Tăng cường kiểm soát an toàn nợ công Việt Nam

Nợ công Việt Nam thời gian gần đây được đánh giá vẫn trong ngưỡng an toàn, chưa tiềm ẩn nguy cơ mất kiểm soát rủi ro dẫn đến khủng hoảng nợ. Tuy nhiên, trong điều kiện nợ công có xu hướng tăng nhanh, còn phụ thuộc nhiều vào các khoản vay nước ngoài, trong khi đó chi ngân sách tiếp tục tăng cao, nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế lớn cùng với nguồn thu trong nước còn hạn chế, nghĩa vụ trả nợ tiếp tục tăng lên đã đặt ra nhiều thách thức về gánh nặng nợ công của Việt Nam. Kinh nghiệm từ các cuộc khủng hoảng nợ công tại nhiều quốc gia cho thấy, thực hiện những biện pháp kiểm soát rủi ro nợ công sớm sẽ phòng tránh được nguy cơ vỡ nợ, đảm bảo an toàn tài chính quốc gia. Bài viết nhằm mục tiêu phân tích thực trạng an toàn nợ công Việt Nam, trên cơ sở đó đánh giá và đề xuất một số giải pháp trọng yếu nhằm tăng cường kiểm soát rủi ro nợ công, đảm bảo sự an toàn và hướng đến tính bền vững của nợ công Việt Nam trong tương lai.

pdf10 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 503 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tăng cường kiểm soát an toàn nợ công Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 204- Tháng 5. 2019 Tăng cường kiểm soát an toàn nợ công Việt Nam CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ Lê Thị Diệu Huyền Lê Thị Minh Ngọc Ngày nhận: 21/02/2019 Ngày nhận bản sửa: 11/03/2019 Ngày duyệt đăng: 25/03/2019 Nợ công Việt Nam thời gian gần đây được đánh giá vẫn trong ngưỡng an toàn, chưa tiềm ẩn nguy cơ mất kiểm soát rủi ro dẫn đến khủng hoảng nợ. Tuy nhiên, trong điều kiện nợ công có xu hướng tăng nhanh, còn phụ thuộc nhiều vào các khoản vay nước ngoài, trong khi đó chi ngân sách tiếp tục tăng cao, nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế lớn cùng với nguồn thu trong nước còn hạn chế, nghĩa vụ trả nợ tiếp tục tăng lên đã đặt ra nhiều thách thức về gánh nặng nợ công của Việt Nam. Kinh nghiệm từ các cuộc khủng hoảng nợ công tại nhiều quốc gia cho thấy, thực hiện những biện pháp kiểm soát rủi ro nợ công sớm sẽ phòng tránh được nguy cơ vỡ nợ, đảm bảo an toàn tài chính quốc gia. Bài viết nhằm mục tiêu phân tích thực trạng an toàn nợ công Việt Nam, trên cơ sở đó đánh giá và đề xuất một số giải pháp trọng yếu nhằm tăng cường kiểm soát rủi ro nợ công, đảm bảo sự an toàn và hướng đến tính bền vững của nợ công Việt Nam trong tương lai. Từ khóa: Nợ công, ngân sách, rủi ro nợ công, bền vững nợ công. 1. Tình hình nợ công tại Việt Nam thời gian qua hứ nhất, về quy mô nợ công, theo số liệu công bố của Bộ Tài chính, quy mô nợ công Việt Nam có xu hướng ngày càng tăng nhanh cả về qui mô và tốc độ tăng trong thời gian 10 năm trở lại đây. Từ năm 2010, nợ công Việt Nam bắt đầu vượt trên 50% GDP, năm 2011 ở mức 52,6% GDP và đạt ở mức 61,4% GDP năm 2017, gần giới hạn cho phép là 65% (con số được Quốc hội thông qua). Tốc độ tăng nợ trung bình cả giai đoạn khoảng 18%. Dư nợ Chính phủ năm 2017 ở mức 51,8% GDP và dư nợ nước ngoài của quốc gia tăng nhanh, lên khoảng 49% GDP nhưng vẫn trong giới hạn được Quốc hội cho phép. Mặc dù nợ công Việt Nam vẫn nằm trong giới hạn được Quốc hội cho phép (<65% GDP) nhưng tốc độ tăng bình quân vẫn ở mức cao. Theo đồng hồ nợ công toàn cầu The Global Debt Clock, tỷ lệ nợ công trên đầu người tại Việt Nam đang có xu hướng gia CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 2 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 204- Tháng 5. 2019 tăng liên tiếp, từ mức khoảng 15 triệu đồng/người năm 2011 lên 18,55 triệu đồng/người năm 2012, ở mức khoảng 33 triệu đồng/người năm 2017 và đang có xu hướng ngày càng tăng trong thời gian tiếp theo. Thứ hai, về cơ cấu nợ công, cơ cấu nợ công của Việt Nam hiện đang từng bước được điều chỉnh theo hướng bền vững hơn trong những năm qua, trong đó tỷ lệ nợ Chính phủ chiếm tỷ trọng lớn nhất tổng quy mô nợ, nợ trong nước có xu hướng tăng và kỳ hạn nợ ngày càng dài hơn. Giai đoạn 2011- 2017, tỷ trọng nợ Chính phủ vẫn duy trì ở mức lớn nhất, chiếm trên 80% tổng nợ công, trong khi đó nợ Chính phủ bảo lãnh khoảng 18% và 2% là nợ chính quyền địa phương. Nợ Hình 1. Tình hình nợ công Việt Nam giai đoạn 2011-2017 Đơn vị: % Nguồn: Bộ Tài chính. Nguồn: Bộ Tài chính. Hình 2. Cơ cấu nợ công Việt Nam giai đoạn 2011- 2017 Đơn vị: % CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 3Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 204- Tháng 5. 2019 Chính phủ bảo lãnh có xu hướng giảm (từ chiếm 20,2% trong tổng nợ công năm 2010 xuống còn 14,66% năm 2017) do có sự dịch chuyển từ phương thức bảo lãnh của Chính phủ sang hình thức tự vay, tự trả của doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Nợ của Chính quyền địa phương gồm các khoản tạm ứng tồn ngân từ Kho bạc, vay Ngân hàng Phát triển Việt Nam, phát hành trái phiếu chính quyền địa phương. Những khoản nợ này bắt đầu phát sinh từ năm 2004 và chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng đang có xu hướng tăng lên từ mức 0,6% năm 2010 lên 0,97% năm 2017. Cấu trúc nợ công Việt Nam có sự thay đổi theo hướng tỷ trọng nợ trong nước tăng dần, từ mức 44,3% năm 2011 lên 60% năm 2017, tương ứng với các khoản nợ nước ngoài giảm dần từ 55,7% năm 2011 còn 40% năm 2017 trong cơ cấu nợ công. Mặc dù đã có những chuyển biến tích cực trong quá trình cơ cấu lại danh mục nợ công theo hướng an toàn hơn nhưng nợ nước ngoài vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể, trong đó vay ODA và các khoản vay ưu đãi chiếm trên 90%. Trường hợp các đồng tiền ngoại tệ (USD, JPY, EUR) biến động bất lợi trong tương lai cùng việc điều chỉnh tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thể làm tăng chi phí trả nợ và giá trị danh nghĩa các khoản nợ nước ngoài theo VNĐ. Ngoài ra, các khoản vốn ưu đãi sẽ ngày càng hạn chế, chính phủ phải dựa nhiều vào nguồn vay trong nước, các khoản vay thương mại có xu hướng tăng lên trong thời gian tới. Về kỳ hạn nợ, kỳ hạn phát hành trái phiếu chính phủ (TPCP) đã có sự kéo dài từ năm 2011, kỳ hạn nợ bình quân tăng tương ứng năm 2011 và năm 2017 là 3,9 năm và 12,74 năm, qua đó tăng kỳ hạn nợ bình quân danh mục trái phiếu chính phủ (năm 2011 là 1,84 năm; 2017 là 6,7 năm). Lãi suất huy động cũng giảm mạnh qua các năm (năm 2011 bình quân 12,01%; năm 2017 là 5,98%). Như vậy, một trong những thành công trong điều hành của Chính phủ thời gian qua đó là đã kéo dài kỳ hạn phát hành TPCP và giảm tỷ trọng vay nước ngoài trong cơ cấu nợ công. Cơ cấu kỳ hạn TPCP phát hành đã có sự chuyển dịch từ 3 đến 5 năm trước đây sang kỳ hạn dài hơn (từ 10 đến 30 năm chiếm tỷ trọng gần 80%). Cơ cấu này không gây áp lực trả nợ trong ngắn hạn nhưng sẽ làm tăng gánh nặng nợ trong tương lai khi tính đến biến động tỷ giá làm tăng cả nợ gốc và lãi, nghĩa vụ nợ cũng tăng lên do lãi suất vay dài hạn cao hơn đáng kể so với lãi suất vay ngắn hạn. Các đối tác song phương tài trợ cho các khoản nợ công của Việt Nam bao gồm chính phủ các nước như: Nhật Bản, Trung Quốc, Pháp, Hàn Quốc, Nga, Đức; các đối tác đa phương bao gồm WB-IDA, ADB, WB-IBRD, EIB trong đó chủ nợ lớn nhất của Việt Nam là Nhật (34,5% tổng nợ), WB (28,8%) và ADB (15,5%). Về cơ cấu đồng tiền, danh mục nợ của Chính phủ tập trung vào một số đồng tiền chính bao gồm VNĐ với tỷ trọng 55%; USD chiếm tỷ trọng 16%; Yên Nhật chiếm tỷ trọng 13% và EUR chiếm tỷ trọng khoảng 7%, còn lại là các đồng tiền khác. Trong điều kiện thị trường tài chính- tiền tệ có nhiều biến động phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro dẫn đến danh mục nợ công có thể chịu nhiều tác động về tỷ giá hơn giai đoạn trước. Như vậy, cấu trúc nợ công Việt Nam mặc dù đã có nhiều thay đổi theo hướng bền vững hơn so với trước đây, tuy nhiên vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro, gây ảnh hưởng đến uy tín và khả năng trả nợ khi đến hạn. Thứ ba, về tình hình sử dụng nợ công, nguồn vốn từ các Hình 3. Cơ cấu kỳ hạn phát hành trái phiếu chính phủ năm 2017 Nguồn: Báo cáo Chính phủ 2018 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 4 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 204- Tháng 5. 2019 khoản nợ công góp phần thực hiện các chương trình đầu tư công nhằm tạo động lực quan trọng cho sự tăng trưởng, phát triển kinh tế- xã hội và hỗ trợ hoạt động cho các thành phần kinh tế. Về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, theo Tổng cục Thống kê, giai đoạn 2011- 2017, ICOR của Việt Nam là 6,1, kết quả này luôn vượt quá khuyến cáo của WB đối với các nước đang phát triển (dưới 3), chủ yếu do sự kém hiệu quả của khu vực kinh tế Nhà nước. Trong thực tế, hiệu quả sử dụng nợ công ở Việt Nam chưa cao, một số dự án vay lại từ nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ, dự án được Chính phủ bảo lãnh khó khăn trong trả nợ. Tình trạng số dự án được phê duyệt nhiều, điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư so với phê duyệt ban đầu, tiến trình giải ngân vốn vẫn còn chậm trễ, các dự án, công trình thi công dở dang, chuyển tiếp, kéo dài, chậm tiến độ vẫn chậm được khắc phục. Điều này cùng với sự thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công, trong hoạt động của các DNNN và các tập đoàn lớn, dẫn đến đầu tư dàn trải, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư ở tất cả các khâu của quá trình quản lý dự án đầu tư. Một số dự án đầu tư không trả được nợ, phải tái cơ cấu hoặc chuyển sang cơ chế Nhà nước đầu tư, làm tăng nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ. Những khoản nợ xấu của DNNN không những tác động trực tiếp đến nợ công mà còn ảnh hưởng đến sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng thương mại và hệ thống tài chính quốc gia. Thứ tư, về tình hình trả nợ công, theo báo cáo của Bộ Tài chính, từ năm 2011- 2016 nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với thu ngân sách nhìn chung không có sự biến động quá lớn và vẫn ở trong phạm vi kiểm soát và giới hạn được duyệt là 25% theo quy định của Quốc hội. Việc trả nợ của Chính phủ được đảm bảo đúng hạn, bao gồm cả nghĩa vụ nợ trực tiếp của Chính phủ và trả nợ vay về cho vay lại, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn. Tuy nhiên, năm 2017 nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ tăng cao, khoảng 260.150 tỷ đồng, gồm trả nợ trong nước là 214.878 tỷ đồng, trả nợ nước ngoài trực tiếp là 28.022 tỷ đồng; trả nợ của các dự án vay lại nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ trong năm 2017 ở mức khoảng 17.250 tỷ đồng, chiếm gần 20% so với tổng thu ngân sách. Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ có xu hướng ngày càng tăng cả về con số tuyệt đối lẫn tương đối, điều này gây áp lực đối với việc sắp xếp nguồn để trả nợ của ngân sách, khả năng cân đối nguồn bố trí chi trả nợ hàng năm chưa tương xứng với nghĩa vụ trả nợ đến hạn, vay đảo nợ tăng nhanh với khối lượng lớn trong nhiều năm, tiềm ẩn nguy cơ vỡ nợ nếu không được Hình 4. Cơ cấu nguồn vốn đầu tư của khu vực Nhà nước Đơn vị: % Nguồn: Tổng cục Thống kê. CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 5Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 204- Tháng 5. 2019 kiểm soát tốt và cơ cấu lại danh mục trả nợ công. Dư nợ Chính phủ ngày càng tăng, trong khi khả năng trả nợ mỗi năm còn nhiều hạn chế. Trước năm 2010, thời gian trả nợ trung bình đối với các khoản vay ODA (bao gồm giai đoạn gia hạn) của Việt Nam là 30 - 40 năm với mức lãi suất khoảng 0,7- 0,8%/ năm. Đến giai đoạn sau 2010, thời gian trả nợ giảm xuống còn 10 - 20 năm và mức lãi suất tối thiểu là 2%/năm. Nguồn trả nợ chủ yếu từ vay trong nước thông qua phát hành TPCP, vay ODA và các nguồn ưu đãi từ nước ngoài. Tuy nhiên, từ tháng 7/2017, Việt Nam không còn là nước có thu nhập thấp nên không còn được vay theo điều kiện ODA mà tiến tới vay theo điều kiện thị trường, điều này dẫn đến áp lực trả nợ, hơn nữa, vốn đầu tư cơ sở hạ tầng ngày càng trở nên cấp bách. Giai đoạn từ nay đến năm 2020, nhu cầu vốn vay rất lớn sẽ khó khăn trong việc huy động. Do vậy, Chính phủ cần giám sát chặt chẽ quá trình huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công, quản lý việc huy động vốn cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển, việc vay về cho vay lại và bảo lãnh Chính phủ nhằm đảm bảo khả năng trả nợ đúng hạn, đầy đủ theo đúng các cam kết của Chính phủ với nhà tài trợ. 2. Mức độ an toàn nợ công Việt Nam Tình hình nợ công Việt Nam đang được quản lý theo hướng bền vững hơn thông qua việc điều chỉnh lại quy mô và cơ cấu lại danh mục nợ, tỷ lệ nợ công/GDP có xu hướng giảm dần trong các năm gần đây, cụ thể năm 2017, nợ công là 62,6% GDP; năm 2018 là 61,4% GDP và dự kiến năm 2019 là 61,3% GDP. Tuy nhiên, nợ Chính phủ và nợ nước ngoài của quốc gia lại xu hướng tăng lên, đặc biệt nợ nước ngoài của quốc gia đã dần tới trần cho phép (50% GDP) năm 2017. Nguyên nhân chủ yếu do hoạt động rút vốn và trả nợ gốc các khoản vay nước ngoài ngắn hạn của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng trong năm 2017 tăng mạnh. Nhìn chung, phần lớn các chỉ tiêu về nợ công của Việt Nam vẫn đảm bảo trong giới hạn theo Quyết định số 958/QĐ- TTg ngày 27/07/2012 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011- 2020 và tầm nhìn 2030. Tuy nhiên, trong thực tế cách tính nợ công Việt Nam vẫn chưa đồng bộ với chuẩn mực quốc tế, chưa phản ánh đầy đủ gánh nặng và nghĩa vụ trả nợ công nên các số liệu được công bố vẫn còn có sự khác biệt khá lớn. Ngoài ra, xét về tình hình quản lý nợ công và nhu cầu vốn trong thời gian tới, với điều kiện diễn biến kinh tế vĩ mô có nhiều biến động và ngân sách vẫn thâm hụt ở mức cao, kéo dài khiến nợ công Việt Nam vẫn còn Hình 5. Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với thu ngân sách giai đoạn 2011-2017 Đơn vị: % Nguồn: Bộ Tài chính và tính toán của tác giả. CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 6 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 204- Tháng 5. 2019 tiềm ẩn nhiều rủi ro. Mức độ an toàn nợ công không chỉ dừng lại chỉ số tỷ lệ nợ/ GDP mà còn phải đề cập đến các nghĩa vụ trả nợ khác như nghĩa vụ trả nợ/thu ngân sách (được qui định dưới 25%, Việt Nam đang ở mức khoảng 14-16%); nợ nước ngoài/ xuất khẩu (được qui định dưới 25%); dự trữ ngoại hối/dư nợ nước ngoài ngắn hạn trên 200% để nhằm đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ nước ngoài khi đến hạn, tránh mất khả năng trả nợ. Theo đề án phát hành TPCP ra thị trường quốc tế đến năm 2020 của Bộ Tài chính, nghĩa vụ trả nợ Chính phủ sẽ dự kiến liên tục tăng mạnh giai đoạn 2017- 2020, trung bình 12% trong toàn giai đoạn. Nguồn để trả nợ chủ yếu lấy từ ngân sách và Quỹ tích luỹ, trong điều kiện ngân sách liên tục thâm hụt ở mức cao, nhu cầu vay lớn, tình hình sử dụng vốn vay kém hiệu quả, cùng với những rủi ro tiềm ẩn về lãi suất, kỳ hạn, tỷ giá, các khoản nợ tiềm ẩn và sự biến động các yếu tố kinh tế- xã hội khác sẽ de đoạ đến tính bền vững và khả năng trả nợ trong tương lai. Do vậy, Chính phủ Việt Nam cần có sự kiểm soát chặt chẽ và áp dụng các chính sách phù hợp, kịp thời nhằm đảm bảo sự an toàn và nâng cao tính bền vững của nợ công Việt Nam thời gian tới. 3. Tăng cường kiểm soát an toàn nợ công Việt Nam trong thời gian tới Mặc dù vẫn trong giới hạn cho phép của Quốc hội nhưng quy mô nợ công của Việt Nam vẫn có xu hướng tăng dần đều, mỗi năm khoảng 360.000- 380.000 tỷ đồng. Để giảm thiểu các nguy cơ mất kiểm soát nợ công, giảm thiểu các rủi ro, đảm bảo tính bền vững và an toàn nợ công, bài viết đề xuất một số vấn đề cần được chú trọng thực hiện trong thời gian tới như sau: Thứ nhất, xây dựng cơ cấu nợ hợp lý nhằm giảm thiểu rủi ro đối với danh mục nợ công Xây dựng cơ cấu đồng tiền vay đa dạng hơn nhằm tránh ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối. Đối với đồng tiền vay nợ nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn nhất vẫn là đồng Yên Nhật do chủ yếu vay nước ngoài là vay ODA từ Nhật, sau đó là đồng SDR, các khoản vay bằng USD và EUR cũng chiếm tỷ lệ đáng kể. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây với xu hướng biến động trên thị trường, đòi Bảng 1. Các chỉ tiêu giới hạn nợ của Việt Nam Chỉ tiêu Giai đoạn Giới hạn 1. Nợ công/GDP Đến 2020 ≤ 65% 2. Nợ của Chính phủ/GDP Đến 2020 ≤ 55% 3. Nợ nước ngoài của quốc gia/GDP Đến 2020 ≤ 50% 4. Nợ nước ngoài Chính phủ/tổng nợ Chính phủ Đến 2020 ≤ 50% 5. Kỳ hạn bình quân phát hành TPCP trong nước 2011 - 2015 4-6 năm 2016 - 2020 6-8 năm 6. Vay trong và ngoài nước để bù đắp bội chi ngân sách (tính cả TPCP)/GDP Đến 2015 ≤ 4,5% 2016 - 2020 ≤ 4% 7. Nghĩa vụ trả nợ Chính phủ trực tiếp (không kể cho vay lại)/thu ngân sách Hàng năm ≤ 25% 8. Nợ nước ngoài của quốc gia/xuất khẩu Hàng năm ≤ 25% 9. Dự trữ ngoại hối/tổng dư nợ nước ngoài ngắn hạn Hàng năm ≥ 200% 10. Chương trình đầu tư TPCP (tỷ đồng) 2011 - 2015 ≤ 225.000 2016 - 2020 ≤ 350.000 Nguồn: Phụ lục kèm công văn số 126/BC-BTC ngày 25/11/2015 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 7Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 204- Tháng 5. 2019 hỏi phải đa dạng đồng tiền vay nợ để giảm thiểu rủi ro về tỷ giá. Hơn nữa, xây dựng cơ cấu đồng tiền vay nợ ổn định tập trung vào đồng tiền mạnh hay đồng tiền ít có sự biến động sẽ là điều kiện tránh ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối. Do đó, đa dạng hóa đồng tiền vay nợ sẽ giảm thiểu mức độ rủi ro tỷ giá, đồng thời tránh được sự biến động về trữ lượng ngoại hối quốc gia. Một là, chuyển cơ cấu vay nợ ngắn hạn sang vay nợ dài hạn. Hiện nay, về cơ cấu nợ công, khoảng gần 50% là nợ nước ngoài với điều kiện vay cơ bản là ưu đãi và thời gian đáo hạn còn lại khoảng 15 năm, phần còn lại là khoản vay trong nước thông qua phát hành trái phiếu chính phủ TPCP với kỳ hạn nằm trong khoảng từ 2- 5 năm. Trong đó, tỷ lệ các khoản nợ vay ngắn hạn khá lớn nhưng đang có xu hướng giảm dần. Do đó, cân nhắc đối với những khoản vay ngắn hạn, hạn chế sử dụng vay mới để đảo nợ cũ, bảo đảm an toàn nợ công trong dài hạn. Điều này sẽ tránh được cơ cấu nợ công nguy hiểm, đảm bảo thanh toán nợ đúng hạn, có nguồn kịp thời để trả nợ. Hai là, điều chỉnh cơ cấu nợ công theo xu hướng giảm nợ công nước ngoài trong tổng vay nợ. Trong những năm gần đây, khi thị trường tài chính trong nước đã có nhiều bước phát triển, cơ cấu nợ này đang được cố gắng cải thiện nhưng trong tương lai, cần tiếp tục điều chỉnh cơ cấu nợ theo xu hướng tăng tỷ trọng vay nợ trong nước, giảm tỷ trọng vay nợ nước ngoài. Việc điều chỉnh đem lại một số lợi ích nhất định như: (i) tránh được sự phụ thuộc đối với khoản vay từ bên ngoài kèm điều kiện nhất định; (ii) giảm bớt rủi ro về tỷ giá và gây áp lực lên dự trữ ngoại hối; (iii) chủ động hơn với khoản vay trong nước nhằm kết hợp với chính sách tiền tệ để điều hành thị trường tài chính trong nước. Ba là, tăng cường kiểm soát và quản lý nợ công. Quản lý chặt chẽ các khoản vay mới, nợ công chỉ sử dụng cho đầu tư phát triển, xây dựng các công trình kinh tế- xã hội quan trọng, thiết yếu theo quy hoạch, thực hiện rà soát, thẩm định, đánh giá tác động lên nợ công của các chương trình, dự án sử dụng vốn vay của Chính phủ, vốn vay được Chính phủ bảo lãnh và vốn vay của chính quyền địa phương. Phải tăng cường minh bạch hóa trong công tác quản lý, thống kê và công bố thông tin về nợ công đồng thời tăng cường vai trò giám sát của Quốc hội, Kiểm toán Nhà nước với tư cách là cơ quan độc lập về kiểm tra tài chính Nhà nước có vai trò giúp Chính phủ có số liệu xác thực và thực trạng trung thực để đảm bảo bền vững nợ. Thứ hai, cân đối thu- chi ngân sách, đảm bảo ngân sách bền vững Vay nợ để bù đắp thiếu hụt ngân sách cũng là một trong những nguyên nhân trực tiếp Bảng 2. Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ và cân đối nguồn giai đoạn 2017- 2020 Đơn vị: nghìn tỷ đồng Chỉ tiêu 2017 2018 2019 2020 1. Nghĩa vụ trả nợ 342,10 370,50 424,30 501,10 1.1. NSNN 312,60 333,50 376,10 419,60 a. Trong nước 266,30 275,40 302,60 329,10 Gốc 168,90 164,00 172,50 185,10 Lãi 97,40 111,40 130,10 144,00 b. Nước ngoài 46,30 58,10 73,50 90,50 Gốc 29,80 38,10 45,00 55,00 Lãi 16,50 20,00 28,50 35,50 1.2. Cho vay lại 29,50 37,00 48,20 81,50 Gốc 11,80 17,50 26,80 57,90 Lãi 17,70 19,50 21,40 23,60 2. Cân đối nguồn 342,10 370,50 424,30 501,10 a. NSNN 228,60 293,50 379,20 422,90 b. Quỹ tích lũy 29,50 37,00 45,10 78,20 c. Đảo nợ 84,00 40,00 0,00 0,00 Nguồn: Đề án phát hành TPCP ra thị trường quốc tế đến năm 2020 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 8 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 204- Tháng 5. 2019 dẫn đến nợ công tăng cao. Chính vì vậy, để giảm thiểu những áp lực đối với tình trạng nợ công, ngân sách cần phải được điều chỉnh đảm bảo sự cân đối thu - chi, hướng đến tính bền vững trong dài hạn. Với cơ cấu thu ngân sách còn những bất cân đối phụ thuộc nhiều vào thu từ dầu thô, hoạt động xuất nhập khẩu và đất đai. Do đó, cần đảm bảo nuôi dưỡng nguồn thu, trong đó chú trọng các khoản thu
Tài liệu liên quan