Tiếp cận tài chính toàn diện đang là vấn đề thu hút được sự quan tâm
của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Bài nghiên cứu
tập trung đánh giá thực trạng tiếp cận tài chính toàn diện tại các tỉnh
đồng bằng Sông Hồng trong giai đoạn 2013-2017. Dựa trên bộ chỉ
tiêu Global Findex, nghiên cứu cho thấy tiếp cận tài chính đã được
cải thiện đáng kể tại các tỉnh đồng bằng Sông Hồng. Mặc dù vậy,
mức độ tiếp cận tài chính vẫn có khoảng cách giữa các địa phương.
Phần thứ hai, nghiên cứu đánh giá thực trạng tiếp cận tài chính toàn
diện về những kết quả đạt được và một số hạn chế còn tồn tại. Trên
cơ sở đó, phần thứ ba, bài viết đưa ra một số khuyến nghị nhằm thúc
đẩy tiếp cận tài chính tại các tỉnh đồng bằng Sông Hồng.
11 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 519 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiếp cận tài chính toàn diện tại các tỉnh đồng bằng Sông Hồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
18
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 202- Tháng 3. 2019
Tiếp cận tài chính toàn diện tại các tỉnh
đồng bằng Sông Hồng
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ
Phạm Thị Hoàng Anh
Trần Thị Thắng
Ngày nhận: 12/02/2019 Ngày nhận bản sửa: 02/03/2019 Ngày duyệt đăng: 25/03/2019
Tiếp cận tài chính toàn diện đang là vấn đề thu hút được sự quan tâm
của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Bài nghiên cứu
tập trung đánh giá thực trạng tiếp cận tài chính toàn diện tại các tỉnh
đồng bằng Sông Hồng trong giai đoạn 2013-2017. Dựa trên bộ chỉ
tiêu Global Findex, nghiên cứu cho thấy tiếp cận tài chính đã được
cải thiện đáng kể tại các tỉnh đồng bằng Sông Hồng. Mặc dù vậy,
mức độ tiếp cận tài chính vẫn có khoảng cách giữa các địa phương.
Phần thứ hai, nghiên cứu đánh giá thực trạng tiếp cận tài chính toàn
diện về những kết quả đạt được và một số hạn chế còn tồn tại. Trên
cơ sở đó, phần thứ ba, bài viết đưa ra một số khuyến nghị nhằm thúc
đẩy tiếp cận tài chính tại các tỉnh đồng bằng Sông Hồng.
Từ khóa: Tiếp cận tài chính toàn diện, ngân hàng, đồng bằng Sông Hồng
1. Mở đầu
ài chính toàn
diện, tiếp cận
tài chính hay
tiếp cận tài
chính toàn diện
(TCTC) đều là cách dịch khác
nhau của thuật ngữ Financial
Inclusion. TCTC là việc mọi
người dân và doanh nghiệp
được tiếp cận và sử dụng các
sản phẩm và dịch vụ tài chính
một cách thuận tiện, phù hợp
nhu cầu với chi phí hợp lý
do các tổ chức tài chính cung
cấp một cách có trách nhiệm
và bền vững, trong đó chú
trọng đến nhóm người nghèo,
người thu nhập thấp, người
yếu thế, doanh nghiệp nhỏ và
vừa, doanh nghiệp siêu nhỏ
(SMEs).
Trong những năm gần đây, quá
trình triển khai tài chính toàn
diện trên thế giới đã thu được
những kết quả tích cực, giúp
người dân và doanh nghiệp
được tiếp cận với dịch vụ tài
chính tốt hơn, thu hẹp khoảng
cách giữa nông thôn và thành
thị, đầu tư và mở rộng cơ sở
hạ tầng tài chính, cải thiện các
chỉ số về tăng trưởng, phát
triển và giảm nghèo, sử dụng
hiệu quả nguồn lực xã hội.
Tuy nhiên, tính đến năm 2017
trên thế giới vẫn còn khoảng
hơn 1,7 tỷ người trưởng thành
chưa có cơ hội tiếp cận với các
dịch vụ tài chính chính thức
(CGAP, 2018), trong đó các
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
19Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 202- Tháng 3. 2019
nhóm bị loại trừ chủ yếu là
phụ nữ, người nghèo ở nông
thôn và các cộng đồng ở xa
hoặc khó tiếp cận, cũng như
các doanh nghiệp nhỏ và phi
chính thức bị ảnh hưởng nhiều
nhất.
Việt Nam là nước có nền kinh
tế đang phát triển, việc đẩy
mạnh tiếp cận tài chính toàn
diện là yêu cầu cấp bách cần
thực hiện để đảm bảo phát
triển một cách công bằng và
bền vững. Nhất là đối với
người nghèo, người có thu
nhập thấp, họ là những nhóm
đối tượng khó có thể tiếp cận
tài chính, nhưng lại là nhóm
khách hàng tiềm năng, là
cơ hội mở rộng lĩnh vực tài
chính. Với dân số hơn 90 triệu
người nhưng có đến 42,2%
người trưởng thành của Việt
Nam không có tài khoản tại
một tổ chức tài chính chính
thức vào năm 2016 (NHNN,
2018) và 60% SMEs chưa tiếp
cận được vốn vay ngân hàng
(Chung Thủy, 2018). Tuy
nhiên, rõ ràng, việc tiếp cận
dịch vụ tài chính ngân hàng
hiện vẫn còn một số hạn chế
ở vùng nông thôn, vùng sâu,
vùng xa.
Đồng bằng Sông Hồng bao
gồm 11 tỉnh, được coi là
một trong những vùng kinh
tế trọng điểm, có trình độ
phát triển nhanh nhất cả
nước nhưng trong vùng vẫn
còn nhiều người chưa được
tiếp cận với sản phẩm dịch
vụ ngân hàng, đa phần trong
số đó là người dân sống ở
nông thôn, vùng sâu, vùng
xa, phụ nữ nghèo, người có
thu nhập thấp. Do đó, bài viết
nghiên cứu thực trạng tiếp
cận tài chính tại các tỉnh đồng
bằng Sông Hồng để tìm hiểu
những kết quả đã đạt được,
những hạn chế còn tồn tại
và nguyên nhân của hạn chế,
trên cơ sở đó đề xuất một số
khuyến nghị nhằm thúc đẩy
tiếp cận tài chính toàn diện
các tỉnh đồng bằng Sông
Hồng.
2. Thực trạng tiếp cận tài
chính toàn diện tại các tỉnh
đồng bằng Sông Hồng
TCTC là một khái niệm đa
chiều, không thể tự mình
nắm bắt chính xác bằng các
chỉ số duy nhất mà được xác
định bởi một bộ chỉ số. Chỉ
số TCTC là thước đo tính tiếp
cận ngành tài chính của một
quốc gia, được xây dựng như
một chỉ số đa chiều, nắm bắt
thông tin về các khía cạnh
khác nhau của sự TCTC, như
thâm nhập ngân hàng, sự sẵn
có của các dịch vụ ngân hàng
và sử dụng hệ thống ngân
hàng. Nếu như nghiên cứu
của Honohan (2008), Sarma
(2012) sử dụng dữ liệu tổng
hợp từ phía cung để đo lường
TCTC thì bộ chỉ của Global
Findex năm 2012 sử dụng dữ
liệu về nhu cầu từ góc độ cá
nhân liên quan đến việc sử
dụng các dịch vụ tài chính để
đo lường; hoặc bộ chỉ số của
Sarma (2015) là một thước đo
thể hiện tất cả các khía cạnh
khác nhau của hệ thống tài
chính một quốc gia- sự thuận
tiện và mức độ sử dụng.
Tuy nhiên mỗi bộ chỉ số có
nội dung, ưu, nhược điểm
riêng và phạm vi áp dụng
không giống nhau. Bộ chỉ số
do Global Findex xây dựng
được coi là khá phù hợp khi
các chỉ số cốt lõi của Global
Findex tập trung vào năm
nội dung cơ bản của việc sử
dụng dịch vụ tài chính ở cấp
độ cá nhân: Tài khoản, tiết
kiệm, vay vốn, thanh toán và
bảo hiểm. Chính vì vậy, trong
bài viết này, chúng tôi sẽ sử
dụng các chỉ tiêu được đề xuất
trong bộ Global Findex để
đánh giá mức độ TCTC của
các tỉnh đồng bằng Sông Hồng
(trừ các chỉ tiêu về bảo hiểm).
2.1. Thực trạng sử dụng tài
khoản ngân hàng
2.1.1. Số lượng chi nhánh
ngân hàng tại vùng đồng bằng
Sông Hồng
Theo Ravikumar (2012), số
lượng các ngân hàng có tác
động tới lượng người có thể
tiếp cận và được sử dụng các
dịch vụ ngân hàng chính thức.
Lượng ngân hàng càng nhiều
thì mức độ bao phủ của hệ
thống ngân hàng càng lớn.
Tuy nhiên, để có thể đánh giá
chính xác hơn về mức độ bao
phủ của ngân hàng, các chỉ
tiêu thường được sử dụng là
mức độ bao phủ của chi nhánh
ngân hàng và máy ATM theo
dân số và địa lý. Việc TCTC
của người dân các tỉnh đồng
bằng Sông Hồng được đánh
giá bởi sự gia tăng nhanh về
số lượng chi nhánh ngân hàng
trong suốt thời gian từ 2013
đến năm 2017 theo 2 tiêu chí
như sau:
Về mức độ bao phủ của chi
nhánh về mặt dân số phản
ánh số lượng chi nhánh trên
100.000 người dân trưởng
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
20 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 202- Tháng 3. 2019
thành: Bảng 1 cho thấy số
lượng các chi nhánh ngân
hàng (NHTM) trên địa bàn các
tỉnh đồng bằng Sông Hồng
tăng trưởng đều trong giai
đoạn 2013- 2017, qua đó góp
phần tăng khả năng tiếp cận
tài chính của người dân đối
với các dịch vụ tài chính. Nếu
trong năm 2013 có 5,7 chi
nhánh trên 100.000 người dân
trưởng thành thì con số này
đã lên đến 6,6 chi nhánh vào
năm 2017. Trong giai đoạn
2013- 2017, người dân nói
chung và người trưởng thành
nói riêng tại các tỉnh đồng
bằng Sông Hồng đã dễ dàng
hơn trong việc tiếp cận với
các chi nhánh ngân hàng, làm
cho việc tiếp cận với các dịch
vụ ngân hàng cũng dễ dàng
và thuận tiện hơn. Cụ thể số
chi nhánh trên 100.000 người
trưởng thành của các tỉnh
đồng bằng Sông Hồng cao hơn
so với mức trung bình của cả
nước (Bảng 1). Tuy nhiên, các
chi nhánh, phòng giao dịch
của NHTM mới chỉ tập trung
tại các thành phố, chưa phát
triển ở khu vực nông thôn. Ở
các địa bàn vùng núi, vùng
sâu, vùng xa, người dân còn
rất khó khăn tiếp cận dịch vụ
ngân hàng. Số xã có đặt điểm
giao dịch của các NHTM mới
chỉ chiếm một tỷ lệ thấp (Báo
cáo của Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) chi nhánh các tỉnh).
Về mức độ bao phủ của chi
nhánh về mặt địa lý phản ánh
số lượng chi nhánh NHTM
trên mỗi 1.000 km2: Nếu trong
năm 2013 bình quân trong
vùng có 3,1 chi nhánh ngân
hàng trên 1.000 km2 thì con số
này đã lên đến 3,6 chi nhánh
ngân hàng vào năm 2017,
với mức tăng 1,17 lần so với
năm 2013. Nhưng nếu so với
cả nước thì số chi nhánh trên
1.000 km2 thì con số trung
bình của vùng thấp hơn (Bảng
1), do trong vùng có một số
tỉnh có diện tích rộng và mật
độ dân cư thưa thớt.
Nhìn chung, việc tiếp cận với
các dịch vụ ngân hàng đã trở
lên sâu rộng hơn ở tất cả các
tỉnh trong vùng do sự phân bố
chi nhánh ngân hàng đã tăng
lên, song mật độ chi nhánh
giữa các tỉnh trong vùng vẫn
chưa có sự đồng đều.
Bảng 1. Phân bổ số lượng chi nhánh ngân hàng tại các tỉnh đồng bằng Sông Hồng giai đoạn
2013- 2017
TT
Năm
Địa
Phương
2013 2014 2015 2016 2017
Số
CN/
1.000
km2
Số CN/
100.000
người
trưởng
thành
Số
CN/
1.000
km2
Số CN/
100.000
người
trưởng
thành
Số
CN/
1.000
km2
Số CN/
100.000
người
trưởng
thành
Số
CN/
1.000
km2
Số CN/
100.000
người
trưởng
thành
Số
CN/
1.000
km2
Số CN/
100.000
người
trưởng
thành
1. Bắc Ninh 3,9 5,0 4,1 5,2 4,1 5,1 4,1 5,1 4,4 5,4
2. Hà Nội 8,8 7,7 8,9 7,7 9,9 8,6 19,1 8,8 10,2 9,0
3. Hưng Yên 2,9 3,8 3,0 4,0 3,0 4,0 3,2 4,3 3,2 4,3
4. Hải Dương 1,6 2,5 1,7 2,7 1,7 2,7 1,7 2,7 1,8 2,9
5. Quảng Ninh 0,9 7,9 1,0 8,3 1,0 8,8 1,0 9,0 1,0 9,2
6. Hải Phòng 6,4 8,7 6,7 9,1 6,8 9,2 6,9 9,5 6,9 9,5
7. Vĩnh Phúc 1,9 3,8 1,9 3,8 2,0 4,0 2,2 4,3 2,3 4,6
8. Hà Nam 4,5 8,2 5,2 9,5 5,2 9,5 5,3 9,7 5,3 9,7
9. Nam Định 1,6 2,4 1,8 2,5 1,9 2,8 2,0 3,0 2,3 3,3
10. Thái Bình 1,7 2,4 1,9 2,7 1,9 2,7 2,0 2,8 2,0 2,9
11. TB ĐBSH 3,1 5,7 3,2 5,9 3,4 6,3 3,5 6,5 3,6 6,6
12. TB cả nước 7,3 3,7 8,2 3,9 8,1 3,8 8,3 3,9 8,9 4,9
Nguồn: NHNN các tỉnh và tính toán của tác giả, World Bank/ IMF
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
21Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 202- Tháng 3. 2019
2.1.2. Số lượng máy ATM và
thẻ ATM tại các tỉnh đồng
bằng Sông Hồng
Để người dân có thể tiếp cận
được dịch vụ tài chính thuận
lợi, trước tiên là họ phải có tài
khoản ở ngân hàng, bởi đây là
cửa sổ để tiếp cận các dịch vụ
tài chính khác, như tiết kiệm,
tín dụng, thanh toán và bảo
hiểm. Trong giai đoạn 2013-
2017, số lượng thẻ ngân hàng
trong vùng có sự gia tăng đáng
kể, trong đó thẻ ATM luôn
chiếm tỷ trọng chủ yếu trong
tổng lượng thẻ phát hành. Nếu
như năm 2013 số lượng thẻ
ATM là 6.828.803 thẻ, chiếm
tỷ trọng 73,2% tổng thẻ phát
hành thì con số này lên đến
12.075.445 thẻ năm 2017, với
mức tăng là 5.876.642 thẻ và
tốc độ tăng 86% so với năm
2013 (Bảng 2).
Theo Bảng 2, số lượng máy
ATM và thẻ ATM được phát
hành đều có sự tăng dần và
tương tự nhau ở các tỉnh đồng
bằng Sông Hồng qua các năm
từ 2013 đến 2017. Tuy nhiên,
số lượng máy ATM mới chỉ
được đặt chủ yếu ở các địa
điểm có sự phát triển về kinh
tế, có dân số tập trung đông,
các khu công nghiệp nơi nhiều
nhà máy, công ty sản xuất
kinh doanh. Kéo theo đó, số
lượng thẻ ATM ở các địa điểm
này cũng tăng, nhất là các
tỉnh có sự phát triển về kinh
tế như Hà Nội, Hải Phòng,
Quảng Ninh Lý do chủ yếu
làm cho lượng thẻ ATM tăng
nhanh trong giai đoạn 2013-
2017 là do hầu hết các cơ
quan Nhà nước, doanh nghiệp
trong khu công nghiệp đều trả
lương qua tài khoản làm cho
số lượng người trưởng thành
có thẻ ATM tăng lên. Ngược
lại, ở vùng nông thôn, do nhu
cầu sử dụng tài khoản và mật
độ dân số thưa nên số lượng
máy ATM, thẻ ATM ít hơn so
với thành thị.
Bên cạnh việc sử dụng chỉ
tiêu số chi nhánh ngân hàng
phân bổ theo dân số và địa
lý để đánh giá mức độ TCTC
của người dân, chúng tôi còn
quan tâm đến mức độ bao
phủ của máy ATM. Đó là số
lượng máy ATM trên 100.000
người dân và số lượng máy
ATM trên 1.000 km2 và trong
giai đoạn từ năm 2013 đến
2017, cả hai chỉ tiêu trên đều
có sự tăng trưởng nhẹ. Cụ thể
về mặt địa lý, nếu năm 2013
có 20,9 máy ATM trên 1.000
km2 thì con số này đã lên đến
25 máy vào năm 2017 (Biểu
đồ 1), tương đương với mức
độ tăng là 1,19 lần. Về mặt
dân số, nếu như năm 2013 cứ
Bảng 2.
Số lượng máy ATM và thẻ ATM tại các tỉnh đồng bằng Sông Hồng giai đoạn 2013- 2017
TT
Năm
Địa
phương
2013 2014 2015 2016 2017
SL
máy
ATM
SL
thẻ
ATM
SL
máy
ATM
SL
thẻ
ATM
SL
máy
ATM
SL
thẻ
ATM
SL
máy
ATM
SL
thẻ
ATM
SL
máy
ATM
SL
thẻ
ATM
1. Bắc Ninh 185 285.845 198 384.185 222 454.095 230 549.334 245 694.697
2. Hà Nội 2.872 3.820.405 3.055 4.338.547 3.070 5.088.731 3.098 6.154.883 3.113 6.401.078
3. Hưng Yên 111 205.022 129 239.701 145 343.576 160 441.139 177 583.322
4. Hải Dương 235 552.153 244 676.343 254 773.029 272 923.844 305 1.060.729
5. Quảng Ninh 326 428.916 375 473.952 392 521.347 400 581.302 405 649.315
6. Hải Phòng 351 413.268 380 450.304 422 815.051 448 945.459 465 1.030.550
7. Vĩnh Phúc 140 207.198 150 230.819 169 257.132 172 286.445 192 319.100
8. Hà Nam 52 179.221 65 193.961 81 242.788 95 275.748 103 294.943
9. Nam Định 122 305.030 132 359.020 151 445.202 162 511.358 182 526.479
10. Thái Bình 113 431.745 128 495.225 131 556.782 135 653.954 146 756.350
Tổng 4.507 6.828.803 4.856 7.842.057 5.037 9.497.733 5.172 11.323.466 5.333 12.316.563
Nguồn: NHNN các tỉnh và tính toán của tác giả
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
22 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 202- Tháng 3. 2019
100.000 người trưởng thành
có 36,8 máy ATM thì con số
này lên đến 44,3 máy vào năm
2017 (Biểu đồ 1). Mặc dù mật
độ máy ATM tăng lên nhưng
sự phân bố chưa đồng đều,
nhất là ở khu vực nông thôn,
vùng sâu, vùng xa.
2.2. Thực trạng tiền gửi tiết
kiệm tại ngân hàng
Trong giai đoạn 2013- 2017,
mức độ huy động tiết kiệm từ
nền kinh tế trong vùng
có sự tăng lên đáng kể,
nhưng mức độ tiền gửi
của dân cư, tổ chức
kinh tế và nguồn khác
là không đồng đều. Nếu
như năm 2013, tổng tiền
gửi tại hệ thống ngân
hàng trong vùng đạt
1.406.005 tỷ đồng thì
đến con số này đã lên
đến 3.343.688 tỷ đồng
vào năm 2017, với tốc
độ tăng đạt 37%. Trong
tất cả các nguồn huy
động thì tiền gửi của
dân cư chiếm tỷ trọng
chủ yếu, năm 2013 tổng
tiền gửi của người dân
ở mức 687.384 tỷ đồng,
chiếm tỷ trọng 48,8%
thì đến năm 2017 tiền
gửi của dân cư đã lên
đến 1.525.724 tỷ đồng,
chiếm tỷ trọng 45,6%
(Báo cáo NHNN chi
nhánh các tỉnh).
Biểu đồ 2 cho thấy giá
trị tiền gửi của dân cư
có sự tăng lên nhưng
tốc độ tăng không đều
giữa các năm, có năm
tăng xấp xỉ 30%, nhưng
có năm chỉ dừng lại ở
mức gần 16%. Điều này
cho thấy, do thu nhập
của người dân các tỉnh
đồng bằng Sông Hồng
chưa cao, chủ yếu mới
chỉ đáp ứng được nhu
cầu chi tiêu cuộc sống
hàng ngày. Ngoài ra, do thói
quen tâm lý của người dân
thích giữ tiền mặt trong nhà
hay đầu tư vào tài sản khác
và một phần do hiểu biết của
người dân về các sản phẩm
dịch vụ của ngân hàng còn
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017
Số lượng máy ATM trên 100,000 người trưởng thành
Số lượng máy ATM trên 1,000 km2
Biểu đồ 1. Số lượng máy ATM tại các tỉnh đồng bằng Sông Hồng
giai đoạn 2013- 2017
Nguồn: NHNN các tỉnh và tính toán của tác giả
Biểu đồ 2. Diễn biến tiền gửi ngân hàng của dân cư các tỉnh đồng
bằng Sông Hồng giai đoạn 2013- 2017
Nguồn: NHNN các tỉnh và tính toán của tác giả
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
23Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 202- Tháng 3. 2019
hạn chế, nhất là người sống
ở vùng nông thôn, vùng sâu,
vùng xa.
2.3. Thực trạng vay vốn tại
ngân hàng
Đối với hoạt động cung cấp
vốn vay, các ngân hàng trong
vùng chia ra thành ba lĩnh vực
chính là cho vay khu vực nông
nghiệp và nông thôn, cho vay
đối với SMEs và cho vay đối
tượng khác.
Biểu đồ 3 cho thấy giai đoạn
2013- 2017, vốn vay dành cho
khu vực nông nghiệp, nông
thôn có tăng về mặt quy mô
nhưng vẫn thấp hơn các lĩnh
vực khác, tỷ trọng vốn dành
cho nông nghiệp nông thôn
chỉ chiếm tỷ trọng từ 15% đến
16% qua các năm. Nếu như
năm 2013 vốn vay của nông
thôn ở mức 203.889 tỷ đồng,
chiếm tỷ trọng 16% thì đến
năm 2017 số vốn dành cho
nông nghiệp nông thôn lên
đến 328.888 tỷ đồng và chiếm
tỷ trọng 15%. Mặc dù vùng
nông thôn đã nhận được sự
quan tâm của các TCTD song
tỷ lệ người sống ở nông thôn
chiếm 69% (số người sống
ở nông thôn là 14.140 người
so với tổng dân số cả vùng là
20.439 người) thì số vốn vay
này vẫn thấp hơn so với nhu
cầu của người dân.
Các TCTD trên địa bàn không
chỉ dành nguồn vốn cho người
dân vùng nông nghiệp nông
thôn mà còn quan tâm đến
việc cung cấp tín dụng cho
các SMEs trong vùng. Theo
Biểu đồ 3, số vốn mà các
TCTD cho vay đối với SMEs
cao hơn vốn dành cho vùng
nông thôn và chiếm tỷ trọng
từ 29%- 30% trong các năm từ
2013 đến 2017. Nếu như năm
2013, SMEs có giá trị khoản
vay là 370.126 tỷ đồng, chiếm
tỷ trọng 29,5% tổng dư nợ của
TCTD thì đến năm 2017, con
số này đã lên đến 659.666 tỷ
đồng, chiếm tỷ trọng 30,6%
và tăng với tốc độ là 78%.
Mặc dù giá trị khoản vay của
SMEs tăng lên qua các năm
nhưng tỷ trọng hầu như không
thay đổi, điều đó chứng tỏ
SMEs vẫn gặp khó khăn trong
tiếp cận tín dụng ngân hàng,
lý do chủ yếu là các doanh
nghiệp không đáp ứng được
yêu cầu về tài sản đảm bảo và
hồ sơ vay vốn.
Nhìn chung, nguồn vốn mà
các TCTD dành cho khu vực
nông nghiệp và nông thôn,
SMEs còn giữ ở mức khiêm
tốn so với các đối tượng khác.
Năm 2013, tổng cho vay nông
nghiệp, nông thôn và SMEs
là 574.006 tỷ đồng, thấp hơn
vốn vay của các đối tượng
khác là 685.652 tỷ đồng. Đến
năm 2017 cũng tương tự như
vậy, vốn vay dành cho SMEs
và vùng nông thôn là 988.554
tỷ đồng trong khi các đối
tượng khác được vay lên đến
1.182.486 tỷ đồng. Do đó, thị
trường tín dụng nông thôn và
SMEs vẫn còn rộng mở cho
các TCTD trong vùng.
2.4. Thực trạng sử dụng dịch
vụ thanh toán
Biểu đồ 3.
Tình hình vay vốn tại các tỉnh Đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2013- 2017
Nguồn: NHNN các tỉnh và tính toán của tác giả
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
24 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 202- Tháng 3. 2019
2.4.1. Thẻ thanh toán
Trong thời gian gần đây dịch
vụ thanh toán không dùng
tiền mặt ở trong vùng ngày
càng phát triển, theo đó việc
sử dụng thẻ các loại như thẻ
ATM, thẻ tín dụng, thẻ visa,
thẻ ghi nợ để thanh toán
cũng tăng lên đáng kể. Nếu
như năm 2013 số lượng thẻ
trong vùng là 9.326.499 thẻ
thì con số này đã lên đến
17.402.048 thẻ vào năm 2017,
với mức tăng 8.075.550 thẻ và
tốc độ tăng là xấp xỉ 53% và
trung bình mỗi năm tăng nhẹ
trong khoảng từ 12% đến 17%
(Biểu đồ 4).
Mặc dù trung bình một người
có thể sở hữu từ 4 đến 5 thẻ
ngân hàng (TTXVN/TTTL,
2016) nhưng số lượng thẻ có
giao dịch chỉ chiếm hơn một
nửa số thẻ phát hành. Tuy
vậy các ngân hàng vẫn chạy
theo số lượng làm cho tỷ lệ
thẻ chết của các NHTM trong
vùng tương đối cao và gây ra
gánh nặng chi phí cho các tổ
chức phát hành. Bên cạnh đó
phần lớn lượng thẻ phát hành
tập trung ở các thành phố lớn,
nơi người dân có nhu cầu và
có thể chi trả các khoản phí
khi sử dụng thẻ.
2.4.2. Điểm thanh toán POS
Năm 2017, các tỉnh đồng
bằng Sông Hồng có 96.532
POS, tăng 74.854 máy so với
năm 2013, chứng tỏ rằng các
ngân hàng mở rộng đầu tư vào
lĩnh vực này và thu hút được
sự quan tâm của khách hàng
(Biểu đồ 5). Điều đó được thể
hiện thông qua giá trị giao
dịch qua POS trong giai đoạn
này có sự thay đổi tích cực.
Nếu như năm 2013 giá trị
giao dịch POS là 425.463 tỷ
đồng thì con số này đã tăng
lên 1.977.073 tỷ đồng vào
năm 2017, với mức tăng là
1.551.610 tỷ đồng và tốc độ
tăng là 364,6% (Biểu đồ 5).
Thực trạng này cho thấy, mức
độ sử dụng thanh toán không
dùng tiền mặt ngày càng được
người dân biết đến và sử dụng
nhiều hơn, trong đó có thanh
toán qua POS.
2.5. Các kênh phân phối
Bên cạnh kênh cung ứng dịch
vụ truyền thống, các TCTD
trong vùng đã ứng dụng công
nghệ thông tin để cung cấp
sản phẩm, dịch vụ ngân hàng
hiện