Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định mối liên quan giữa một số yếu tố về thói quen vệ sinh răng miệng và tình trạng nhạy cảm ngà răng. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện trên 871 người trưởng thành tại nội thành/ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh, khảo sát một số đặc điểm về thói quen vệ sinh răng miệng bằng bảng câu hỏi phỏng vấn và khám lâm sàng đánh giá tình trạng nhạy cảm ngà bằng kích thích cọ xát và kích thích thổi hơi. Kết quả và Kết luận: Thói quen vệ sinh răng miệng có ảnh hưởng đến tình trạng nhạy cảm ngà răng: tỷ lệ nhạy cảm ngà cao ở nhóm chải răng theo chiều ngang, chải răng với lực mạnh, sử dụng tăm, thấp ở nhóm dùng bàn chải lông mềm, nhóm có thời gian chải răng kéo dài trên 3 phút, có thói quen thay bàn chải trong vòng 3 tháng. Kết quả không ghi nhận khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm đối tượng khác nhau về tần suất chải răng mỗi ngày và về khoảng cách thời gian chải răng sau bữa ăn. Nguy cơ nhạy cảm ngà ở nhóm đối tượng chải răng trong vòng 3 phút cao gấp 2,2 lần so với nhóm chải răng trên 3 phút [KTC 95%: 1,1-4,1]. Người chải răng với lực mạnh có nguy cơ nhạy cảm ngà cao gấp 1,6 lần so với người chải răng với lực trung bình hoặc lực nhẹ [KTC 95%: 1,1-2,5].
7 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 311 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thói quen vệ sinh răng miệng và tình trạng nhạy cảm ngà răng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 157
* Học viên Cao học Khóa 2008-2010, Khoa RHM, Đại học Y Dược TP.HCM
** Học viên Cao học Khóa 2007-2009, Khoa RHM, Đại học Y Dược TP.HCM
*** Bộ môn NKCS - Khoa RHM, Đại học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: Bùi Tuấn Anh ĐT: 0903707410 Email: btanh1@yahoo.com
THÓI QUEN VỆ SINH RĂNG MIỆNG
VÀ TÌNH TRẠNG NHẠY CẢM NGÀ RĂNG
Bùi Tuấn Anh*, Nguyễn Thị Mai Phương**, Hoàng Đạo Bảo Trâm***
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định mối liên quan giữa một số yếu tố về thói quen vệ sinh
răng miệng và tình trạng nhạy cảm ngà răng.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện trên 871 người trưởng thành tại nội
thành/ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh, khảo sát một số đặc điểm về thói quen vệ sinh răng miệng bằng bảng
câu hỏi phỏng vấn và khám lâm sàng đánh giá tình trạng nhạy cảm ngà bằng kích thích cọ xát và kích thích thổi
hơi.
Kết quả và Kết luận: Thói quen vệ sinh răng miệng có ảnh hưởng đến tình trạng nhạy cảm ngà răng: tỷ lệ
nhạy cảm ngà cao ở nhóm chải răng theo chiều ngang, chải răng với lực mạnh, sử dụng tăm, thấp ở nhóm dùng
bàn chải lông mềm, nhóm có thời gian chải răng kéo dài trên 3 phút, có thói quen thay bàn chải trong vòng 3
tháng. Kết quả không ghi nhận khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm đối tượng khác nhau về tần suất chải
răng mỗi ngày và về khoảng cách thời gian chải răng sau bữa ăn. Nguy cơ nhạy cảm ngà ở nhóm đối tượng chải
răng trong vòng 3 phút cao gấp 2,2 lần so với nhóm chải răng trên 3 phút [KTC 95%: 1,1-4,1]. Người chải răng
với lực mạnh có nguy cơ nhạy cảm ngà cao gấp 1,6 lần so với người chải răng với lực trung bình hoặc lực nhẹ
[KTC 95%: 1,1-2,5].
Từ khóa: nhạy cảm ngà, thói quen vệ sinh răng miệng.
ABSTRACT
ORAL CARE HABITS AND DENTINE HYPERSENSITIVITY
Bui Tuan Anh, Nguyen Thi Mai Phuong, Hoang Dao Bao Tram
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 2 - 2015: 157 - 163
Objectives: The study was conducted to determine the relationship between oral care habits and dentine
hypersensitivity.
Methods: This cross-sectional study was perfomed on 871 adults in the urbal/rural of HCM city to survey
some oral care habits by interviewing questionnaire and clinically examined the dentine hypersensitivity by
applying tactile and evaporative stimuli.
Results and Conclusions: The oral care habits had effects on the dentine hypersensitivity: the dentine
hypersensitivity was higher in the groups with transversal brushing, strong force brushing, toothpick using
habits, lower in the groups using soft brush, over 3 minutes-brushing, and renewing brush within 3 months. Any
significant difference was recorgnized in considering on brush frequency and the interval time between brushing
and meals. The risk of dentine hypersensitivity was 2.2 times higher in the groups brushing within 3 minutes
than over 3 minutes-brushing [CI 95%: 1.1-4.1]. Strong force brushing subjects had 1.6 times dentine
hypersensitivity risk in comparing to moderate or light force brushing [CI 95%: 1.1-2.5].
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 158
Key words: dentine hypersensitivity, oral care habits.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhạy cảm ngà được định nghĩa là cơn đau
chói diễn ra rất nhanh tại những vùng ngà bị lộ,
dưới tác động của các dạng kích thích như: áp
lực, nhiệt, bay hơi, cọ xát, thẩm thấu, hóa chất;
mà không do bệnh lý nào khác của răng(1,3). Tình
trạng này thường là kết quả của quá trình men
răng bị mòn do tác động ăn mòn hóa học, mài
mòn do tiếp xúc khớp cắn, và cọ mòn do ma xát
với các yếu tố ngoại lai, hoặc bề mặt chân răng bị
lộ do tụt nướu hoặc sau điều trị nha chu. Cảm
giác đau nhói đặc trưng của nhạy cảm ngà chân
răng xảy ra khi có kích thích cơ học, nhiệt độ,
hóa chất hoặc áp lực thẩm thấu tác động lên
vùng ngà răng bị lộ.
Các khảo sát dịch tễ đã được thực hiện trên
thế giới cho thấy nhạy cảm ngà là một tình trạng
phổ biến. Các số liệu dịch tễ học ghi nhận có sự
khác biệt về tỷ lệ nhạy cảm ngà trong quần thể
người trưởng thành, giữa nam và nữ, và giữa các
nhóm tuổi. Bên cạnh đó, nhiều yếu tố có thể có
liên quan đến nhạy cảm ngà, như một số yếu tố
nguy cơ hoặc yếu tố khởi phát. Đó có thể là các
yếu tố về tình trạng của răng và nha chu, chế độ
ăn uống, thói quen vệ sinh và chăm sóc răng
miệng
Người có mức độ vệ sinh răng miệng cao có
biểu hiện mòn răng nhiều hơn. Tần suất chải
răng mỗi ngày cao và chải răng theo chiều ngang
có thể là các yếu tố liên quan đến tình trạng tụt
nướu và tổn thương dạng hình chêm. Các yếu tố
tham gia thúc đẩy quá trình mòn răng theo
những cơ chế khác nhau cũng chính là các yếu tố
liên quan đến tình trạng nhạy cảm ngà răng
ngày càng phổ biến và xuất hiện ở người trẻ.
Tại Việt Nam, một số nghiên cứu về tình
trạng nhạy cảm ngà đã được thực hiện, trong đó
có nghiên cứu của Tống Minh Sơn khảo sát tình
trạng nhạy cảm ngà răng và một số yếu tố liên
quan ở nhân viên công ty Bảo hiểm Nhân thọ tại
Hà Nội(6).
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm
xác định mối liên quan giữa một số yếu tố về
thói quen vệ sinh răng miệng đối với tình trạng
nhạy cảm ngà răng.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện từ
6/2013 đến 6/2014, khảo sát trên 871 người
trưởng thành từ 18 tuổi trở lên sinh sống tại nội
thành/ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh.
Tiêu chí chọn mẫu
Từ 18 tuổi trở lên.
Đang cư trú tại thành phố Hồ Chí Minh liên
tục từ 24 tháng trở lên.
Sức khỏe toàn thân và tâm thần ổn định.
Đồng ý tham gia nghiên cứu.
Có từ 20 răng trở lên không thuộc tiêu chí
răng bị loại khỏi mẫu.
Tiêu chí loại ra
Đối với đối tượng nghiên cứu
Không có khả năng tự trả lời câu hỏi hoặc
đang điều trị tâm lý.
Đang có thai hoặc cho con bú.
Đang điều trị nhạy cảm ngà trong vòng 2
tuần.
Đang dùng thuốc kháng viêm, giảm đau
trong vòng 2 tuần.
Trám răng, phẫu thuật nha chu, chỉnh nha
trong vòng 3 tháng.
Đối với răng nghiên cứu
Răng sâu, bể/vỡ, có phục hồi lớn hơn 1/4
thân răng.
Răng có phục hồi ở mặt ngoài hay vùng cổ
răng.
Răng chết tủy hoặc đã điều trị nội nha.
Răng bọc mão hoặc mang các phần tựa của
phục hình.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 159
Phương tiện nghiên cứu
Bảng câu hỏi: bao gồm 15 câu hỏi phỏng vấn
về thông tin cá nhân và thói quen vệ sinh răng
miệng.
Phiếu khám: đánh giá tình trạng răng và nha
chu và tình trạng nhạy cảm ngà trên tất cả các
răng không nằm trong tiêu chí loại ra đối với
răng nghiên cứu, không kể răng số 8.
Bộ đồ khám: khay, gương, kẹp gắp, thám
trâm.
Đầu xịt hơi và máy nén hơi nha khoa.
Các phương tiện và hóa chất vô trùng dụng
cụ và sát khuẩn bề mặt.
Phương pháp thu thập số liệu
Hỏi bằng bảng câu hỏi soạn sẵn
Khảo sát một số đặc điểm về thói quen vệ
sinh răng miệng liên quan đến hiện tượng mòn
răng và nhạy cảm ngà bằng phương pháp phỏng
vấn trực tiếp từng người sử dụng bảng câu hỏi
soạn sẵn.
Khám lâm sàng
Bệnh nhân được hướng dẫn chải sạch răng
bằng bàn chải lông mềm và kem đánh răng
thông thường, không có chất chống nhạy cảm
ngà.
Khám đánh giá tình trạng răng miệng tổng
quát của bệnh nhân.
Số liệu thu thập cho nghiên cứu được ghi
nhận trên tất cả 28 răng trên hai cung hàm (trừ
các răng khôn và các răng không đạt tiêu chuẩn
đánh giá, bị loại khỏi mẫu).
Nhạy cảm ngà được đánh giá bằng hai
phương pháp là kích thích cọ xát và kích thích
thổi hơi, ghi nhận mức độ nhạy cảm ngà theo
thang điểm từ 0-3, dựa trên “Nguyên tắc thiết kế
và thực hiện thử nghiệm lâm sàng về nhạy cảm ngà
răng”(3).
Phương pháp xử lý số liệu
Bảng câu hỏi sau khi được thu thập sẽ được
nhập và làm sạch bằng phần mềm Epi Data 3.2.
Phân tích số liệu bằng phần mềm Stata 10.
Thống kê mô tả: Các biến định tính được mô
tả bằng tần số và tỷ lệ phần trăm. Các biến định
lượng được mô tả bằng giá trị trung bình và độ
lệch chuẩn.
Thống kê phân tích
Dùng phép kiểm χ² để so sánh tỷ lệ phần
ptrăm của các biến định tính.
Dùng kiểm định t, phép kiểm Anova để so
sánh giá trị trung bình.
Sử dụng mô hình hồi quy logistic đa biến để
đánh giá mối liên quan giữa các yếu tố và nhạy
cảm ngà.
KẾT QUẢ
Nghiên cứu khảo sát tình trạng nhạy cảm
ngà răng và một số yếu tố liên quan, thực hiện từ
tháng 6 năm 2013 đến tháng 6 năm 2014. Mẫu
nghiên cứu gồm 871 người trưởng thành, tuổi từ
18 đến 79 (35,92 ± 12,43), trong đó có 625 người ở
nội thành (71,8%) và 246 (28,2%) người ở ngoại
thành thành phố Hồ Chí Minh.
Khi xét tỷ lệ nhạy cảm ngà răng trên các
nhóm đối tượng theo số lần chải răng hàng ngày,
kết quả không ghi nhận khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa nhóm đối tượng chải răng 1 lần, 2
lần, và trên 2 lần mỗi ngày (Bảng 1).
Bảng 1. Tỷ lệ nhạy cảm ngà răng xét theo tần suất chải răng hàng ngày.
Tần suất chải răng
≤ 1 lần 2 lần > 2 lần
p
NCN K-NCN NCN K-NCN NCN K-NCN
Nội thành 85,1% 14,9% 84,4% 15,6% 84,1% 15,9% >0,05
Ngoại thành 93,3% 6,7% 88,7% 11,3% 88,9% 11,1% >0,05
Tp HCM 86% 14% 85,9% 14,1% 84,8% 15,2% >0,05
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 160
Bảng 2. Tỷ lệ nhạy cảm ngà răng xét theo thời lượng mỗi lần chải răng.
Thời lượng chải răng
≤ 1 phút 2 - 3 phút > 3 phút
p
NCN K-NCN NCN K-NCN NCN K-NCN
Nội thành 87,7% 12,3% 89,8% 10,2% 64,3% 35,7% <0,05
Ngoại thành 91% 9% 89,8% 10,2% 64,3% 35,7% <0,01
Tp HCM 88,7% 11,3% 84,3% 15,7% 72,9% 27,1% <0,01
Khi khảo sát theo thời lượng mỗi lần chải
răng, tỷ lệ nhạy cảm ngà thấp nhất ở nhóm chải
răng kéo dài trên 3 phút, khác biệt có ý nghĩa
thống kê ở cả nội thành, ngoại thành và trên toàn
bộ mẫu (Bảng 2).
Xét khoảng cách thời gian chải răng sau bữa
ăn, kết quả nghiên cứu không ghi nhận khác biệt
có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm có thời gian
chải răng sau khi ăn dưới 60 phút và trên 60 phút
(Bảng 3).
Bảng 3. Tỷ lệ nhạy cảm ngà răng xét theo khoảng
cách thời gian chải răng sau bữa ăn (%).
Khoảng cách
thời gian chải
răng sau bữa ăn
≤ 60 phút > 60 phút
p
NCN K-NCN NCN K-NCN
Nội thành 86,6% 13,4% 83,4% 16,6% >0,05
Ngoại thành 81,5% 18,5% 90% 10% >0,05
Tp HCM 86% 14% 85,7% 14,3% >0,05
Khi phân tích theo cách chải răng, kết quả
cho thấy tỷ lệ nhạy cảm ngà ở nhóm chải răng
theo chiều ngang cao hơn so với nhóm không
chải răng theo chiều ngang, khác biệt có ý nghĩa
thống kê ghi nhận được ở nội thành (p<0,005) và
ở toàn bộ mẫu nghiên cứu (p<0,01). Không thấy
khác biệt có ý nghĩa khi xét ở khu vực ngoại
thành (Bảng 4).
Bảng 4. Tỷ lệ nhạy cảm ngà răng xét theo cách chải
răng.
Cách chải
răng
Chải ngang Không chải ngang p
NCN K-NCN NCN K-NCN
Nội thành 86,2% 13,8% 74,2% 25,8% <0,005
Ngoại thành 90% 10% 88,9% 11,1% >0,05
Tp HCM 87% 13% 77% 23% <0,01
Khi xét về lực chải răng, tỷ lệ nhạy cảm ngà ở
nhóm có thói quen chải răng với lực mạnh cao
hơn so với nhóm đối tượng chải răng với lực
trung bình hoặc lực nhẹ. Tuy nhiên, khác biệt có
ý nghĩa thống kê chỉ ghi nhận được khi xét trên
toàn bộ mẫu (Bảng 5).
Bảng 5. Tỷ lệ nhạy cảm ngà răng xét theo lực chải răng.
Lực chải răng
Mạnh Trung bình Nhẹ
p
NCN K-NCN NCN K-NCN NCN K-NCN
Nội thành 87% 13% 81,8% 18,2% 82,3% 17,7% >0,05
Ngoại thành 91,8% 8,2% 83,6% 16,4% 75% 25% >0,05
Tp HCM 88,7% 11,3% 82,2% 17,8% 81,7% 18,3% <0,05
Khi xét về độ cứng của lông bàn chải, tỷ lệ
nhạy cảm ngà thấp nhất ở nhóm sử dụng bàn
chải lông mềm, khác biệt có ý nghĩa thống kê ở
ngoại thành và trên toàn bộ mẫu (Bảng 6).
Bảng 6. Tỷ lệ nhạy cảm ngà răng xét theo độ cứng của lông bàn chải.
Độ cứng lông bàn
chải
Cứng Trung bình Mềm
p NCN K-NCN NCN K-NCN NCN K-NCN
Nội thành 87,1% 12,9% 87,1% 12,9% 80,5% 19,5% >0,05
Ngoại thành 91,1% 8,9% 93,5% 6,5% 80,8% 19,2% <0,05
Tp HCM 88% 12% 89,3% 10,7% 80,6% 19,4% <0,01
Đối với thói quen thay bàn chải, nhóm đối
tượng có thói quen thay bàn chải trong vòng 3
tháng có tỷ lệ nhạy cảm ngà thấp nhất, nhóm có
thời gian thay bàn chải trên 6 tháng có tỷ lệ nhạy
cảm ngà cao nhất, kết quả ghi nhận tương tự ở
cả nội thành, ngoại thành, và khi xét trên toàn bộ
mẫu nghiên cứu. Tuy nhiên, khác biệt không có
ý nghĩa thống kê (Bảng 7).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 161
Bảng 7. Tỷ lệ nhạy cảm ngà răng xét theo khoảng thời gian thay bàn chải
Thời gian thay bàn chải
6 tháng
p NCN K-NCN NCN K-NCN NCN K-NCN
Nội thành 81,8% 18,2% 84% 16% 89,3% 10,7% >0,05
Ngoại thành 86,6% 13,4% 92% 8% 100% 0% >0,05
Tp HCM 83,5% 16,5% 86,6% 15,4% 90,1% 9,9% >0,05
Bảng 8. Tỷ lệ nhạy cảm ngà răng xét theo thói quen
dùng tăm (%).
Dùng tăm Không dùng tăm
p
NCN K-NCN NCN K-NCN
Nội thành 85,9% 14,1 78,3% 21,7 <0,05
Ngoại
thành
89,3% 10,7 87,5% 12,5 >0,05
Tp HCM 86,9% 13,1% 80,6% 19,4% <0,05
Khi đánh giá trên các nhóm đối tượng có và
không có thói quen dùng tăm làm sạch vùng kẽ
răng, kết quả ghi nhận tỷ lệ nhạy cảm ngà ở
nhóm có thói quen dùng tăm luôn luôn cao hơn
so với nhóm không dùng tăm, khác biệt có ý
nghĩa thống kê ghi nhận được ở nội thành và khi
xét trên toàn bộ mẫu nghiên cứu (Bảng 8).
Mô hình hồi quy logistic đa biến phân tích
đồng thời tất cả các biến số, có hiệu chỉnh và
kiểm soát các yếu tố tuổi và giới, cho thấy một số
yếu tố có liên quan có ý nghĩa với tình trạng
nhạy cảm ngà răng, đó là thời lượng mỗi lần chải
răng và lực chải răng.
Nguy cơ nhạy cảm ngà biểu hiện ở nhóm đối
tượng có thói quen chải răng nhanh trong vòng 3
phút cao gấp 2,2 lần so với nhóm đối tượng có
thói quen chải răng trên 3 phút [KTC 95%: 1,1-
4,1]. Người chải răng với lực mạnh có nguy cơ
nhạy cảm ngà cao gấp 1,6 lần so với người có
thói quen chải răng với lực trung bình hoặc lực
nhẹ [KTC 95%: 1,1-2,5].
BÀN LUẬN
Nghiên cứu mô tả các tỷ lệ về một số đặc
điểm về thói quen vệ sinh răng miệng, bao gồm
tần suất chải răng trong ngày, thời lượng mỗi lần
chải răng, khoảng cách thời gian chải răng sau
bữa ăn, cách chải răng, lực chải răng, độ cứng
của lông bàn chải, thời gian thay bàn chải mới,
và thói quen làm sạch vùng kẽ răng bằng tăm.
Đồng thời, kết quả nghiên cứu cho biết tỷ lệ
nhạy cảm ngà răng ở các nhóm đối tượng, trong
mối liên quan với các yếu tố này.
Khi xét về tần suất chải răng trong ngày,
đối tượng có thói quen chải răng 2 lần mỗi ngày
chiếm tỷ lệ cao nhất, 63,5% ở nội thành, 86,6% ở
ngoại thành, và 70% trên toàn bộ mẫu nghiên
cứu. Tuy nhiên, kết quả không ghi nhận khác
biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ nhạy cảm ngà
giữa nhóm đối tượng chải răng 1 lần, 2 lần, và
trên 2 lần mỗi ngày. Bên cạnh hiệu quả về vệ
sinh răng miệng, tần suất chải răng, phối hợp
cùng các yếu tố khác, có thể liên quan đến hiện
tượng tụt nướu và mòn cổ răng. Tuy nhiên, theo
một số tác giả, người có tần suất chải răng nhiều
lần trong ngày thông thường lại là những đối
tượng có ý thức và kiến thức về chăm sóc sức
khỏe răng miệng. Trong nghiên cứu khảo sát
trên học sinh điều dưỡng, Trần Thị Bích Thủy
ghi nhận học sinh chải răng ≥ 3 lần/ngày có kiến
thức về chải răng tốt hơn so với học sinh chải
răng 1-2 lần/ngày(7).
Khi khảo sát theo thời lượng mỗi lần chải răng,
tỷ lệ nhạy cảm ngà thấp nhất ở nhóm chải răng
kéo dài trên 3 phút, khác biệt có ý nghĩa thống kê
ở cả nội thành, ngoại thành và trên toàn bộ mẫu.
Trong nghiên cứu của Tống Minh Sơn thực hiện
trên 155 nhân viên công ty bảo hiểm, tác giả
không ghi nhận khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ
nhạy cảm ngà giữa nhóm chải răng dưới 2 phút
và nhóm chải răng từ 2 phút trở lên(6).
Khi xét theo khoảng cách thời gian chải răng sau
bữa ăn, kết quả trong nghiên cứu không ghi nhận
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm có
thời gian chải răng sau khi ăn dưới 60 phút và
trên 60 phút. Kết quả này cũng tương tự kết quả
nghiên cứu của Tống Minh Sơn, không ghi nhận
khác biệt có ý nghĩa thống kê ở nhóm đối tượng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 162
có thời gian chải răng sau bữa ăn dưới 30 phút
và trên 30 phút(6).
Khi phân tích theo cách chải răng, tỷ lệ người
chải răng theo chiều ngang chiếm trên dưới 90%.
Tỷ lệ nhạy cảm ngà ở nhóm chải răng theo chiều
ngang cao hơn so với nhóm không chải răng
theo chiều ngang, khác biệt có ý nghĩa thống kê
ghi nhận được ở nội thành và ở toàn bộ mẫu
nghiên cứu; không thấy khác biệt có ý nghĩa khi
xét ở khu vực ngoại thành. Tống Minh Sơn cũng
ghi nhận tỷ lệ nhạy cảm ngà ở nhóm chải răng
theo chiều ngang cao hơn so với nhóm chải răng
theo chiều dọc, khác biệt có ý nghĩa thống kê(6).
Thói quen chải răng theo chiều ngang được
ghi nhận là một yếu tố bất lợi đối với mô răng và
mô nha chu. Trong khi đó, một số nghiên cứu
khảo sát thói quen chải răng ghi nhận tỷ lệ người
có kiến thức về phương pháp chải răng Bass khá
thay đổi: 53%(2) và 91%(4) ở học sinh tiểu học, 10%
ở học sinh trung học cơ sở(5), 47,1% ở học sinh
điều dưỡng tại thành phố Hồ Chí Minh(7). Tỷ lệ
học sinh trung học có kiến thức chải răng đúng
là 8%(5), tỷ lệ này là 28,2% trên học sinh điều
dưỡng(7).
Khi xét về lực chải răng, tỷ lệ nhạy cảm ngà ở
nhóm có thói quen chải răng với lực mạnh cao
hơn so với nhóm đối tượng chải răng với lực
trung bình hoặc lực nhẹ. Tuy nhiên, khác biệt có
ý nghĩa thống kê chỉ ghi nhận được khi xét trên
toàn bộ mẫu. Đối với độ cứng của lông bàn chải,
tỷ lệ nhạy cảm ngà thấp nhất ở nhóm sử dụng
bàn chải lông mềm, khác biệt có ý nghĩa thống
kê ở ngoại thành và trên toàn bộ mẫu.
Khi xét về độ cứng của lông bàn chải, tỷ lệ nhạy
cảm ngà thấp nhất ở nhóm sử dụng bàn chải
lông mềm, khác biệt có ý nghĩa thống kê ở ngoại
thành và trên toàn bộ mẫu.
Yoshikazu và cộng sự thực hiện khám lâm
sàng tình trạng tụt nướu, mòn cổ răng, nhạy cảm
ngà và phỏng vấn thói quen hàng ngày của 104
đối tượng nghiên cứu người Nhật. Kết quả ghi
nhận, không thấy sự khác biệt về tỷ lệ nhạy cảm
ngà khi xét trong mối liên quan với thói quen
hút thuốc và sử dụng thực phẩm có tính a-xít.
Tuy nhiên, các tác giả này cũng ghi nhận có thể
có mối liên quan giữa tình trạng kiểm soát mảng
bám tốt ở các đối tượng chải răng 2-4 lần/ngày
bằng bàn chải lông mềm và tình trạng nhạy cảm
ngà răng(8).
Đối với thói quen thay bàn chải, nhóm đối
tượng có thói quen thay bàn chải trong vòng 3
tháng có tỷ lệ nhạy cảm ngà thấp nhất, nhóm có
thời gian thay bàn chải trên 6 tháng có tỷ lệ nhạy
cảm ngà cao nhất, kết quả ghi nhận tương tự ở
cả nội thành, ngoại thành, và khi xét trên toàn bộ
mẫu nghiên cứu. Trên thực tế, việc thay bàn chải
đúng thời hạn cũng là một yếu tố có ý nghĩa, liên
quan đến việc đổi hướng các nhóm lông bàn chải
và mòn đầu lông bàn chải, cũng như mức độ
sạch của bàn chải. Tuy nhiên, nghiên cứu không
ghi nhận khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Khi đánh giá trên các nhóm đối tượng có
và không có thói quen dùng tăm làm sạch vùng
kẽ răng, kết quả ghi nhận tỷ lệ nhạy cảm ngà ở
nhóm có thói quen dùng tăm luôn luôn cao
hơn so với nhóm không dung tăm, khác biệt
có ý nghĩa thống kê ghi nhận được ở nội thành
và khi xét trên toàn bộ mẫu nghiên cứu. Kết
quả này cũng có ý nghĩa thực tiễn đối với việc
tuyên truyền phương pháp làm sạch vùng kẽ
răng tránh gây sang chấn, bảo vệ mô nha chu
và mô răng.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu khảo sát trên 871 người trưởng
thành tại nội thành và ngoại thành thành phố Hồ
Chí Minh, từ tháng 6 năm 2013 đến tháng 6 năm
2014. Kết quả nghiên cứu cho thấy thói quen vệ
sinh răng miệng có ảnh hưởng đến tình trạng
nhạy cảm ngà răng:
- Tỷ lệ nhạy cảm ngà cao ở nhóm chải răng
theo chiều ngang, c