Trong xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập kinh tếquốc tếdiễn ra mạnh mẽ, du lịch đang
phát triển không ngừng. Đối với Việt Nam, du lịch không chỉtạo ra nguồn thu rất lớn cho
nền kinh tếquốc dân mà còn góp phần đưa bạn bè quốc tế đến với nước ta, tạo ra mối quan
hệtoàn cầu vềkinh tế, văn hoá và thúc đẩy việc quảng bá sâu rộng hình ảnh Việt Nam đến
các quốc gia trên thếgiới.
Trong bối cảnh đó, du lịch Dak Lak cũng đang có những bước khởi sắc. Với đặc điểm
địa lí của một vùng đất cao nguyên, quy tụrất nhiều các dân tộc và tài nguyên du lịch đa
dạng, Dak Lak được nhiều du khách trong và ngoài nước biết đến nhưmột điểm du lịch hấp
dẫn. Tuy nhiên, hiệu quảcủa hoạt động du lịch chưa xứng đángvới tiềm năng vốn có, môi
trường tựnhiên đang bịxuống cấp, bản sắc văn hóa của các dân tộc phần nào bịmai một.
Đó là vấn đềbức xúc đang đặt ra cho ngành du lịch địa phương. Tài nguyên du lịch của Dak
Lak là những gì, ngành du lịch của Dak Lak đang phát triển nhưthếnào, có thểphát triển
theo xu hướng bền vững hay không và chúng ta phải làm gì đểdu lịch Dak Lak phát triển
bền vững? Đềtài “Tiềm năng, thực trạng và giải pháp phát triển du lịch tỉnh Dak Lak theo
hướng bền vững” sẽtrảlời các câu hỏi đó.
94 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 3331 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiềm năng, thực trạng và giải pháp phát triển du lịch tỉnh Dak lak theo hướng bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Mai Thị Thùy Dung
TIỀM NĂNG, THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH DAK LAK THEO HƯỚNG BỀN VỮNG
Chuyên ngành: Địa lý học
Mã số: 60 31 95
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN KIM HỒNG
Thành phố Hồ Chí Minh - 2007
LỜI CẢM ƠN
Em xin được bày tỏ lòng kính trọng và cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo hướng dẫn khoa
học PGS.TS Nguyễn Kim Hồng - Phó Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ
Chí Minh đã nhiệt tình hướng dẫn em trong thời gian thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu nhà trường, phòng Khoa học Công nghệ và sau
đại học, khoa Địa lý trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện
thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Tỉnh uỷ, UBND, Sở Thương mại – Du lịch, Sở Văn hoá thông
tin, Cục thống kê, Sở Khoa học công nghệ và môi trường tỉnh Dak Lak đã cung cấp cho em
nhiều nguồn tư liệu, tài liệu hữu ích phục vụ cho đề tài.
Xin cảm ơn sự động viên, hỗ trợ rất lớn từ gia đình, bạn bè trong suốt khoá học và
quá trình thực hiện luận văn.
Xin nhận nơi em lòng biết ơn sâu sắc.
Tác giả luận văn
Mai Thị Thùy Dung
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DLBV : Du lịch bền vững
GDP : Tổng sản phẩm trong nước
IUCN : Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế
TP. HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
TP. BMT : Thành phố Buôn Ma Thuột
UBND : Uỷ ban nhân dân
UNEP : Chương trình môi trường Liên hợp quốc
UNCED : Hội nghị của Liên hợp quốc về môi trường và phát triển
UNESCO : Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá của Liên hợp quốc
WTO : Tổ chức du lịch thế giới
WTTC : Hội đồng Du lịch và Lữ hành quốc tế
WWF : Quỹ bảo tồn động vật hoang dã thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG
trang
1. Bảng biểu
Bảng 2.1. Cơ cấu GDP theo ngành của tỉnh Dak Lak 64
Bảng 2.2. Đóng góp của du lịch Dak Lak vào ngân sách nhà nước 71
Bảng 2.3. Các dự án du lịch trên địa bàn tỉnh Dak Lak 81
2. Biểu đồ
Hình 2.1. Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế tỉnh Dak Lak 65
Hình 2.2. Lượt du khách quốc tế đến Dak Lak 67
Hình 2.3. Lượt du khách trong nước đến Dak Lak 68
Hình 2.4. Tổng lượt khách đến Dak Lak 69
Hình 2.5. Tăng trưởng doanh thu của du lịch Dak Lak 70
3. Bản đồ
Bản đồ hành chính Dak Lak 29
Bản đồ du lịch Dak Lak 89
Bản đồ các tuyến du lịch Dak Lak 97
4. Hình ảnh 114
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ, du lịch đang
phát triển không ngừng. Đối với Việt Nam, du lịch không chỉ tạo ra nguồn thu rất lớn cho
nền kinh tế quốc dân mà còn góp phần đưa bạn bè quốc tế đến với nước ta, tạo ra mối quan
hệ toàn cầu về kinh tế, văn hoá và thúc đẩy việc quảng bá sâu rộng hình ảnh Việt Nam đến
các quốc gia trên thế giới.
Trong bối cảnh đó, du lịch Dak Lak cũng đang có những bước khởi sắc. Với đặc điểm
địa lí của một vùng đất cao nguyên, quy tụ rất nhiều các dân tộc và tài nguyên du lịch đa
dạng, Dak Lak được nhiều du khách trong và ngoài nước biết đến như một điểm du lịch hấp
dẫn. Tuy nhiên, hiệu quả của hoạt động du lịch chưa xứng đáng với tiềm năng vốn có, môi
trường tự nhiên đang bị xuống cấp, bản sắc văn hóa của các dân tộc phần nào bị mai một.
Đó là vấn đề bức xúc đang đặt ra cho ngành du lịch địa phương. Tài nguyên du lịch của Dak
Lak là những gì, ngành du lịch của Dak Lak đang phát triển như thế nào, có thể phát triển
theo xu hướng bền vững hay không và chúng ta phải làm gì để du lịch Dak Lak phát triển
bền vững? Đề tài “Tiềm năng, thực trạng và giải pháp phát triển du lịch tỉnh Dak Lak theo
hướng bền vững” sẽ trả lời các câu hỏi đó.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu tiềm năng, thực trạng và đề xuất các giải pháp phát triển bền vững cho
ngành du lịch đang còn non trẻ của tỉnh Dak Lak. Đây là nguồn kiến thức, thông tin tham
khảo bổ ích để ngành du lịch tỉnh Dak Lak điều chỉnh các hoạt động du lịch, nhằm thỏa mãn
nhu cầu đa dạng của du khách, mang lại hiệu quả kinh tế cao, nâng cao mức sống cộng đồng
địa phương, bảo vệ môi trường và đảm bảo sự phát triển theo hướng bền vững.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thu thập và hệ thống các thông tin về du lịch Dak Lak.
- Khảo sát, đánh giá tài nguyên du lịch và thực trạng phát triển du lịch tỉnh Dak Lak
trên quan điểm phát triển bền vững.
- Đề ra giải pháp phát triển du lịch tỉnh Dak Lak theo hướng bền vững.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu vấn đề du lịch trên địa bàn tỉnh Dak Lak trong thời gian từ năm 1996
đến năm 2005. Phân tích tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch của tỉnh Dak Lak trên
quan điểm bền vững và đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch theo hướng bền vững.
Đồng thời có tham khảo hoạt động du lịch của Thái Lan, Trung Quốc và xu hướng du lịch
bền vững của thế giới. Luận văn không nghiên cứu hết các nội dung liên quan đến phát triển
bền vững, cũng như không đi sâu vào các lĩnh vực chuyên ngành như kiến trúc, sinh học,
dân tộc học, môi trường, marketing.
5. Lịch sử nghiên cứu
5.1.Trên thế giới
Hơn 842 triệu người du lịch ra nước ngoài năm 2005, hơn 76,7 triệu việc làm được tạo
ra từ du lịch, doanh thu của du lịch chiếm 10,3 % GDP cả thế giới. Du lịch đang là hiện
tượng toàn cầu. Lợi nhuận khổng lồ thu được từ du lịch đã khiến cho nhiều tài nguyên thiên
nhiên bị khai thác quá mức, môi trường bị ô nhiễm, và nền kinh tế - xã hội của các lãnh thổ
đón khách bị ảnh hưởng một cách tiêu cực. Một chiến lược du lịch tôn trọng môi trường và
quan tâm đến khả năng đáp ứng các nhu cầu trong tương lai đang được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm.
Từ khi cụm từ “phát triển bền vững” ra đời ở Đức vào năm 1980, nhiều nghiên cứu
khoa học đã được tiến hành nhằm phân tích những tác động của du lịch đến sự phát triển
bền vững, sự cần thiết phải bảo vệ tính toàn vẹn của môi trường sinh thái trong khi khai thác
du lịch. Chuyên gia du lịch người Thuỵ Sĩ Jos Krippendorf (1975) và Jungk (1980) là những
nhà khoa học đầu tiên trên thế giới cảnh báo về những suy thoái do hoạt động du lịch gây ra
và đưa ra khái niệm về du lịch rắn (hard tourism) - loại hình du lịch ồ ạt, bằng xe hơi, gây
ảnh hưởng nhiều nhất đối với môi trường và du lịch mềm (soft toursim/gentle tourism) - loại
hình du lịch ít gây ảnh hưởng nhất đến môi trường và có chia sẻ lợi ích kinh tế với cộng
đồng địa phương [13].
Năm 1992, trong Hội nghị thượng đỉnh về Trái đất đã diễn ra Hội nghị về môi trường
và phát triển của Liên hợp quốc, 182 Chính phủ đã thông qua chương trình Nghị sự 21
nhằm đảm bảo một tương lai bền vững cho nhân loại bước vào thế kỉ XXI. Chương trình
Nghị sự đã nêu lên các vấn đề liên quan đến môi trường và phát triển, đề ra chiến lược
hướng tới các hoạt động mang tính bền vững hơn.
Về du lịch bền vững, từ những năm 1990, nhiều nghiên cứu về phát triển du lịch bền
vững đã được tiến hành. Một số loại hình du lịch mới ra đời, nhấn mạnh khía cạnh môi
trường như du lịch sinh thái, du lịch gắn với thiên nhiên, du lịch thay thế hay du lịch khám
phá nhằm tuyên truyền, nâng cao ý thức của cộng đồng về hoạt động du lịch có trách nhiệm,
đảm bảo sự phát triển bền vững.
Năm 1996, “chương trình Nghị sự 21 về du lịch: Hướng tới phát triển bền vững về môi
trường” đã được Hội đồng Lữ hành du lịch thế giới, Tổ chức du lịch thế giới và Hội đồng
Trái đất xây dựng, nhằm nhấn mạnh sự cần thiết phối hợp hành động giữa các Chính phủ, tổ
chức phi Chính phủ và ngành du lịch trong việc xây dựng chiến lược du lịch và nêu bật
những lợi ích to lớn của việc phát triển du lịch bền vững.
Các nhà Địa lý học bắt đầu quan tâm đến lĩnh vực du lịch từ những năm 30 (Mc
Murray 1930; Jones 1935; Selke 1936) và đặc biệt là sau chiến tranh thế giới thứ II. Nhiều
nhà Địa lý học người Mỹ, Anh, Canađa đã tiến hành các nghiên cứu về du lịch ở góc độ địa
lý như Gilbert (1949), Wolfe (1951), Coppock (1977). Về sau, khi du lịch ngày càng phát
triển và cụm từ du lịch bền vững được nhắc đến nhiều hơn thì những nghiên cứu của các
nhà địa lý học về du lịch cũng đã tăng lên rất nhiều, bởi khó có thể tìm thấy một khía cạnh
của du lịch mà không dính dáng đến địa lý và rất ít các ngành của địa lý mà không có ít
nhiều đóng góp cho việc nghiên cứu hiện tượng du lịch.
5.2. Việt Nam
Cùng với sự phát triển của ngành du lịch, các nghiên cứu về du lịch ở nước ta cũng
ngày một nhiều hơn. Có thể điểm qua một số công trình như: Tổ chức lãnh thổ du lịch Việt
Nam, Quy hoạch tổng thể du lịch Việt Nam 1995 - 2000, Quy hoạch tổng thể du lịch Việt
Nam đến năm 2010, Cơ sở Địa lý du lịch, Địa lý du lịch, Tổng quan du lịch, nghiên cứu cả
lý luận và thực tiễn, ở những quy mô và phạm vi khác nhau. Tất cả đều phục vụ cho du lịch
và cũng cho thấy sự quan tâm sâu sắc đến môi trường, đến khía cạnh bền vững trong du lịch
Việt Nam.
Năm 1997, Tổng cục du lịch Việt Nam kết hợp với Quỹ Hanns Seiden (Đức) tổ chức
Hội thảo về Phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam tại Huế, sau đó các hội thảo khác về du
lịch bền vững cũng được tổ chức như Hội thảo về du lịch sinh thái với phát triển bền vững ở
Việt Nam tại Hà Nội năm 1998, Hội thảo về Nâng cao nhận thức và năng lực phát triển du
lịch bền vững trong thời đại toàn cầu hoá tại Hà Nội năm 2006 thu hút nhiều nghiên cứu,
đóng góp của các nhà khoa học, các cán bộ du lịch trong và ngoài nước tham gia.
Các hội thảo và các công trình nghiên cứu đều hướng đến sự phát triển bền vững cho
ngành du lịch Việt Nam, bằng nhiều cách khác nhau. Đó là dấu hiệu tốt cho định hướng
chiến lược phát triển du lịch của nước ta trong thời gian tới. Tuy nhiên, có thể thấy rằng
ngành du lịch Việt Nam đang còn non trẻ và những đóng góp của các nhà khoa học về du
lịch bền vững vẫn đang là bước khởi đầu và du lịch bền vững chưa thực sự đi vào thực tiễn
ở nhiều địa phương.
Du lịch bền vững đã được Tỉnh uỷ, UBND và Sở Thương mại - Du lịch Dak Lak đánh
giá cao, tuy vậy, tỉnh hiện chưa có nghiên cứu nào về du lịch bền vững. Vì vậy, luận văn
này có thể là sự đóng góp đầu tiên cho du lịch bền vững của tỉnh Dak Lak.
6. Các quan điểm và phương pháp nghiên cứu
6.1. Các quan điểm
6.1.1. Quan điểm hệ thống tổng hợp
Hệ thống lãnh thổ du lịch là một hệ thống mở, gồm các thành phần tự nhiên, kinh tế,
xã hội, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và chịu sự chi phối của nhiều quy luật cơ bản.
Nghiên cứu du lịch không thể tách rời hệ thống kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước.
Quan điểm hệ thống giúp chúng ta có cái nhìn tổng thể, khái quát của toàn bộ hệ thống du
lịch trong khi vẫn bao quát được hoạt động của mỗi phân hệ trong hệ thống đó. Du lịch Dak
Lak cần được nghiên cứu trong mối quan hệ tương hỗ: kinh tế - xã hội - môi trường không
chỉ riêng Dak Lak mà của cả nước. Quan điểm này được áp dụng trong suốt quá trình thực
hiện luận văn.
6.1.2. Quan điểm lịch sử, viễn cảnh
Mọi sự vật, hiện tượng đều có quá trình phát sinh, vận động và biến đổi. Quá trình ấy
có thể bắt đầu từ trong quá khứ, hiện tại vẫn tiếp diễn và kéo dài đến tương lai. Đứng trên
quan điểm lịch sử, phân tích nguồn gốc phát sinh, đánh giá đúng đắn hiện tại sẽ là cơ sở để
đưa ra các dự báo xác thực về xu hướng phát triển trong thời gian sắp tới. Quan điểm này
được vận dụng trong khi phân tích các giai đoạn chủ yếu của quá trình phát triển hệ thống
du lịch và dự báo xu hướng phát triển của hệ thống lãnh thổ.
6.1.3. Quan điểm lãnh thổ
Lãnh thổ du lịch được tổ chức như là một hệ thống liên kết không gian của các đối
tượng du lịch trên cơ sở các nguồn tài nguyên và dịch vụ cho du lịch. Việc nghiên cứu du
lịch bền vững của tỉnh Dak Lak không thể tách rời với hiện trạng và xu hướng du lịch của
Việt Nam. Quá trình phát triển du lịch bền vững của tỉnh Dak Lak là một phần trong quá
trình phát triển du lịch bền vững của Tây Nguyên và của cả nước.
6.1.4. Quan điểm sinh thái
Phát triển du lịch phải gắn liền với bảo vệ môi trường sinh thái. Quan điểm sinh thái
cho thấy sự cần thiết phải bảo vệ tính toàn vẹn của hệ sinh thái, đánh giá tác động của du
lịch đến môi trường và khả năng chịu đựng của môi trường trước sự phát triển của kinh tế
nói chung, du lịch nói riêng.
6.1.5. Quan điểm du lịch bền vững
Mục tiêu của du lịch bền vững là bảo vệ tài nguyên và môi trường, tăng cường bảo tồn
và chia sẻ lợi ích cho cộng đồng, đảm bảo sự phát triển kinh tế một cách bền vững. Kết hợp
hài hoà nhu cầu của hiện tại và tương lai trên cả hai góc độ sản xuất và tiêu dùng du lịch
nhằm đạt đến sự cân bằng giữa các yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường. Luận văn quán triệt
quan điểm này trong suốt quá trình đánh giá tiềm năng, phân tích hiện trạng và đề xuất giải
pháp.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
6.2.1. Thu thập, xử lí thông tin
Thu thập những tài liệu có liên quan ở các nguồn tin cậy, sắp xếp và xử lí tài liệu một
cách có hệ thống, phân tích từng nội dung đưa ra những kết luận đúng đắn nhất.
6.2.2. Phân tích, tổng hợp, so sánh
Thông tin, số liệu sau khi thu thập sẽ được so sánh, phân tích, tổng hợp cho phù hợp
với mục đích của từng phần. Quá trình tổng hợp sẽ có được cái nhìn bao quát về du lịch Dak
Lak. Qua phân tích, các thông tin được chắt lọc với độ tin cậy và mang lại hiệu quả cao
nhất.
6.2.3. Thực địa
Đây là phương pháp không thể thiếu nhằm tích luỹ tài liệu thực tế về sự hình thành,
phát triển và đặc điểm của tổ chức lãnh thổ du lịch. Trong quá trình thực hiện luận văn,
phương pháp này rất được coi trọng vì nó phản ánh thực tiễn khách quan của đề tài mà luận
văn nghiên cứu.
6.2.4. Khai thác phần mềm hệ thống thông tin
Các thông tin, số liệu và dự báo trong luận văn được xử lý bởi phần mềm MS Word,
Excel, AutoCad, Mapinfo để thể hiện các phân tích, đánh giá, so sánh và xu hướng du lịch
của tỉnh Dak Lak.
6.2.5. Bản đồ, biểu đồ
Đây là phương pháp đặc trưng của địa lý. Sử dụng các bản đồ, biểu đồ làm tăng tính
trực quan của đề tài, không chỉ cho biết đặc điểm, phân bố, mạng lưới mà còn thể hiện một
số kết quả của công trình nghiên cứu.
6.2.6. Phương pháp thống kê
Sau khi thu thập thông tin, số liệu, tiến hành thống kê, sắp xếp chúng lại cho phù hợp
với cấu trúc của đề tài, trình tự thời gian và lập ra các bảng biểu về quá trình phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh cũng như ngành du lịch Dak Lak.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của
luận văn được trình bày qua 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về phát triển du lịch bền vững.
Chương 2. Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch tỉnh Dak Lak theo hướng bền vững.
Chương 3. Định hướng và giải pháp phát triển du lịch tỉnh Daklak theo hướng bền vững.
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN
DU LỊCH BỀN VỮNG
1.1. Quan niệm về du lịch bền vững
1.1.1. Quan niệm về du lịch
Ở mỗi thời đại, quan niệm về du lịch có sự thay đổi bắt đầu ngay từ thời kì đồ đá, khi
mà con người phải “đi” vì lí do sinh tồn trước cái đói và sự sợ hãi.
Đến thời kì cường thịnh của đế quốc La Mã, các chuyến du ngoạn bằng ngựa đã mang
mục đích tiêu khiển của tầng lớp thống trị. Khi tàu hoả ra đời vào thế kỉ XIX, nó tạo động
lực cho du lịch phát triển hơn. Rồi lần lượt đến tàu thuỷ, ô tô, máy bay, chúng ngày càng
làm cho du lịch gắn bó mật thiết với con người.
Năm 1925, Hiệp hội quốc tế các tổ chức du lịch được thành lập tại Hà Lan, đánh dấu
bước ngoặt trong việc thay đổi, phát triển các khái niệm về du lịch. Đầu tiên, du lịch được
hiểu là việc đi lại của từng cá nhân hoặc một nhóm người rời khỏi chỗ ở của mình trong
khoảng thời gian ngắn đến các vùng xung quanh để nghỉ ngơi, giải trí hay chữa bệnh.
Năm 1985, I.I.Pirogionic đưa ra khái niệm: “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư
trong thời gian rỗi liên quan tới sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường
xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận
thức – văn hoá hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn
hoá”.
Ở Việt Nam, theo luật du lịch ban hành từ tháng 6 thăm 2005 và có hiệu lực từ ngày 1
tháng 1 năm 2006: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người
ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải
trí, nghỉ dưỡng trong khoảng thời gian nhất định”.
WTO định nghĩa: “ Du lịch theo nghĩa hành động được định nghĩa là một hoạt động di
chuyển vì mục đích giải trí, tiêu khiển và tổ chức các dịch vụ xung quanh hoạt động này.
Người đi du lịch là người đi ra khỏi nơi mình cư trú một quãng đường tối thiểu là 80 km
trong khoảng thời gian hơn 24 giờ với mục đích giải trí tiêu khiển”.
Còn nhiều quan niệm khác về du lịch. Trong luận văn này, tôi sử dụng định nghĩa về du
lịch do Tổng cục du lịch Việt Nam ban hành trong luật Du lịch năm 2005.
1.1.2. Quan niệm về du lịch bền vững
Cụm từ “ phát triển bền vững” có nguồn gốc từ thực tiễn quản lí rừng ở Đức vào thế kỉ
XIX, nhưng mãi đến thập kỉ 80 của thế kỉ XX mới được phổ biến rộng rãi.
Năm 1980, IUCN cho rằng “phát triển bền vững” phải cân nhắc đến hiện tượng khai
thác đến các nguồn tài nguyên tái tạo và không tái tạo, đến các điều kiện thuận lợi cũng như
khó khăn trong việc tổ chức các kế hoạch hành động ngắn hạn và dài hạn đan xen nhau.
Đến năm 1987, Uỷ ban môi trường và phát triển thế giới WCED do bà GroHarlem
Brundtland thành lập đã công bố thuật ngữ “phát triển bền vững” trong báo cáo “ tương lai
của chúng ta” như sau: “ Phát triển bền vững được hiểu là sự phát triển có thể đáp ứng được
những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu
của các thế hệ mai sau” [5].
Theo Hội nghị thượng đỉnh về Trái đất năm 1992, được tổ chức ở Rio - de - Janeiro,
“phát triển bền vững được hình thành trong sự hoà nhập, xen cài và thoả hiệp giữa ba hệ
thống là hệ tự nhiên, hệ kinh tế và hệ xã hội”.
Ngày nay, tất cả các quốc gia đều đề cập đến “phát triển bền vững” trong quá trình
hoạch định chính sách và quản lí phát triển kinh tế, với ý muốn nhấn mạnh phương thức và
việc sử dụng có trách nhiệm các nguồn lực của sự phát triển.
Xu thế phát triển du lịch thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang đứng trước sự
bắt buộc phải sử dụng có trách nhiệm các nguồn lực của mình, đặc biệt là tài nguyên du lịch
tự nhiên và nhân văn.
Khái niệm phát triển du lịch bền vững xuất hiện khoảng 10 năm trở lại đây, trên cơ sở
cải thiện và nâng cấp khái niệm du lịch mềm (soft tourism), được nhiều quốc gia và hiệp hội
du lịch lớn trên thế giới ủng hộ. Tuy nhiên, một khái niệm “du lịch bền vững” hoàn chỉnh
được tất cả mọi người sử dụng đến nay vẫn chưa có.
Năm 1992, WTO định nghĩa: “Du lịch bền vững là việc phát triển các hoạt động du
lịch nhằm đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và người dân bản địa trong khi vẫn
quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho việc phát triển hoạt động du
lịch trong tương lai. Du lịch bền vững sẽ có kế hoạch quản lí các nguồn tài nguyên nhằm
thoả mãn các nhu cầu về kinh tế, xã hội, thẩm mĩ của con người trong khi đó vẫn duy trì
được sự toàn vẹn về văn hoá, đa dạng sinh học, sự phát triển của các hệ sinh thái và các hệ
thống hỗ trợ cho cuộc sống của con người”.
Năm 1996, WTTC đưa ra khái niệm: “Du lịch bền vững là sự đáp ứng nhu cầu hiện tại
của du khách và vùng du lịch mà vẫn đảm bảo khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ du
lịch mai sau”.
Du lịch bền vững đòi hỏi các cấp và đơn vị kinh doanh du lịch quản lí tất cả các dạng
tài nguyên du lịch theo một cách nào đó để một mặt đáp ứng được các nhu cầu kinh tế, xã
hội và thẩm mỹ, mặt khác vẫn duy trì được bản sắc văn hoá, các quá trình sinh thái cơ bản,
sự đa dạng sinh học và các hệ sinh thái đảm bảo sự sống (theo Hens L. 1998).
Đối với Việt Nam, “phát triển bền vững” được thể hiện trong chỉ thị 36/CT của Bộ
chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng ngày 25/06/1998: Mục tiêu và các qua