Đặt vấn đề: Sỏi đường mật là bệnh phổ biến và việc điều trị hiện nay vẫn còn phức tạp, tỉ lệ sót sỏi còn cao.
Lấy sỏi bằng rọ kết hợp tán sỏi điện thủy lực (TSĐTL) qua đường hầm ống Kehr có nhiều ưu thế cho những
trường hợp (TH) sót sỏi trong gan cũng như sỏi sót ngoài gan.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ sạch sỏi của phương pháp điều trị sỏi sót đường mật trong gan qua đường hầm ống
Kehr.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả hàng loạt trường hợp.
Kết quả: Lấy sỏi sót đường mật trong gan bằng rọ qua đường hầm ống Kehr kết hợp với TSĐTL tỉ lệ thành
công cao: tỉ lệ sạch sỏi là 78,3%, trung bình số lần lấy sỏi là 2 dao động từ 1 đến 7 lần, thời gian tán sỏi trung
bình là 30 phút. Lấy sỏi sót đường mật bằng rọ qua đường hầm ống Kehr kết hợp TSĐTL dưới hướng dẫn của
nội soi là thủ thuật nhẹ nhàng, tỉ lệ tai biến thấp 8,7%, không cần xử trí đặc hiệu. Những rối loạn lâm sàng sau
thủ thuật chủ yếu là buồn nôn hoặc nôn, đau bụng, sốt lạnh run.
Kết luận: Lấy sỏi sót đường mật trong gan bằng rọ qua đường hầm ống Kehr kết hợp với TSĐTL tỉ lệ
thành công cao.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 215 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỉ lệ sạch sỏi của phương pháp điều trị sỏi sót đường mật trong gan qua đường hầm ống Kehr, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 59
TỈ LỆ SẠCH SỎI CỦA PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ SỎI SÓT
ĐƯỜNG MẬT TRONG GAN QUA ĐƯỜNG HẦM ỐNG KEHR
Trần Hoàng Ân*, Tạ Văn Trầm*, Phạm Hữu Thiện Chí **
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Sỏi đường mật là bệnh phổ biến và việc điều trị hiện nay vẫn còn phức tạp, tỉ lệ sót sỏi còn cao.
Lấy sỏi bằng rọ kết hợp tán sỏi điện thủy lực (TSĐTL) qua đường hầm ống Kehr có nhiều ưu thế cho những
trường hợp (TH) sót sỏi trong gan cũng như sỏi sót ngoài gan.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ sạch sỏi của phương pháp điều trị sỏi sót đường mật trong gan qua đường hầm ống
Kehr.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả hàng loạt trường hợp.
Kết quả: Lấy sỏi sót đường mật trong gan bằng rọ qua đường hầm ống Kehr kết hợp với TSĐTL tỉ lệ thành
công cao: tỉ lệ sạch sỏi là 78,3%, trung bình số lần lấy sỏi là 2 dao động từ 1 đến 7 lần, thời gian tán sỏi trung
bình là 30 phút. Lấy sỏi sót đường mật bằng rọ qua đường hầm ống Kehr kết hợp TSĐTL dưới hướng dẫn của
nội soi là thủ thuật nhẹ nhàng, tỉ lệ tai biến thấp 8,7%, không cần xử trí đặc hiệu. Những rối loạn lâm sàng sau
thủ thuật chủ yếu là buồn nôn hoặc nôn, đau bụng, sốt lạnh run.
Kết luận: Lấy sỏi sót đường mật trong gan bằng rọ qua đường hầm ống Kehr kết hợp với TSĐTL tỉ lệ
thành công cao.
Từ khóa: Sỏi đường mật, sỏi sót đường mật.
ABSTRACT
THE STONE CLEARANCE RATIO OF TREATING EXCESS INTRAHEPATIC BILIARY STONE
THROUGH THE KEHR’S TUBE TUNNEL
Tran Hoang An, Ta Van Tram, Pham Huu Thien Chí
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 60 ‐ 66
Background: Cholelithiasis is a common disease and the treatment of this disease today is still complicated.
The ratio of excess biliary stone is still high. Removing the stones by Dormia basket combined with
electrohydraulic lithotripsy through the Kehr’s tube tunnel has many advantages for patients with excess
intrahepatic as well as extrahepatic biliary stone.
Objective: The purpose of this study is an effort to specify the stone clearance ratio of treating excess
intrahepatic biliary stone through the Kehr’s tube tunnel.
Materials and methods: The case series descriptive study.
Results: The removal of excess intrahepatic biliary stone by Dormia basket combined with electrohydraulic
lithotripsy through the Kehr’s tube tunnel was highly successful. The stone clearance ratio is 78,3%, the average
times of stone removal is 2, fluctuates from 1 to 7 times, the average time of lithotripsy is 30 minutes. Removing
excess biliary stone by Dormia baskets combined with electro hydraulic lithotripsy through the Kehr’s tube tunnel
under endoscopic guide is an easy skill. The complication ratio is low and there’s no need for specific treatment.
The clinical disorders after the intervention are not serious, mainly nausea or vomiting, stomachache and chill
fever.
* Bệnh viện Đa Khoa Tiền Giang ** Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: Ths.Bs Trần Hoàng Ân ĐT: 0913662378 Email: bshoangan78@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 60
Conclusions: The removal of excess intrahepatic biliary stone by Dormia basket combined with
electrohydraulic lithotripsy through the Kehr’s tube tunnel is a high success.
Keywords: cholelithiasis, Dormia baskets, electrohydraulic lithotripsy.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sỏi đường mật là bệnh phổ biến, gặp nhiều ở
các nước đang phát triển cũng như các nước
phát triển. Tỉ lệ mắc bệnh trong dân số khác
nhau giữa các vùng và các quốc gia: ở Mỹ là
10%, các nước Châu Phi là 5%. Hiện tại chưa có
công trình nghiên cứu về tỉ lệ mắc bệnh trong
dân số tại Việt Nam. Tuy nhiên theo thống kê
của một số bệnh viện lớn cho thấy hàng năm số
bệnh nhân (BN) nhập viện điều trị sỏi mật khá
cao. Ở miền Nam, theo thống kê của Bệnh viện
Chợ Rẫy, tỉ lệ nhập viện điều trị do sỏi đường
mật đứng hàng thứ 9 trong các bệnh nhập viện
và đứng hàng thứ 5 trong các bệnh mổ ở khoa
Ngoại Tổng quát(4,13). Tại miền Bắc, theo thống
kê của Bệnh viện Việt Đức, sỏi đường mật đứng
hàng thứ 3 trong các trường hợp mổ cấp cứu
bụng(16). Hàng năm mỗi bệnh viện có khoảng 50
đến 500 TH sỏi đường mật nhập viện điều trị(14).
Hiện nay, vấn đề điều trị sỏi đường mật vẫn
còn phức tạp, tỉ lệ sót sỏi còn cao 8‐27% đối với
sỏi đường mật nói chung, 46‐67% đối với sỏi
trong gan(3,10,12,20,21). Trước khi có ống soi mềm,
việc điều trị sỏi sót chủ yếu là mổ. Điều này gây
khó khăn cho BN cũng như phẫu thuật viên vì
vùng dưới gan dính nhiều sau mổ, làm biến đổi
cấu trúc giải phẫu. Ngày nay người ta áp dụng
các phương pháp điều trị ít xâm lấn cho sỏi sót
đường mật sau phẫu thuật. Nội soi mật tụy
ngược dòng có ưu thế trong các TH lấy sỏi sót ở
ống mật chủ, khi BN không còn hoặc không đặt
ống dẫn lưu Kehr khi mổ. Lấy sỏi bằng rọ kết
hợp TSĐTL qua đường hầm ống Kehr có nhiều
ưu thế cho những TH sót sỏi trong gan cũng
như sỏi sót ngoài gan.
Ở Việt Nam có nhiều đề tài nghiên cứu về
điều trị sỏi sót bằng rọ có kết hợp TSĐTL qua
đường hầm ống Kehr tại các bệnh viện lớn: Chợ
Rẫy, Trưng Vương, Bình Dân, Đại học Y Dược
thành phố Hồ Chí Minh. Các nghiên cứu cho
thấy phương pháp nội soi lấy sỏi qua đường
hầm ống Kehr kết hợp TSĐTL tương đối nhẹ
nhàng, ít tai biến và biến chứng, cho kết quả
sạch sỏi cao từ 76,7% đến 85,5%(11,18,19).
Mục tiêu
Xác định tỉ lệ sạch sỏi của phương pháp điều
trị sỏi sót đường mật trong gan qua đường hầm
ống Kehr.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Tất cả BN nhập viện được chẩn đoán sót sỏi
trong gan, còn lưu ống Kehr và có chỉ định lấy
sỏi qua đường hầm ống Kehr tại khoa Ngoại
Gan‐Mật‐Tụy Bệnh viện Chợ Rẫy từ 01/11/2011
đến 31/05/2012.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Được chẩn đoán sót sỏi trong gan, có đặt
ống dẫn lưu Kehr, ống dẫn lưu Kehr được đặt ít
nhất 3 tuần để đường hầm đủ vững chắc, chức
năng đông cầm máu không bị rối loạn, BN đồng
ý làm thủ thuật.
Tiêu chuẩn loại trừ
Hẹp đường mật cần phải nong, đường mật
bị gập góc nên ống soi không vào được đường
mật ngay lần soi đầu tiên, ngưng thủ thuật do
bệnh lý nội khoa đi kèm, BN từ chối làm thủ
thuật.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả hàng loạt
trường hợp.
Xử lý số liệu
Số liệu được nhập và xử lý trên Excel 2010,
phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 18.0.
KẾT QUẢ
69 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu.
Đặc điểm bệnh nhân
Tuổi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 61
Tuổi của BN là biến liên tục và có phân phối
chuẩn. BN trẻ nhất là 18 tuổi, lớn nhất 82 tuổi,
tuổi trung bình 51,23 ± 15,91. Tuổi thường gặp
từ 30 – 69, chiếm tỉ lệ 76,8%.
Giới tính
Tỉ lệ nữ/nam là 1,56 gồm 42 nữ (60,9%) và 27
nam (39,1%). Độ tuổi dưới 50 số BN nữ gấp 1,36
lần nam (19:14). Độ tuổi từ 50 trở lên số BN nữ
gấp 1,77 lần nam (23:13). Tỉ lệ nam nữ ở hai độ
tuổi khác biệt không có ý nghĩa thống kê (phép
kiểm χ2, p = 0,772 > 0,05).
Đặc điểm lâm sàng
Bảng 1: Tình trạng lâm sàng lúc nhập viện
Tình trạng nhập viện Số BN Tỉ lệ (%)
Theo hẹn 64 92,8
Có triệu chứng viêm đường mật 5 7,2
Bệnh kèm theo
Tăng huyết áp 6 8,7
Đái tháo đường 1 1,4
Tiền căn phẫu thuật
1 lần 50 72,5
2 lần 12 17,4
3 lần 3 4,3
4 lần 4 5,8
Xét nghiệm huyết học và hóa sinh
Bảng 2: Bảng kết quả quả cận lâm sàng
Xét nghiệm Số BN Tỉ lệ (%)
Bạch cầu/mm3
< 4000 2 2,9
4000 – 11000 60 87
> 11000 7 10,1
Bạch cầu đa nhân
trung tính
< 70% 58 84,1
≥ 70% 11 15,9
SGOT
≤ 48 37 53,6
> 48 32 46,4
SGPT
≤ 49 35 50,7
> 49 34 49,3
Đặc điểm thương tổn
Vị trí sỏi
Phân bố sỏi theo hạ phân thùy
Chúng tôi ghi nhận tần suất hiện diện sỏi ở
các HPT giảm dần theo thứ tự: II, VIII, VI, VII,
III, V. Các HPT I và HPT IV trong nghiên cứu
này không thấy sự hiện diện của sỏi. Tần suất
hiện diện sỏi của OGT nhiều hơn OGP.
Bảng 3: Phân bố sỏi theo hạ phân thùy
Hạ phân thùy Tần suất Tỉ lệ
II 36 22,0
VIII 35 21,3
VI 28 17,1
VII 23 14,0
III 22 13,4
V 20 12,2
Tổng 164 100
Phân bố sỏi trong và ngoài gan
Bảng 4: Phân bố sỏi trong và ngoài gan
Vị trí sỏi Tần suất Tỉ lệ (%)
Sỏi gan phải đơn thuần 21 30,5
Sỏi gan trái đơn thuần 20 29,0
Sỏi gan 2 bên 15 21,7
Sỏi gan phải + sỏi ngoài gan 3 4,3
Sỏi gan trái + sỏi ngoài gan 2 2,9
Sỏi gan 2 bên + sỏi ngoài gan 8 11,6
Tổng 69 100
Số lượng sỏi
Bảng 5: Phân bố số lượng sỏi theo nhóm
Số lượng sỏi Số BN Tỉ lệ (%)
< 10 33 47,8
10 – 19 12 17,4
20 – 29 6 8,7
30 – 40 13 18,8
> 40 5 7,3
Tổng 69 100
Tình trạng dịch mật
Bảng 6: Tình trạng dịnh mật
Tình trạng dịch mật Số BN Tỉ lệ (%)
Trong 59 85,5
Đục 7 10,1
Có mủ 3 4,4
Tổng 69 100
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ
Số lần thủ thuật
Bảng 7: Số lần thủ thuật
Số lần
làm thủ
thuật
Lấy sỏi bằng rọ Tán sỏi Chung
Số TH Tỉ lệ (%) Số TH Tỉ lệ (%) Số TH Tỉ lệ (%)
1 9 23,1 16 53,3 25 36,2
2 7 17,9 6 20,0 13 18,8
3 8 20,5 7 23,3 15 21,7
4 5 12,8 0 0,0 5 7,3
5 4 10,3 1 3,4 5 7,3
6 2 5,1 0 0,0 2 2,9
7 4 10,3 0 0,0 4 5,8
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 62
Số lần
làm thủ
thuật
Lấy sỏi bằng rọ Tán sỏi Chung
Số TH Tỉ lệ (%) Số TH Tỉ lệ (%) Số TH Tỉ lệ (%)
Tổng 39 100 30 100 69 100
Thời gian làm thủ thuật
Bảng 8: Thời gian làm thủ thuật
Thời gian làm thủ thuật (phút) Số BN Tỉ lệ (%)
< 20 19 27,5
20 – 39 20 29
40 – 59 12 17,4
60 – 79 10 14,5
80 – 99 5 7,2
100 – 120 2 2,9
> 120 1 1,4
Tổng 69 100
Kết quả lấy sỏi
Bảng 9: Kết quả lấy sỏi
Kết quả Số BN Tỉ lệ (%)
Sạch sỏi trên nội soi và X quang 54 78,3
Còn sỏi trên nội soi hoặc X quang 15 21,7
Tổng 69 100
Bảng 10: Lý do còn sỏi
Lý do còn sỏi Số BN Tỉ lệ (%)
Sỏi trong nhánh nhỏ,
ống soi không vào được 8 11,6
Tụt ống dẫn lưu 4 5,8
Không soi được vào đường mật
sau rút ống dẫn lưu 3 4,3
BÀN LUẬN
Đặc điểm dân số nghiên cứu
Tuổi
Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi, BN
sót sỏi đường mật có thể gặp ở người trẻ tuổi
cũng như người cao tuổi. Tuổi trẻ nhất là 18 và
cao tuổi nhất là 82. Tuổi trung bình 51,23 ± 15,91.
Độ tuổi thường gặp là 30 đến 69, chiếm tỉ lệ
76,8%. Tuổi thường gặp trong nghiên cứu của
chúng tôi cũng tương tự tác giả Đặng Tâm, tuổi
thường gặp từ 20 đến 79.
Giới tính
Số BN nữ trong nghiên cứu của chúng tôi
nhiều hơn BN nam. Tỉ lệ nữ/nam là 1,56. Những
nghiên cứu về sỏi đường mật trong nước cũng
ghi nhận tỉ lệ nữ cao hơn nam. Tác giả Đỗ Trọng
Hải ghi nhận số BN nữ gấp 2 lần số BN nam(4),
theo ghi nhận của Đặng Tâm thì tỉ lệ nữ/nam là
1,5(6). Riêng tác giả Lê Quan Anh Tuấn, số BN nữ
lại ít hơn so với BN nam, tỉ lệ nữ/nam là 3/7(11).
Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng
Đa số BN nhập viện không có triệu chứng
viêm đường mật chiếm tỉ lệ 92,8%. Chỉ có 7,2%
BN nhập viện có biểu hiện lâm sàng của viêm
đường mật. Biểu hiện thường gặp là đau hạ
sườn phải và sốt, không gặp TH nào vàng da
vàng mắt kèm theo. Chứng tỏ đa số BN phục
hồi sau cuộc phẫu thuật do phần lớn sỏi gây tắc
nghẽn đã được lấy đi. Tỉ lệ BN nhập viện còn
triệu chứng ở các nghiên cứu trong nước cũng
cho kết quả tương tự. Tỉ lệ viêm đường mật của
Trịnh Tấn Lập cao hơn so với kết quả của chúng
tôi. Có 10% BN có tình trạng viêm đường mật
khi nhập viện(18). Trong khi đó ghi nhận trong
nghiên cứu của Đặng Tâm thấp hơn chúng tôi,
chỉ có 3,7% BN nhập viện có biểu hiện viêm
đường mật(6). Sự khác nhau này có lẽ do tiêu
chuẩn chẩn đoán viêm đường mật khác nhau
giữa các tác giả. Những BN trong nghiên cứu
của chúng tôi được chẩn đoán viêm đường mật
khi có ít nhất 2 trong 3 triệu chứng sau: (1) đau
hạ sườn phải, (2) sốt, (3) vàng da, vàng mắt.
Tiền căn phẫu thuật
Số BN mổ lần đầu trong nghiên cứu của
chúng tôi chiếm tỉ lệ cao nhất (72,5%). Số còn
lại được phẫu thuật từ lần 02 đến lần 04 chiếm
tỉ lệ 27,5%, BN mổ lần 04 chiếm tỉ lệ 4,3%. BN
mổ lần đầu của các tác giả khác cũng chiếm tỉ
lệ cao hơn so với số BN mổ lần 2 trở đi(6,18). Số
BN có bệnh lý tim mạch, tiểu đường kèm theo
chiếm tỉ lệ là 10,1%. Nhưng tất cả đều được
kiểm soát tốt, không có TH nào làm gián đoạn
thủ thuật do bệnh lý đi kèm. Kết quả xét
nghiệm cũng cho thấy chỉ có 10,1% BN có bạch
cầu tăng cao trên 11000/mm3 và 15,9% có bạch
cầu đa nhân trung tính tăng trên 70%.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 63
Vị trí và số lượng sỏi
Phân bố sỏi trong gan
Đặc điểm của sỏi mật ở Việt Nam có chiếm
tỉ lệ rất cao. Từ 31,2% trong nghiên cứu của Lê
Văn Cường(9) cho đến 55,3% trong nghiên cứu
của Đỗ Kim Sơn(5), do đó kéo theo tỉ lệ sót sỏi
trong gan cũng cao. Tỉ lệ sót sỏi trong gan từ
45,7% đến 67,4%(4,15,21). Trong nghiên cứu của
chúng tôi, tần suất hiện diện sỏi ở các HPT
được sắp xếp theo thứ tự từ cao đến thấp dần
là: II, VIII, VI, VII và III. Kết quả nghiên cứu
của chúng tôi có sự khác biệt so với kết quả
của Đặng Tâm năm 2004, tần suất sỏi giảm
dần lần lượt từ HPT II, VI, III, VII và VIII(6).
Phân bố sỏi trong và ngoài gan
Tần suất hiện diện sỏi ở gan phải là 34,8%, ở
gan trái là 31,9%, cả hai bên gan phải và gan trái
là 33,3%. Tỉ lệ hiện diện sỏi ngoài gan tương đối
thấp chỉ 18,8%. Nhìn chung tần suất hiện diện
sỏi ở gan phải và gan trái ngang nhau, có lẽ do
phẫu thuật đã lấy đi phần lớn các sỏi. Trước đây
việc điều trị chủ yếu bằng phẫu thuật mở ống
mật chủ lấy sỏi, khó có thể lấy hết sỏi trong gan.
Ngày nay, mặc dù phương tiện chẩn đoán hình
ảnh rất phát triển, việc xác định sỏi trong gan dễ
dàng hơn nhưng tỉ lệ sót sỏi vẫn cao nếu như
không có phương tiện soi đường mật trong mổ.
Tỉ lệ sót sỏi trong gan là 46 ‐ 67%(4,15,21), cũng
chính sỏi trong gan là nguyên nhân khiến BN
phải chịu nhiều lần phẫu thuật. Việc phẫu thuật
lại gặp nhiều khó khăn do biến đổi giải phẫu
vùng dưới gan. Mức độ khó khăn và tai biến
cũng tăng lên theo số lần đã phẫu thuật trước
đó. Nguy cơ sót sỏi của mổ lại thường cao hơn
mổ lần đầu, tỉ lệ sạch sỏi ở các TH mổ lại là
39,5%(2). Đối với những sỏi nằm sâu trong các
HPT thì việc phẫu thuật đơn thuần cũng khó lấy
hết sỏi. Nhờ có phương pháp nội soi lấy sỏi qua
đường hầm ống Kehr kết hợp TSĐTL giúp BN
không phải trải qua thêm một lần phẫu thuật
nữa.Số lượng sỏi: Đặc điểm của sỏi mật Việt
Nam rất phức tạp, tỉ lệ sỏi trong gan cao, số
lượng sỏi rất nhiều. Sỏi có thể gặp ở bất kỳ PT
hay HPT nào của gan. Có những viên sỏi có kích
thước rất to, khó có thể lấy bằng rọ đơn thuần
mà phải kết hợp với TSĐTL. Trong nghiên cứu
này, chúng tôi chỉ ghi nhận số lượng sỏi, không
ghi nhận kích thước viên sỏi vì chúng tôi không
có thước đo sỏi qua nội soi. Thông thường
những viên sỏi lớn cần phải kết hợp thêm
TSĐTL để làm vỡ sỏi. Sỏi cũng dễ bị vỡ khi kéo
bằng rọ nên cách đo sỏi khi đã kéo ra ngoài sẽ
không chính xác. Trong nghiên cứu của chúng
tôi, số lượng sỏi có phân bố rất rộng từ 1‐92 viên
với nhiều kích thước khác nhau. Trung vị số
lượng viên sỏi là 12. BN có số lượng sỏi ít hơn 10
viên chiếm 47,8%. Hơn 50% BN còn lại có số
lượng sỏi sót từ nhiều cho đến rất nhiều. Điều
này cho thấy hạn chế của phẫu thuật mở ống
mật chủ khó có thể lấy hết các sỏi nằm trong
gan, đặc biệt các sỏi nằm trong HPT. Tình trạng
dịch mật: Có 85,5% TH khi soi thấy tình trạng
dịch mật vàng trong. Điều này có thể do phẫu
thuật đã lấy đi các viên sỏi gây tắc nghẽn đường
mật. Hơn 10% còn lại có dịch mật bất thường
như: dịch mật đục có nhiều cặn sỏi và giả mạc,
có 4% TH dịch mật có mủ. Tổng số TH có dịch
mật bất thường này gần tương ứng với số TH có
bạch cầu đa nhân trung tính tăng cao (15,9%).
Những TH có dịch mật bất thường, chúng tôi
thấy đường mật dễ chảy máu khi lấy sỏi, đặc
biệt khi lấy sỏi to hoặc có kèm TSĐTL. Khi
chúng tôi lấy được các viên sỏi to ở phía hạ lưu
thì những lần soi tiếp theo đường mật trở nên
sạch hơn, dịch mật trong hơn và thành ống mật
bớt sung huyết hơn. Khi chúng tôi tiến hành
TSĐTL để làm vỡ những viên sỏi to ở phía hạ
lưu nhưng không thể lấy được do chảy máu
phải bơm rửa và ngưng thủ thuật thì những lần
soi sau đường mật cũng sạch tương tự. Chứng
tỏ đường mật thông thương sẽ cải thiện được
tình trạng viêm đường mật, và dịch mật sẽ trong
hơn.
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ
Tỉ lệ sạch sỏi
Báo cáo của các tác giả Âu Mỹ về kết quả
điều trị sỏi sót đường mật sau mổ của phương
pháp lấy sỏi qua đường hầm ống Kehr cho tỉ lệ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 64
thành công rất cao từ 92% đến 96,5%(1,7,17). Tuy
nhiên các báo cáo trong nước cho thấy tỉ lệ thành
công của phương pháp này thấp hơn nhiều so
với các tác giả nước ngoài. Trong nghiên cứu của
Đặng Tâm, trong 183 TH tán sỏi qua đường hầm
ống Kehr với tỉ lệ sạch sỏi 81,4%(6), nghiên cứu
của Lê Quan Anh Tuấn cho tỉ lệ sạch sỏi 73%(11)
và kết quả sạch sỏi của Huỳnh Dương Hữu
Hạnh là 82,1%(8). Có sự khác nhau về tỉ lệ thành
công giữa các báo cáo trong nước với các báo cáo
nước ngoài là do sự khác nhau về đặc điểm sỏi
mật. Kết quả sạch sỏi cao trong những nghiên
cứu có tỉ lệ sỏi trong gan thấp và ngược lại cho
kết quả thấp trong những nghiên cứu có tỉ lệ sỏi
trong gan cao. Đối với các tác giả Âu Mỹ tỉ lệ sỏi
trong gan thấp nhiều hơn so với các báo cáo của
tác giả trong nước. Tỉ lệ sỏi trong gan của
Hieken là 15,9%(7), Birkett là 17,5%(1). Trong khi
đó tỉ lệ sỏi trong gan thuộc nhóm tán sỏi qua
đường hầm ống Kehr của Đặng Tâm là 94%(6),
Lê Quan Anh Tuấn là 82,7%(11), Huỳnh Dương
Hữu Hạnh là 75%(8). Trong nhóm nghiên cứu
của chúng tôi, đối tượng là những BN sót sỏi
trong gan cho tỉ lệ sạch là 78,3%. Kết quả này cao
hơn so với kết quả của Trịnh Tấn Lập (2008)(18)
và của Lê Quan Anh Tuấn (2003)(11) có lẽ do một
trong những yếu tố đã được xác định là nguyên
nhân thất bại của phương pháp này là hẹp
đường mật đã bị loại bỏ trong khâu chọn bệnh
của chúng tôi. Tỉ lệ sạch sỏi ở nhóm sỏi gan phải,
gan trái và gan hai bên lần lượt là 79,2%, 81,8%,
73,9%. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống
kê (χ2 = 0,431, p = 0,806 > 0,05). Điều này cũng
được ghi nhận trong kết quả nghiên cứu của
Trịnh Tấn Lập(18). Những BN có tổng số HPT có
sỏi càng ít thì tỉ lệ sạch sỏi càng cao, ngược lại số
HPT có sỏi càng nhiều thì tỉ lệ sạch sỏi càng ít.
Trong 05 BN không có sỏi trong các HPT (chỉ có
sỏi ở ống gan, ống phân thùy) có tỉ lệ sạch sỏi là
100%. Nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê (χ2 = 9,149, p = 0,06 > 0,05).
Số lần làm thủ thuật: Tất cả có 181 lần thủ
thuật được thực hiện trên 69 BN, trung vị số lần
thủ thuật là 2, dao động từ 1 ‐7 lần. Ghi nhận
trong nghiên cứu của Lê Quan Anh Tuấn có
trung vị số lần thủ thuật là 2 lần, ít nhất là 1 lần,
nhiều nhất là 9 lần(11). Trong đó thực hiện 119 lần
trên 30 BN có kết hợp TSĐTL, trung