Trong nền kinh tế hiện đại, chính sách tiền tệ của chính phủ sử dụng lãi suất như một công cụ quan trọng để tác động vào nền kinh tế, kiểm soát lượng tiền cung ứng. Lãi suất là một phạm trù kinh tế, phản ánh mối quan hệ giữa người cho vay và người đi vay, phản ánh mối quan hệ giữa cung và cầu về tiền tệ, thực trạng kinh tế của một nước. Thông qua sự biến động của lãi suất, người ta có thể dự đoán nền kinh tế đang phát triển hay đang suy thoái.
Lãi suất đã và đang trở thành một chỉ số kinh tế quan trọng trên thị trường tài chính – tiền tệ.Nó là một trong những vấn đề trung tâm của nền kinh tế vì nó tác động đến chi phí đầu tư.Do đó nó là yếu tố quan trọng quyết định tổng mức đầu tư và tổng mức cầu về tiền tệ(GNP). Trên thị trường tiền tệ (TTTT), dòng lưu chuyển vốn ngắn hạn từ người này sang người khác phụ thuộc vào yếu tố lãi suất. Diễn biến của nó có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống hàng ngày của mỗi chủ thể kinh tế ,có tác động to lớn đến nền kinh tế Việt Nam và đời sống của người dân.Lãi suất không chỉ tác động tới hành vi kinh tế của người gửi tiền trên thị trường tiền gửi, của các doanh nghiệp đi vay vốn trên thị trường tín dụng, của các NHTM trên thị trường nội tệ liên ngân hàng mà còn là tín hiệu để NHTW dựa vào đó sẽ công bố các loại lãi suất chính thức bám sát lãi suất trên TTTT.Do đó,lãi suất là một trong những biến số được theo dõi chặt chẽ nhất trong nền kinh tế và diễn biến của nó được đưa tin hàng ngày trên báo chí. Trước bối cảnh như vậy, NHNN có những bước cải cách quan trọng về lãi suất,dần điều chỉnh lãi suất theo yêu cầu của thị trường, tiếp tục đổi mới hơn nữa chế độ kiểm soát lãi suất để hoàn thiện, đổi mới nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn này,em xin chọn đề tài : “ Biến động lãi suất và tác động của nó đến nền kinh tế Việt nam trong những năm gần đây “.Đề tài gồm 3 chương :
Chương 1: Những vấn đề chung về lãi suất.
Chương 2: Biến động của lãi suất và tác động của nó đến nền kinh tế Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hạn chế biến động lãi suất trong thời gian tới.
Do còn hạn chế về hiểu biết trong lĩnh vực tài chính kinh tế nên bài tiểu luận của em không thể tránh khỏi những thiếu sót.kính mong thầy cô góp ý giúp đỡ để em hoàn thành bài tiểu luận này.
19 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 5743 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Biến động lãi suất và tác động của nó đến nền kinh tế Việt nam trong những năm gần đây, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Trong nền kinh tế hiện đại, chính sách tiền tệ của chính phủ sử dụng lãi suất như một công cụ quan trọng để tác động vào nền kinh tế, kiểm soát lượng tiền cung ứng. Lãi suất là một phạm trù kinh tế, phản ánh mối quan hệ giữa người cho vay và người đi vay, phản ánh mối quan hệ giữa cung và cầu về tiền tệ, thực trạng kinh tế của một nước. Thông qua sự biến động của lãi suất, người ta có thể dự đoán nền kinh tế đang phát triển hay đang suy thoái.
Lãi suất đã và đang trở thành một chỉ số kinh tế quan trọng trên thị trường tài chính – tiền tệ.Nó là một trong những vấn đề trung tâm của nền kinh tế vì nó tác động đến chi phí đầu tư.Do đó nó là yếu tố quan trọng quyết định tổng mức đầu tư và tổng mức cầu về tiền tệ(GNP). Trên thị trường tiền tệ (TTTT), dòng lưu chuyển vốn ngắn hạn từ người này sang người khác phụ thuộc vào yếu tố lãi suất. Diễn biến của nó có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống hàng ngày của mỗi chủ thể kinh tế ,có tác động to lớn đến nền kinh tế Việt Nam và đời sống của người dân.Lãi suất không chỉ tác động tới hành vi kinh tế của người gửi tiền trên thị trường tiền gửi, của các doanh nghiệp đi vay vốn trên thị trường tín dụng, của các NHTM trên thị trường nội tệ liên ngân hàng mà còn là tín hiệu để NHTW dựa vào đó sẽ công bố các loại lãi suất chính thức bám sát lãi suất trên TTTT.Do đó,lãi suất là một trong những biến số được theo dõi chặt chẽ nhất trong nền kinh tế và diễn biến của nó được đưa tin hàng ngày trên báo chí. Trước bối cảnh như vậy, NHNN có những bước cải cách quan trọng về lãi suất,dần điều chỉnh lãi suất theo yêu cầu của thị trường, tiếp tục đổi mới hơn nữa chế độ kiểm soát lãi suất để hoàn thiện, đổi mới nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn này,em xin chọn đề tài : “ Biến động lãi suất và tác động của nó đến nền kinh tế Việt nam trong những năm gần đây “.Đề tài gồm 3 chương :
Chương 1: Những vấn đề chung về lãi suất.
Chương 2: Biến động của lãi suất và tác động của nó đến nền kinh tế Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hạn chế biến động lãi suất trong thời gian tới.
Do còn hạn chế về hiểu biết trong lĩnh vực tài chính kinh tế nên bài tiểu luận của em không thể tránh khỏi những thiếu sót.kính mong thầy cô góp ý giúp đỡ để em hoàn thành bài tiểu luận này.
Em xin chân thành cảm ơn !
CHƯƠNG I : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LÃI SUẤT
1.1.Khái niệm về lãi suất.
Một trong những nhận thức cơ bản và quan trọng nhất của kinh tế học đó là “giá trị thời gian của tiền”. Điều này được dựa trên quan điểm có ý nghĩa chung là 1 đồng tiền thanh toán cho bạn sau 1 năm có ít giá trị đối với bạn so với 1 đồng tiền ngày hôm nay. Chính vì vậy để được sở hữu tiền ắt cần phải bỏ ra một lượng chi phí nhất định.Người ta gọi chi phí này là lãi suất.
Theo quan điểm của John Maynard Keynes, lãi suất là sự trả công cho số tiền vay, nó là phần thưởng cho sở thích chi tiêu hay sở thích thanh khoản.
Trong khi Frederic S.Mishkin đã đưa ra khái niệm về lãi suất hoàn vốn – một loại lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thanh toán nhận được theo một công cụ nợ với giá trị hôm nay của công cụ đó. Theo đó với từng loại công cụ nợ trên thị trường mà lãi suất được phân chia thành 4 loại: lãi suất vay đơn, lãi suất vay trả cố định, lãi suất trái khoán coupon và lãi suất trái khoán chiết khấu.
Lãi suất có thể được coi là chi phí cơ hội của việc giữ tiền, hay nói khác đi, chi phí cơ hội của việc giữ tiền là khoản lợi tức mất đi khi người ta giữ tiền thay vì việc giữ các trái khoán.
Như vậy, xét về bản chất, “Lãi suất (Interest rate) là tỷ lệ % giữa tiền lãi (hay chi phí phải trả) trên một số lượng tiền nhất định để có được quyền sở hữu và quyền sử dụng tiền ấy trong khoảng thời gian đã thỏa thuận”.
1.2.Phân loại lãi suất
1.2.1. Theo giá trị thực của lãi suất
Lãi suất danh nghĩa (nominal interest rate) là lãi suất chưa được loại trừ ảnh hưởng của lạm phát, được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng giữa người đi vay và người cho vay về một số vốn nào đó và thường được niêm yết trên thị trường.
Lãi suất thực tế (real interest rate) là lãi suất đã được loại trừ ảnh hưởng của lạm phát, do đó nó phản ánh chính xác hơn chi phí thật của việc vay tiền.
Quan hệ của 2 lại lãi suất này được thể hiện như sau :
Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực + Tỉ lệ lạm phát
1.2.2. Theo cơ chế điều hành của nhà nước.
Lãi suất sàn là lãi suất tối thiểu do NHTW quy định, áp dụng đối với lãi suất tiền gửi của khách hàng tại các NHTM.
Lãi suất trần là lãi suất cho vay tối đa do NHTW quy định, áp dụng đối với lãi suất cho vay của NHTM đối với khách hàng.
Lãi suất cơ bản là lãi suất do NHTW công bố, làm cơ sở cho các NHTM xác định lãi suất kinh doanh. Lãi suất cơ bản được hình thành khác nhau như ở Nhật Bản là lãi suất cho vay thấp nhất; ở Mỹ dựa trên lãi suất cho vay áp dụng đối với khách hàng có mức rủi ro thấp nhất; hoặc căn cứ vào mức lãi suất cơ bản của một số NHTM đứng đầu.
1.2.3.Theo nghiệp vụ tín dụng của các tổ chức tín dụng.
Lãi suất tiền gửi ngân hàng : là lãi suất phải trả cho các khoản tiền gửi vào ngân hàng. Lãi suất tiền gửi có nhiều mức khác nhau tuỳ thuộc vào loại tiền gửi, loại hình gửi, thời hạn và quy mô của tiền gửi.
Lãi suất cho vay: là lãi suất qui định tỉ lệ lãi mà người đi vay phải trả cho người cho vay.Về nguyên tắc,trong điều kiện bình thường,lãi suất cho vay không được nhỏ hơn lãi suất huy động để đảm bảo cho tổ chức kinh doanh tín dụng có lãi.
Lãi suất chiết khấu : áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức chiết khâu thương phiếu hoặc giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của khách hàng. Nó được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mênh giá của giấy tờ có giá và được khấu trừ ngay khi ngân hàng đưa tiền vay cho khác hàng. Lãi suất chiết khấu được trả trước cho ngân hàng chứ không phải trả sau như lãi suất tín dụng thông thường.
Lãi suất tái chiết khấu : áp dụng khi ngân hàng trung ương cho các ngân hàng trung gian vay dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán của các ngân hàng này. Nó cũng được tính bằng tỉ lệ phân trăm trên mênh giá của giấy tờ có giá và cũng được khấu trừ ngay khi ngân hàng trung ương cấp tiền vay cho ngân hàng.
Lãi suất liên ngân hàng : là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng được hình thành trên quan hệ cung cầu vốn vay trên thị trường liên ngân hàng và chịu chi phối bởi lãi suất cho các ngân hàng trung gian vay của ngân hàng trung ương. Mức độ chi phối này phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt động thị trưởng mở và tỷ trọng sử dụng vốn vay ngân hàng trung ương của các ngân hàng trung ương.
1.2.4. Các loại lãi suất tín dụng khác.
Lãi suất LIBOR và PIBOR là lãi suất trên thị trường liên ngân hàng London và Paris,là lãi suất tiền gửi bằng đôla hay ngoại tệ khác mà theo đó các ngân hàng lớn làm căn cứ để đi vay và cho vay trên thị trường tiền tệ Châu Âu.LIBOR phản ánh điều kiện thị trường nên được các ngân hàng sử dụng rộng rãi làm cơ sở để ấn định lãi suất các món vay.
1.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất
1.3.1. Tác động của cung – cầu tiền tệ.
Lãi suất là biểu hiện của giá cả của tiền tệ, được xác định bởi hoạt động của cơ chế cung và cầu vốn.
Cung của vốn có được chủ yếu từ các khoản tiết kiệm của dân chúng và lượng vốn đã được cung cấp phụ thuộc nhiều vào lãi suất. Nếu lãi suất quá thấp, dân chúng sẽ quyết định không cho vay các khoản tiết kiệm của mình, họ sẽ giữ các khoản tiết kiệm dưới dạng khả dụng. Khi lãi suất tăng lượng tiết kiệm dân chúng sẵn sang cho vay tang lên làm cho khối lượng cung sẽ lớn hơn.
Cầu vốn là nhu cầu vay vốn có khả năng thanh toán của các doanh nghiệp và cá nhân, thông thường cầu vốn phụ thuộc vào kỳ vọng tăng trưởng kinh tế, mức độ ổn định của tiền tệ và tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Mọi sự thay đổi về các điều kiện cung và cầu về vốn đều tác động đến lãi suất.Chẳng hạn, tăng tiết kiệm sẽ dẫn đến tăng cung vốn, và nếu cầu vốn không tăng tương ứng để cân bằng được cung cầu sẽ làm cho lãi suất giảm đi. Ngược lại sự tăng lên của cung về vốn không tương ứng sự tăng lên của cầu về vốn sẽ làm cho lãi suất tăng lên. Mặt khác, lãi suất cũng tác động đến cung và tiết chế cầu, lãi suất tăng làm cung tăng, hạn chế cầu, lãi suất giảm sẽ có tác dụng hạn chế cung và kích cầu.
1.3.2. Lạm phát .
Lạm phát ảnh hưởng đến lãi suất theo hướng tỉ lệ thuận: Khi tỉ lệ lạm phát tăng cao thì lãi suất danh nghĩa cao tương ứng và ngược lại, khi tỉ lệ lạm phát giảm thì lãi suất cũng giảm theo. Nếu tỉ lệ lạm phát tăng cao, người cất giữ tiền mặt sẽ thu được một lãi suất thực âm (giá trị thực tế của tiền mặt bị xói mòn). Ngược lại khi lạm phát thấp, đồng nội tệ ổn định, với chính sách lãi suất hợp lý sẽ khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng.Như vậy, về mặt lý thuyết và thực tiễn, lạm phát và lãi suất thông thường là biến động cùng chiều và chính sách lãi suất tích cực là phải đảm bảo nguyên tắc lãi suất lớn hơn tỷ lệ lạm phát, lãi suất thực dương.
1.3.3. Chính sách của Nhà nước.
Cân đối thu, chi ngân sách: Ngân sách nhà nước vừa là người cung tiền gửi, vừa là người cầu tiền cho vay đối với ngân hàng. Do đó sự thay đổi trong mối tương quan giữa thu và chi ngân sách là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất. Nó tác động đến lãi suất theo hai hướng:
Thâm hụt (bội chi) ngân sách sẽ dẫn đến lãi suất tăng.Khi ngân sách bội chi, Chính phủ sẽ vay dân chúng bằng cách phát hành tín phiếu, trái phiếu để bù đắp. Như vậy, một lượng tiền tiết kiệm trong dân cư được dung để mua tín phiếu, trái phiếu của Chính phủ nay chuyển sang dạng tiền gửi vì vậy cung tiền gửi tăng lên dẫn đến việc giảm lãi suất.
Định hướng điều hành chính sách tiền tệ: Việc mở rộng hay thu hẹp lượng tiền cung ứng của NHTW tác động tức thời đối với lãi suất trên thị trường tiền tệ. Nếu NHTW thực thi chính sách tiền tệ nới lỏng – cung tiền tăng thì lãi suất sẽ có xu hướng giảm và ngược lại.
Các công cụ của chính sách tiền tệ và nghiệp vụ NHTW đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và tác động qua lại lẫn nhau, và có ảnh hưởng tới lãi suất thị trường:
Dự trữ bắt buộc: Tỉ lệ dự trữ bắt buộc cao thì lãi suất cho vay cũng cao, ngược lại nếu tỉ lệ dự trữ bắt buộc thấp thì lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng thấp.
Nghiệp vụ thị trường mở: Nếu NHTW tung tiền mua các giấy tờ ngắn hạn hoặc trái phiếu sẽ khiến lãi suất hạ. Nếu NHTW bán ra các giấy tờ có giá ngắn hạn hoặc trái phiếu để thu tiền thì lãi suất sẽ tăng.
Tỉ giá hối đoái: Nếu tỉ giá hối đoái tăng lên có nghĩa là nội tệ mất giá khiến cho lạm phát tăng theo, nên lãi suất tăng. Ngược lại, tỉ giá hối đoái thấp làm cho lãi suất hạ.
Lãi suất tái chiết khấu: NHTW mở rộng cánh cửa tái chiết khấu làm cho lãi suất trên thị trường tiền tệ giảm xuống. Ngược lại, khi NHTW hạn chế việc tái chiết khấu sẽ khiến cho lãi suất trên thị trường tiền tệ tăng lên.
Chính sách quản lý ngoại hối, tỷ giá: Trong một nền kinh tế mở, chính sách quản lý ngoại hối tác động trực tiếp đến cán cân thanh toán, lượng ngoại tệ ròng của NHTW, thực hiện việc bơm tiền hay hút tiền trong lưu thông thông qua hành động mua, bán ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, từ đó ảnh hưởng đến cung tiền và lãi suất. Còn tỷ giá đóng vai trò là đại lượng cân bằng động giữa lãi suất nội tệ và ngoại tệ, như vậy, sự ổn định của tỷ giá là yếu tố tránh biến động về lãi suất. Nếu tỷ giá tăng, sẽ làm cho lãi suất nội tệ tăng theo để bảo vệ giá trị đồng nội tệ và tránh sự suy giảm của vốn huy động bằng nội tệ. Ngược lại, khi tỷ giá giảm, lãi suất nội tệ sẽ có xu hướng giảm theo, nhằm khuyến khích đầu tư phát triển kinh tế.
1.3.4. Tỉ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế.
Trong một nền kinh tế, vốn hoạt động của các doanh nghiệp không phải dựa vào vốn vay ngân hàng là chủ yếu thì tỷ suất lợi nhuận bình quân là một trong những nhân tố chi phối sự biến động của tín dụng ngân hàng. Nếu lãi suất vay thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân thì tín dụng được mở rộng, còn ngược lại, thì nhu cầu tín dụng bị thu hẹp.
Về phương diện kinh tế vĩ mô, nếu lãi suất cho vay cao hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân thì có nguy cơ thu hẹp đầu tư, sản xuất kinh doanh bị đình đốn, kinh tế sẽ suy thoái và đó không phải là mục tiêu của chính sách tiền tệ cần hướng tới. Mặt khác, khi tỷ suất lợi nhuận bình quân nhỏ hơn lãi suất cho vay, thì lãi suất huy động cũng có thể cao, lúc đó, mọi nhà sản xuất kinh doanh đều tìm cách kiếm lợi nhuận qua việc gửi tiền vào ngân hàng hơn là đầu tư. Điều này càng nguy hại cho nền kinh tế.
1.3.5. Một số nhân tố khác.
Ngoài các nhân tố nói trên tác động đến lãi suất, còn có các nhân tố khác cũng có thể tác động đến lãi suất như: thâm hụt cán cân vãng lai, tốc độ tăng trưởng GDP, chỉ số giá chứng khoán, tình hình chính trị, thiên tai, dịch bệnh, biến động lãi suất trên thị trường tiền tệ thế giới.
CHƯƠNG II : BIẾN ĐỘNG CỦA LÃI SUẤT VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
2.1.Vai trò của lãi suất tín dụng
Lãi suất tín dụng là phương tiện kích thích lợi ích vật chất và thu hút mọi người với nhau trong nền kinh tế.
Lãi suất tín dụng là công cụ kích thích sự phát triển kinh tế. Với vai trò là giá quyền sử dụng vốn vay,một mức cho vay phù hợp sẽ kích thích nhu cầu đầu tư vay vốn mở rộng sản xuất kinh doanh.Việc phân biệt các mức lãi suất cho vay theo ngành,theo vùng hoặc theo từng khách hàng có thể tạo nên một chính sách lãi suất linh hoạt có khả năng khai thác triệt để thế mạnh của từng đối tượng sử dụng vốn,từ đó tăng cường hiệu quả sử dụng vốn vay.
Lãi suất tín dụng là đòn bẩy kích thích ngân hàng và các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
Lãi suất là công cụ ưu tiên với mọi nền kinh tế
2.2. Chính sách lãi suất của NHNN và biến động của lãi suất tín dụng những năm gần đây
2.2.1. Năm 2009
Năm 2009, khủng hoảng tài chính toàn cầu tiếp tục lan rộng, đẩy kinh tế thế giới lún sâu vào suy thoái, đã tác động nhanh, trực tiếp đến nền kinh tế nước ta trên các lĩnh vực xuất khẩu, sản xuất công nghiệp, du lịch, đầu tư nước ngoài… Do đó, hệ thống ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn và thách thức. Trước tình hình đó, để góp phần chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển kinh tế ở mức hợp lý, bền vững bảo đảm an sinh xã hội, NHNN đã điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, lãi suất, tỷ giá linh hoạt, phù hợp với mục tiêu kích cầu, khuyến khích sản xuất, xuất khẩu, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn hệ thống.
Theo Quyết định 131 của Thủ tướng Chính phủ, Nhà nước đã hỗ trợ lãi suất cho khách hàng vay để sản xuất - kinh doanh, nhằm giảm giá thành sản phẩm hàng hoá, duy trì sản xuất, kinh doanh và tạo việc làm, trong điều kiện nền kinh tế bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới.
Trong quyết định này có đề cập đến nguyên tắc hỗ trợ lãi suất là các các ngân hàng thương mại cho vay các nhu cầu vốn lưu động để hoạt động sản xuất – kinh doanh theo cơ chế tín dụng thông thường và thực hiện hỗ trợ lãi suất theo đúng quy định của Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn của NHNN; không được từ chối hỗ trợ lãi suất, nếu khoản vay thuộc đối tượng được hỗ trợ lãi suất; định kỳ báo cáo NHNN để kiểm tra, giám sát tình hình hỗ trợ lãi suất.
Theo đó,thời hạn vay được hỗ trợ lãi suất tối đa là 8 tháng đối với các khoản vay theo hợp đồng tín dụng được ký kết và giải ngân trong khoảng thời gian từ 1/2/2009 - 31/12/2009. Mức hỗ trợ lãi suất cho khách hàng vay là 4%/năm, tính trên số tiền vay và thời hạn cho vay thực tế nằm trong khoảng thời gian quy định nêu trên; khi thu lãi cho vay, các ngân hàng thương mại giảm trừ số tiền lãi phải trả cho khách hàng vay.
Lãi suất huy động tiền gửi VNĐ năm 2009
Ngay từ những tháng đầu năm, lãi suất huy động của các ngân hàng tăng nhẹ. Các điều chỉnh tăng được thực hiện với hầu hết các kỳ hạn, từ kỳ hạn tuần đến kỳ hạn 36 tháng. Ngày 12.3 của các NHTM gây chú ý khi công bố áp dụng mức lãi suất huy động cao nhất 8,7%/năm cho kỳ hạn 36 tháng. Lãi suất các kỳ hạn lần lượt được điều chỉnh tăng, lên mức 8%/năm cho kỳ hạn trên 12 tháng, 7,32%/năm cho kỳ hạn 3 tháng, và các kỳ hạn 6 - 9 - 12 tháng lần lượt nhận được mức lãi xuất 7,44%/năm, 7,524%/năm và 8,004%/năm.Từ tháng 5 đến tháng 7/2009, làn sóng đua tăng lãi suất huy động Việt nam đồng (VND) ở các NHTM chưa có dấu hiệu dừng do nhu cầu hấp thụ vốn của nền kinh tế tăng cao, lãi suất huy động VND đang tiến sát về mức trần cho vay. Nhiều NHTM chỉ trong 2 tuần đã tăng lãi suất tiền gửi 2 đến 3 lần. Trong tuần đầu tiên của tháng 5, lãi suất giao dịch mới chỉ tăng nhẹ. Ở khối NHTM Nhà nước, lãi suất huy động VND không kỳ hạn phổ biến là 2,88%/năm, kỳ hạn 3 tháng: 7,3%, 6 tháng: 7,5%/năm và 12 tháng là 7,85%/năm. Tại khối NHTM cổ phần, mức 2,87%/năm dành cho không kỳ hạn, các kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng có mức lãi suất tương ứng là7,59%/năm, 7,75%/năm và 8,04%/năm. Đến tuần cuối của tháng 5, làn sóng tăng lãi suất huy động bằng VND tăng khá mạnh. Cụ thể, tại Ngân hàng An Bình, hiện mức lãi suất đỉnh đã lên tới 9,7% khi khách hàng gửi tiết kiệm bậc thang với kỳ hạn dài và số tiền lớn. Với kỳ hạn 18 tháng, người gửi tiền được hưởng lãi suất 9%/năm; 24 tháng: 9,2%/năm; 36 tháng: 9,4%/năm; 60 tháng: 9,5%/năm. trong tuần đầu tiên của tháng 5, lãi suất giao dịch mới chỉ tăng nhẹ, ở khối ngân hàng thương mại Nhà nước, lãi suất huy động VND không kỳ hạn phổ biến là 2,88%/năm, kỳ hạn 3 tháng: 7,3%, 6 tháng: 7,5%/năm và 12 tháng là 7,85%/năm. Tại khối ngân hàng thương mại cổ phần, mức 2,87%/năm dành cho không kỳ hạn, các kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng có mức lãi suất tương ứng là 7,59%/năm, 7,75%/năm và 8,04%/năm.
Từ tháng 8 đến tháng 10/2009, các ngân hàng gia tăng lãi suất và đỉnh cao nhất lên đến 9,5%. Cụ thể, Ngân hàng Hàng hải Việt Nam (Maritime Bank) lãi suất tăng mạnh ở các kỳ hạn dài đều trên 9% và 36 tháng đã lên đến đỉnh 9,5%. Với Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phát triển nhà TP.HCM (HDBank), ngay khi lãi suất của nhiều ngân hàng tăng mạnh, ngân hàng nay cũng đã áp dụng lãi suất cao nhất lên tới 9,5%/năm, kỳ hạn 36 tháng; các kỳ hạn 18 và 24 tháng cũng có mức cao, 9,1% và 9,3%.
Tiếp tục sau đó các ngân hàng thương mại đưa ra các mức lãi suất huy động cơ bản như 15 tháng (9,4%), 24 tháng (9,8%) hay 36 tháng (10,3%/năm) và tiếp tục tăng lãi xuất huy động 0.3%. Đặc biệt, vào ngày 12/8 lãi suất huy động vốn VND đã lên tới đỉnh là 10.3%. Đến đầu tháng 11 nhóm NHTM cổ phần điều chỉnh tăng lãi suất huy động VND với mức từ 0,1-0,3%/năm và tăng lãi suất huy động USD từ 0,1-0,2%/năm ở hầu hết các kỳ hạn, đặc biệt là lãi suất ngắn hạn.
2.2.2 Năm 2010
Cuối tháng 3/2010, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam công bố lãi suất cơ bản vẫn giữ ở mức 8% trong tháng 4/2010 như từ tháng 12/2009 do từ 26/2/2010.NHNN từng bước bỏ các quy định rằng buộc về các loại lãi suất của các TCTD. Cụ thể là trong năm, NHNN đã ban hành Thông tư số 03/2010/TT-NHNN; Thông tư 07/2010/TT-NHNN; Thông tư 12/2010/TT-NHNN cho phép TCTD được thực hiện cho vay bằng VND theo cơ chế lãi suất thỏa thuận. Tuy nhiên trong năm vừa qua, chính sách điều hành cũng như chính sách lãi suất vẫn bị chi phối bởi chính sách kinh tế đa mục tiêu, chịu áp lực lớn từ biện pháp kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Vì vậy, đã tạo ra những khó khăn nhất định trong công tác điều hành ổn định mặt bằng lãi suất của NHNN.
Nguồn: NHNN
Trong 6 tháng đầu năm lãi suất đã tăng so với cùng kỳ của năm 2009 với hai mốc tăng tương đối ổn định. Nếu như trong quý I/2010, lãi suất huy động tăng bình quân 0,03 – 0,07% cho tất cả các kỳ hạn chưa kể đến các hình thức khuyến mại thì bước sang tháng đầu tiên của Quý II, để chấm dứt các chính sách tặng thưởng được xem là hình thức cạnh tranh không lành mạnh, các NHTM đã từng bước công bố tăng lãi suất vượt ngưỡng 10,5% - là tỷ lệ được duy trì từ tháng 12/2009 để hình thành nên một mặt bằng lãi suất mới biến động xoay quanh ngưỡng 12%.
Việc lãi suất huy động cao đã tác động đẩy mặt bằng lãi suất cho vay tăng cao trong điều kiện áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận vì vậy đến tháng 7/2010 để tạo sự thống nhất về mặt bằng lãi suất huy động trên thị trường, NHNN và Hiệp hội ngân hàng