quốc hội thông qua).
Tốc độ tăng nợ trung bình
cả giai đoạn khoảng 18%.
Dư nợ Chính phủ năm 2017
ở mức 51,8% GDP và dư nợ
nước ngoài của quốc gia tăng
nhanh, lên khoảng 49% GDP
nhưng vẫn trong giới hạn
được Quốc hội cho phép.
Mặc dù nợ công Việt Nam
vẫn nằm trong giới hạn được
Quốc hội cho phép (<65%
GDP) nhưng tốc độ tăng bình
quân vẫn ở mức cao. Theo
đồng hồ nợ công toàn cầu The
Global Debt Clock, tỷ lệ nợ
công trên đầu người tại Việt
Nam đang có xu hướng gia
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
2 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 204- Tháng 5. 2019
tăng liên tiếp, từ mức khoảng
15 triệu đồng/người năm 2011
lên 18,55 triệu đồng/người
năm 2012, ở mức khoảng 33
triệu đồng/người năm 2017 và
đang có xu hướng ngày càng
tăng trong thời gian tiếp theo.
Thứ hai, về cơ cấu nợ công,
cơ cấu nợ công của Việt Nam
hiện đang từng bước được
điều chỉnh theo hướng bền
vững hơn trong những năm
qua, trong đó tỷ lệ nợ Chính
phủ chiếm tỷ trọng lớn nhất
tổng quy mô nợ, nợ trong
nước có xu hướng tăng và kỳ
hạn nợ ngày càng dài hơn.
Giai đoạn 2011- 2017, tỷ
trọng nợ Chính phủ vẫn duy
trì ở mức lớn nhất, chiếm trên
80% tổng nợ công, trong khi
đó nợ Chính phủ bảo lãnh
khoảng 18% và 2% là nợ
chính quyền địa phương. Nợ
Hình 1. Tình hình nợ công Việt Nam giai đoạn 2011-2017
Đơn vị: %
Nguồn: Bộ Tài chính.
Nguồn: Bộ Tài chính.
Hình 2. Cơ cấu nợ công Việt Nam giai đoạn 2011- 2017
Đơn vị: %
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
3Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 204- Tháng 5. 2019
Chính phủ bảo lãnh có
xu hướng giảm (từ chiếm
20,2% trong tổng nợ
công năm 2010 xuống
còn 14,66% năm 2017)
do có sự dịch chuyển từ
phương thức bảo lãnh
của Chính phủ sang hình
thức tự vay, tự trả của
doanh nghiệp nhà nước
(DNNN). Nợ của Chính
quyền địa phương gồm
các khoản tạm ứng tồn
ngân từ Kho bạc, vay
Ngân hàng Phát triển
Việt Nam, phát hành trái
phiếu chính quyền địa
phương. Những khoản
nợ này bắt đầu phát sinh từ
năm 2004 và chiếm tỷ lệ nhỏ
nhưng đang có xu hướng tăng
lên từ mức 0,6% năm 2010 lên
0,97% năm 2017. Cấu trúc nợ
công Việt Nam có sự thay đổi
theo hướng tỷ trọng nợ trong
nước tăng dần, từ mức 44,3%
năm 2011 lên 60% năm 2017,
tương ứng với các khoản nợ
nước ngoài giảm dần từ 55,7%
năm 2011 còn 40% năm 2017
trong cơ cấu nợ công.
Mặc dù đã có những chuyển
biến tích cực trong quá trình
cơ cấu lại danh mục nợ công
theo hướng an toàn hơn nhưng
nợ nước ngoài vẫn chiếm tỷ
trọng đáng kể, trong đó vay
ODA và các khoản vay ưu đãi
chiếm trên 90%. Trường hợp
các đồng tiền ngoại tệ (USD,
JPY, EUR) biến động bất lợi
trong tương lai cùng việc điều
chỉnh tỷ giá của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam có thể
làm tăng chi phí trả nợ và giá
trị danh nghĩa các khoản nợ
nước ngoài theo VNĐ. Ngoài
ra, các khoản vốn ưu đãi sẽ
ngày càng hạn chế, chính phủ
phải dựa nhiều vào nguồn vay
trong nước, các khoản vay
thương mại có xu hướng tăng
lên trong thời gian tới.
Về kỳ hạn nợ, kỳ hạn phát
hành trái phiếu chính phủ
(TPCP) đã có sự kéo dài từ
năm 2011, kỳ hạn nợ bình
quân tăng tương ứng năm
2011 và năm 2017 là 3,9 năm
và 12,74 năm, qua đó tăng kỳ
hạn nợ bình quân danh mục
trái phiếu chính phủ (năm
2011 là 1,84 năm; 2017 là 6,7
năm). Lãi suất huy động cũng
giảm mạnh qua các năm (năm
2011 bình quân 12,01%; năm
2017 là 5,98%). Như vậy, một
trong những thành công trong
điều hành của Chính phủ thời
gian qua đó là đã kéo dài kỳ
hạn phát hành TPCP và giảm
tỷ trọng vay nước ngoài trong
cơ cấu nợ công.
Cơ cấu kỳ hạn TPCP phát
hành đã có sự chuyển dịch từ
3 đến 5 năm trước đây sang
kỳ hạn dài hơn (từ 10 đến 30
năm chiếm tỷ trọng gần 80%).
Cơ cấu này không gây áp
lực trả nợ trong ngắn hạn
nhưng sẽ làm tăng gánh
nặng nợ trong tương lai
khi tính đến biến động tỷ
giá làm tăng cả nợ gốc
và lãi, nghĩa vụ nợ cũng
tăng lên do lãi suất vay
dài hạn cao hơn đáng kể
so với lãi suất vay ngắn
hạn.
Các đối tác song phương
tài trợ cho các khoản nợ
công của Việt Nam bao
gồm chính phủ các nước
như: Nhật Bản, Trung
Quốc, Pháp, Hàn Quốc,
Nga, Đức; các đối tác
đa phương bao gồm WB-IDA,
ADB, WB-IBRD, EIB trong
đó chủ nợ lớn nhất của Việt
Nam là Nhật (34,5% tổng
nợ), WB (28,8%) và ADB
(15,5%). Về cơ cấu đồng tiền,
danh mục nợ của Chính phủ
tập trung vào một số đồng
tiền chính bao gồm VNĐ với
tỷ trọng 55%; USD chiếm tỷ
trọng 16%; Yên Nhật chiếm
tỷ trọng 13% và EUR chiếm
tỷ trọng khoảng 7%, còn lại là
các đồng tiền khác.
Trong điều kiện thị trường tài
chính- tiền tệ có nhiều biến
động phức tạp, tiềm ẩn nhiều
rủi ro dẫn đến danh mục nợ
công có thể chịu nhiều tác
động về tỷ giá hơn giai đoạn
trước. Như vậy, cấu trúc nợ
công Việt Nam mặc dù đã có
nhiều thay đổi theo hướng bền
vững hơn so với trước đây,
tuy nhiên vẫn tiềm ẩn nhiều
rủi ro, gây ảnh hưởng đến uy
tín và khả năng trả nợ khi đến
hạn.
Thứ ba, về tình hình sử dụng
nợ công, nguồn vốn từ các
Hình 3. Cơ cấu kỳ hạn phát hành trái
phiếu chính phủ năm 2017
Nguồn: Báo cáo Chính phủ 2018
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
4 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 204- Tháng 5. 2019
khoản nợ công góp phần thực
hiện các chương trình đầu tư
công nhằm tạo động lực quan
trọng cho sự tăng trưởng, phát
triển kinh tế- xã hội và hỗ trợ
hoạt động cho các thành phần
kinh tế.
Về hiệu quả sử dụng vốn đầu
tư, theo Tổng cục Thống kê,
giai đoạn 2011- 2017, ICOR
của Việt Nam là 6,1, kết quả
này luôn vượt quá khuyến cáo
của WB đối với các nước đang
phát triển (dưới 3), chủ yếu do
sự kém hiệu quả của khu vực
kinh tế Nhà nước. Trong thực
tế, hiệu quả sử dụng nợ công ở
Việt Nam chưa cao, một số dự
án vay lại từ nguồn vốn vay
nước ngoài của Chính phủ,
dự án được Chính phủ bảo
lãnh khó khăn trong trả nợ.
Tình trạng số dự án được phê
duyệt nhiều, điều chỉnh tăng
tổng mức đầu tư so với phê
duyệt ban đầu, tiến trình giải
ngân vốn vẫn còn chậm trễ,
các dự án, công trình thi công
dở dang, chuyển tiếp, kéo dài,
chậm tiến độ vẫn chậm được
khắc phục. Điều này cùng
với sự thiếu kỷ luật tài chính
trong đầu tư công, trong hoạt
động của các DNNN và các
tập đoàn lớn, dẫn đến đầu tư
dàn trải, lãng phí, thất thoát
vốn đầu tư ở tất cả các khâu
của quá trình quản lý dự án
đầu tư. Một số dự án đầu tư
không trả được nợ, phải tái cơ
cấu hoặc chuyển sang cơ chế
Nhà nước đầu tư, làm tăng
nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của
Chính phủ. Những khoản nợ
xấu của DNNN không những
tác động trực tiếp đến nợ công
mà còn ảnh hưởng đến sự lành
mạnh của hệ thống ngân hàng
thương mại và hệ thống tài
chính quốc gia.
Thứ tư, về tình hình trả nợ
công, theo báo cáo của Bộ
Tài chính, từ năm 2011- 2016
nghĩa vụ trả nợ của Chính
phủ so với thu ngân sách nhìn
chung không có sự biến động
quá lớn và vẫn ở trong phạm
vi kiểm soát và giới hạn được
duyệt là 25% theo quy định
của Quốc hội. Việc trả nợ
của Chính phủ được đảm bảo
đúng hạn, bao gồm cả nghĩa
vụ nợ trực tiếp của Chính phủ
và trả nợ vay về cho vay lại,
không để xảy ra tình trạng
nợ quá hạn. Tuy nhiên, năm
2017 nghĩa vụ trả nợ của
Chính phủ tăng cao, khoảng
260.150 tỷ đồng, gồm trả
nợ trong nước là 214.878 tỷ
đồng, trả nợ nước ngoài trực
tiếp là 28.022 tỷ đồng; trả nợ
của các dự án vay lại nguồn
vốn vay nước ngoài của Chính
phủ trong năm 2017 ở mức
khoảng 17.250 tỷ đồng, chiếm
gần 20% so với tổng thu ngân
sách. Nghĩa vụ trả nợ của
Chính phủ có xu hướng ngày
càng tăng cả về con số tuyệt
đối lẫn tương đối, điều này
gây áp lực đối với việc sắp
xếp nguồn để trả nợ của ngân
sách, khả năng cân đối nguồn
bố trí chi trả nợ hàng năm
chưa tương xứng với nghĩa
vụ trả nợ đến hạn, vay đảo nợ
tăng nhanh với khối lượng lớn
trong nhiều năm, tiềm ẩn nguy
cơ vỡ nợ nếu không được
Hình 4. Cơ cấu nguồn vốn đầu tư của khu vực Nhà nước
Đơn vị: %
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
5Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 204- Tháng 5. 2019
kiểm soát tốt và cơ cấu lại
danh mục trả nợ công.
Dư nợ Chính phủ ngày càng
tăng, trong khi khả năng trả
nợ mỗi năm còn nhiều hạn
chế. Trước năm 2010, thời
gian trả nợ trung bình đối với
các khoản vay ODA (bao gồm
giai đoạn gia hạn) của Việt
Nam là 30 - 40 năm với mức
lãi suất khoảng 0,7- 0,8%/
năm. Đến giai đoạn sau 2010,
thời gian trả nợ giảm xuống
còn 10 - 20 năm và mức lãi
suất tối thiểu là 2%/năm.
Nguồn trả nợ chủ yếu từ vay
trong nước thông qua phát
hành TPCP, vay ODA và các
nguồn ưu đãi từ nước ngoài.
Tuy nhiên, từ tháng 7/2017,
Việt Nam không còn là nước
có thu nhập thấp nên không
còn được vay theo điều kiện
ODA mà tiến tới vay theo điều
kiện thị trường, điều này dẫn
đến áp lực trả nợ, hơn nữa,
vốn đầu tư cơ sở hạ tầng ngày
càng trở nên cấp bách. Giai
đoạn từ nay đến năm 2020,
nhu cầu vốn vay rất lớn sẽ khó
khăn trong việc huy động. Do
vậy, Chính phủ cần giám sát
chặt chẽ quá trình huy động,
sử dụng vốn vay và quản lý nợ
công, quản lý việc huy động
vốn cho ngân sách nhà nước
và cho đầu tư phát triển, việc
vay về cho vay lại và bảo lãnh
Chính phủ nhằm đảm bảo
khả năng trả nợ đúng hạn, đầy
đủ theo đúng các cam kết của
Chính phủ với nhà tài trợ.
2. Mức độ an toàn nợ công
Việt Nam
Tình hình nợ công Việt Nam
đang được quản lý theo hướng
bền vững hơn thông qua việc
điều chỉnh lại quy mô và cơ
cấu lại danh mục nợ, tỷ lệ nợ
công/GDP có xu hướng giảm
dần trong các năm gần đây,
cụ thể năm 2017, nợ công
là 62,6% GDP; năm 2018 là
61,4% GDP và dự kiến năm
2019 là 61,3% GDP. Tuy
nhiên, nợ Chính phủ và nợ
nước ngoài của quốc gia lại
xu hướng tăng lên, đặc biệt
nợ nước ngoài của quốc gia
đã dần tới trần cho phép (50%
GDP) năm 2017. Nguyên
nhân chủ yếu do hoạt động rút
vốn và trả nợ gốc các khoản
vay nước ngoài ngắn hạn của
doanh nghiệp và tổ chức tín
dụng trong năm 2017 tăng
mạnh.
Nhìn chung, phần lớn các chỉ
tiêu về nợ công của Việt Nam
vẫn đảm bảo trong giới hạn
theo Quyết định số 958/QĐ-
TTg ngày 27/07/2012 của Thủ
tướng Chính phủ về Chiến
lược nợ công và nợ nước
ngoài của quốc gia giai đoạn
2011- 2020 và tầm nhìn 2030.
Tuy nhiên, trong thực tế cách
tính nợ công Việt Nam vẫn
chưa đồng bộ với chuẩn mực
quốc tế, chưa phản ánh đầy
đủ gánh nặng và nghĩa vụ trả
nợ công nên các số liệu được
công bố vẫn còn có sự khác
biệt khá lớn. Ngoài ra, xét về
tình hình quản lý nợ công và
nhu cầu vốn trong thời gian
tới, với điều kiện diễn biến
kinh tế vĩ mô có nhiều biến
động và ngân sách vẫn thâm
hụt ở mức cao, kéo dài khiến
nợ công Việt Nam vẫn còn
Hình 5. Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với thu ngân sách giai đoạn 2011-2017
Đơn vị: %
Nguồn: Bộ Tài chính và tính toán của tác giả.
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
6 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 204- Tháng 5. 2019
tiềm ẩn nhiều rủi ro. Mức
độ an toàn nợ công không
chỉ dừng lại chỉ số tỷ lệ nợ/
GDP mà còn phải đề cập đến
các nghĩa vụ trả nợ khác như
nghĩa vụ trả nợ/thu ngân sách
(được qui định dưới 25%,
Việt Nam đang ở mức khoảng
14-16%); nợ nước ngoài/
xuất khẩu (được qui định dưới
25%); dự trữ ngoại hối/dư
nợ nước ngoài ngắn hạn trên
200% để nhằm đảm bảo khả
năng thanh toán các khoản nợ
nước ngoài khi đến hạn, tránh
mất khả năng trả nợ.
Theo đề án phát hành TPCP
ra thị trường quốc tế đến năm
2020 của Bộ Tài chính, nghĩa
vụ trả nợ Chính phủ sẽ dự
kiến liên tục tăng mạnh giai
đoạn 2017- 2020, trung bình
12% trong toàn giai đoạn.
Nguồn để trả nợ chủ yếu lấy
từ ngân sách và Quỹ tích luỹ,
trong điều kiện ngân sách liên
tục thâm hụt ở mức cao, nhu
cầu vay lớn, tình hình sử dụng
vốn vay kém hiệu quả, cùng
với những rủi ro tiềm ẩn về lãi
suất, kỳ hạn, tỷ giá, các khoản
nợ tiềm ẩn và sự biến động
các yếu tố kinh tế- xã hội
khác sẽ de đoạ đến tính bền
vững và khả năng trả nợ trong
tương lai. Do vậy, Chính phủ
Việt Nam cần có sự kiểm soát
chặt chẽ và áp dụng các chính
sách phù hợp, kịp thời nhằm
đảm bảo sự an toàn và nâng
cao tính bền vững của nợ công
Việt Nam thời gian tới.
3. Tăng cường kiểm soát
an toàn nợ công Việt Nam
trong thời gian tới
Mặc dù vẫn trong giới hạn cho
phép của Quốc hội nhưng quy
mô nợ công của Việt Nam vẫn
có xu hướng tăng dần đều,
mỗi năm khoảng 360.000-
380.000 tỷ đồng. Để giảm
thiểu các nguy cơ mất kiểm
soát nợ công, giảm thiểu các
rủi ro, đảm bảo tính bền vững
và an toàn nợ công, bài viết đề
xuất một số vấn đề cần được
chú trọng thực hiện trong thời
gian tới như sau:
Thứ nhất, xây dựng cơ cấu
nợ hợp lý nhằm giảm thiểu
rủi ro đối với danh mục nợ
công
Xây dựng cơ cấu đồng tiền
vay đa dạng hơn nhằm tránh
ảnh hưởng đến dự trữ ngoại
hối. Đối với đồng tiền vay nợ
nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn
nhất vẫn là đồng Yên Nhật do
chủ yếu vay nước ngoài là vay
ODA từ Nhật, sau đó là đồng
SDR, các khoản vay bằng
USD và EUR cũng chiếm tỷ lệ
đáng kể. Tuy nhiên, trong thời
gian gần đây với xu hướng
biến động trên thị trường, đòi
Bảng 1. Các chỉ tiêu giới hạn nợ của Việt Nam
Chỉ tiêu Giai đoạn Giới hạn
1. Nợ công/GDP Đến 2020 ≤ 65%
2. Nợ của Chính phủ/GDP Đến 2020 ≤ 55%
3. Nợ nước ngoài của quốc gia/GDP Đến 2020 ≤ 50%
4. Nợ nước ngoài Chính phủ/tổng nợ Chính phủ Đến 2020 ≤ 50%
5. Kỳ hạn bình quân phát hành TPCP trong nước
2011 - 2015 4-6 năm
2016 - 2020 6-8 năm
6. Vay trong và ngoài nước để bù đắp bội chi ngân sách (tính cả TPCP)/GDP
Đến 2015 ≤ 4,5%
2016 - 2020 ≤ 4%
7. Nghĩa vụ trả nợ Chính phủ trực tiếp (không kể cho vay lại)/thu ngân sách Hàng năm ≤ 25%
8. Nợ nước ngoài của quốc gia/xuất khẩu Hàng năm ≤ 25%
9. Dự trữ ngoại hối/tổng dư nợ nước ngoài ngắn hạn Hàng năm ≥ 200%
10. Chương trình đầu tư TPCP (tỷ đồng)
2011 - 2015 ≤ 225.000
2016 - 2020 ≤ 350.000
Nguồn: Phụ lục kèm công văn số 126/BC-BTC ngày 25/11/2015
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
7Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 204- Tháng 5. 2019
hỏi phải đa dạng đồng tiền
vay nợ để giảm thiểu rủi ro về
tỷ giá. Hơn nữa, xây dựng cơ
cấu đồng tiền vay nợ ổn định
tập trung vào đồng tiền mạnh
hay đồng tiền ít có sự biến
động sẽ là điều kiện tránh ảnh
hưởng đến dự trữ ngoại hối.
Do đó, đa dạng hóa đồng tiền
vay nợ sẽ giảm thiểu mức độ
rủi ro tỷ giá, đồng thời tránh
được sự biến động về trữ
lượng ngoại hối quốc gia.
Một là, chuyển cơ cấu vay
nợ ngắn hạn sang vay nợ dài
hạn. Hiện nay, về cơ cấu nợ
công, khoảng gần 50% là nợ
nước ngoài với điều kiện vay
cơ bản là ưu đãi và thời gian
đáo hạn còn lại khoảng 15
năm, phần còn lại là khoản
vay trong nước thông qua
phát hành trái phiếu chính phủ
TPCP với kỳ hạn nằm trong
khoảng từ 2- 5 năm. Trong đó,
tỷ lệ các khoản nợ vay ngắn
hạn khá lớn nhưng đang có xu
hướng giảm dần. Do đó, cân
nhắc đối với những khoản vay
ngắn hạn, hạn chế sử dụng vay
mới để đảo nợ cũ, bảo đảm an
toàn nợ công trong dài hạn.
Điều này sẽ tránh được cơ cấu
nợ công nguy hiểm, đảm bảo
thanh toán nợ đúng hạn, có
nguồn kịp thời để trả nợ.
Hai là, điều chỉnh cơ cấu nợ
công theo xu hướng giảm nợ
công nước ngoài trong tổng
vay nợ. Trong những năm gần
đây, khi thị trường tài chính
trong nước đã có nhiều bước
phát triển, cơ cấu nợ này đang
được cố gắng cải thiện nhưng
trong tương lai, cần tiếp tục
điều chỉnh cơ cấu nợ theo
xu hướng tăng tỷ trọng vay
nợ trong nước, giảm tỷ trọng
vay nợ nước ngoài. Việc điều
chỉnh đem lại một số lợi ích
nhất định như: (i) tránh được
sự phụ thuộc đối với khoản
vay từ bên ngoài kèm điều
kiện nhất định; (ii) giảm bớt
rủi ro về tỷ giá và gây áp lực
lên dự trữ ngoại hối; (iii) chủ
động hơn với khoản vay trong
nước nhằm kết hợp với chính
sách tiền tệ để điều hành thị
trường tài chính trong nước.
Ba là, tăng cường kiểm soát
và quản lý nợ công. Quản lý
chặt chẽ các khoản vay mới,
nợ công chỉ sử dụng cho đầu
tư phát triển, xây dựng các
công trình kinh tế- xã hội
quan trọng, thiết yếu theo quy
hoạch, thực hiện rà soát, thẩm
định, đánh giá tác động lên nợ
công của các chương trình, dự
án sử dụng vốn vay của Chính
phủ, vốn vay được Chính phủ
bảo lãnh và vốn vay của chính
quyền địa phương. Phải tăng
cường minh bạch hóa trong
công tác quản lý, thống kê và
công bố thông tin về nợ công
đồng thời tăng cường vai trò
giám sát của Quốc hội, Kiểm
toán Nhà nước với tư cách là
cơ quan độc lập về kiểm tra
tài chính Nhà nước có vai trò
giúp Chính phủ có số liệu xác
thực và thực trạng trung thực
để đảm bảo bền vững nợ.
Thứ hai, cân đối thu- chi
ngân sách, đảm bảo ngân
sách bền vững
Vay nợ để bù đắp thiếu hụt
ngân sách cũng là một trong
những nguyên nhân trực tiếp
Bảng 2. Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ và cân đối nguồn giai
đoạn 2017- 2020
Đơn vị: nghìn tỷ đồng
Chỉ tiêu 2017 2018 2019 2020
1. Nghĩa vụ trả nợ 342,10 370,50 424,30 501,10
1.1. NSNN 312,60 333,50 376,10 419,60
a. Trong nước 266,30 275,40 302,60 329,10
Gốc 168,90 164,00 172,50 185,10
Lãi 97,40 111,40 130,10 144,00
b. Nước ngoài 46,30 58,10 73,50 90,50
Gốc 29,80 38,10 45,00 55,00
Lãi 16,50 20,00 28,50 35,50
1.2. Cho vay lại 29,50 37,00 48,20 81,50
Gốc 11,80 17,50 26,80 57,90
Lãi 17,70 19,50 21,40 23,60
2. Cân đối nguồn 342,10 370,50 424,30 501,10
a. NSNN 228,60 293,50 379,20 422,90
b. Quỹ tích lũy 29,50 37,00 45,10 78,20
c. Đảo nợ 84,00 40,00 0,00 0,00
Nguồn: Đề án phát hành TPCP ra thị trường quốc tế đến năm 2020
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
8 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 204- Tháng 5. 2019
dẫn đến nợ công tăng cao.
Chính vì vậy, để giảm thiểu
những áp lực đối với tình
trạng nợ công, ngân sách cần
phải được điều chỉnh đảm bảo
sự cân đối thu - chi, hướng
đến tính bền vững trong dài
hạn.
Với cơ cấu thu ngân sách còn
những bất cân đối phụ thuộc
nhiều vào thu từ dầu thô,
hoạt động xuất nhập khẩu và
đất đai. Do đó, cần đảm bảo
nuôi dưỡng nguồn thu, trong
đó chú trọng các khoản thu