Độc học môi trường là một khoa học nghiên cứu vềlượng chất, các tác động 
bất lợi của các tác nhân độc lên cơthểsống. Độc chất là những chất khi xâm nhập 
vào cơthểsống sẽgây biến đổi sinh lý, sinh hoá phá vỡcân bằng, dẫn đến gây rối 
loạn chức năng sống bình thường và tác động đến trạng thái của một hoặc nhiều cơ
quan hay toàn bộcơthể. Trong tiểu luận này, chúng em chọn các kim loại độc trong 
môi trường làm đối tượng nghiên cứu, xem xét. Tiểu luận tập trung vào các vấn đề
nhưnguồn gốc của các kim loại trong môi trường, các nhân tố ảnh hưởng, các kim 
loại độc trong khí quyển, thủy quyển và các tính độc của một sốkim loại cụthểkhi 
chúng được hấp thụvào cơthểsinh vật
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 29 trang
29 trang | 
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 4013 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Các kim loại độc trong môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI 
Viện Khoa học và Công Nghê Môi trường 
----------------	------------------- 
Tiểu luận 
CÁC KIM LOẠI ĐỘC 
TRONG MÔI TRƯỜNG 
Giáo viên hướng dẫn: GS.TS Đặng Kim Chi 
Người thực hiện: Đỗ Đăng Khoa; Mai Thị Nhâm 
Lớp: KTMT 
 Niên khoá: 2008- 2010 
Hà Nội, 12-2008 
MỤC LỤC 
 Mở đầu 
I Giới thiệu chung 
II Nguồn gốc kim loại 
 2.1 Công nghiệp 
 2.2 Các sản phẩm nông nghiệp 
 2.3 Thực phẩm và các phụ gia thực phẩm 
III Một số nhân tố ảnh hưởng đến tính độc của kim loại 
 3.1 Nhiệt độ 
 3.2 Độ pH 
 3.3 Sự thích nghi của sinh vật và sự phối kết hợp giữa các 
kim loại 
IV Các kim loại độc trong khí quyển 
V Các kim loại độc trong nước và trầm tích 
VI Các kim loại độc trên cạn 
VII Tính độc của một số kim loại 
 7.1 Cơ chế gây nhiễm độc chung của một vài kim loại 
 7.1.1 Asen (As) 
 7.1.2 Cacmidi (Cd): 
 7.1.2 Chì (Pb) 
 7.1.2 Các hợp chất chì hữu cơ (RnPb) 
 7.1.2 Thủy ngân (Hg) 
 7.1.2 Thiếc (Tn) 
 7.1.2 Mangan (Mn) và nhôm (Al) 
 7.2 Các kim loại gây ung thư 
 Kết luận 
 Tài liệu tham khảo 
MỞ ĐẦU 
Độc học môi trường là một khoa học nghiên cứu về lượng chất, các tác động 
bất lợi của các tác nhân độc lên cơ thể sống. Độc chất là những chất khi xâm nhập 
vào cơ thể sống sẽ gây biến đổi sinh lý, sinh hoá phá vỡ cân bằng, dẫn đến gây rối 
loạn chức năng sống bình thường và tác động đến trạng thái của một hoặc nhiều cơ 
quan hay toàn bộ cơ thể. Trong tiểu luận này, chúng em chọn các kim loại độc trong 
môi trường làm đối tượng nghiên cứu, xem xét. Tiểu luận tập trung vào các vấn đề 
như nguồn gốc của các kim loại trong môi trường, các nhân tố ảnh hưởng, các kim 
loại độc trong khí quyển, thủy quyển và các tính độc của một số kim loại cụ thể khi 
chúng được hấp thụ vào cơ thể sinh vật 
I. GIỚI THIỆU CHUNG 
Hơn 40 nguyên tố hóa học được phân loại là các kim loại. Rất nhiều các 
nguyên tố, ví dụ như nhóm các kim loại kiềm và một vài nguyên tố vết thì có vai trò 
thiết yếu cho sự sống trong khi các nguyên tố khác lại là chất độc. Các kim loại 
đóng vai trò là chất dinh dưỡng cơ bản của sự sống như Ca, Mg, Fe, K, và Na. Các 
kim loại này có vai trò rất quan trọng trong việc duy trì sự sống nhưng nó sẽ trở 
thành chất độc nếu hàm lượng vượt quá mức độ cho phép. Các kim loại vết như Cr, 
Co, Cu, Mn, Ni, Se, và Zn là một phần quan trọng của các tế bào vì nó là thành 
phần cấu tạo nên các enzym. Tuy nhiên các nguyên tố này cũng trở nên độc nếu nó 
vượt quá mức độ cho phép trong cơ thể sinh vật (Mailman, 1980; Hayes, 1989). 
Một vài nguyên tố như Pb, Cd, và Hg có các ảnh hưởng có hại đến sinh vậtd ở bất 
kỳ nồng độ nào. 
Các kim loại độc được biết đến sớm nhất là. Pb và Ag. Hai kim loại này có lẽ 
được sử dụng từ trước năn 2000 trước công nguyên. Ông Theophrastus, người sống 
vào khoảng năm 380 trước công nguyên, đã nói về As và Hg trong những bài viết 
của mình, và Hippocrates có lẽ là người đầu tiên chỉ ra mối liên hệ giữa sự đau bụng 
với việc tiếp xúc với kim loại (Goyer, 1986). Còn chì thì bị cho là liên quan đến 
việc suy tàn và đổ vỡ của đế chế La mã do nó được sử dụng trong đường ống dẫn 
nước. Lewis Carroll, trong tác phẩm Alice ở xứ sở thần tiên (Wonderland), giới 
thiệu một nhân vật đã được biết đến là “Hatter điên” người đã có những triệu chứng 
tiêu biểu sau khi tiếp xúc với thủy ngân vô cơ trong một giai đoạn dài. Tuy nhiên, 
sự kiện ở vịnh Minamata - Nhật Bản thì lại liên quan đến việc tăng kim loại nặng 
trong môi trường (Takeuchi et al., 1959; Tokuomi, 1961; Mailman, 1980; Mance, 
1987). 
Trong việc phát hiện các mối nguy hại liên quan đến việc tích lũy kim loại 
nặng trong môi trường, bước quan trọng nhất là việc xác định cơ quan, sinh vật có 
sự nhậy cảm nhất. Thông thường động vật có mức độ nhậy cảm với kim loại nặng 
hơn thực vật, và con người được xem là nhậy cảm nhất. và cũng là sinh vật quan 
trọng nhất. Tuy nhiên, độ độc của kim loại đến con người chỉ được trình bày sơ 
lược trong tiểu luận này. 
II. CÁC NGUỒN KIM LOẠI TRONG MÔI TRƯỜNG 
Vỏ trái đất là nguồn cơ bản của tất cả các nguyên tố kim loại được tìm thấy 
trong môi trường. Các kim loại không được tạo ra hay bị phá hủy bởi con người 
nhưng nó lại được phân bổ trong môi trường bởi hai vòng tuần hoàn địa chất và sinh 
học. Các hoạt động công nghiệp và công nghệ của con người làm ngắn các chu trình 
của kim loại, nó làm tạo ra các hợp chất kim loại mới, và các kim loại được đưa vào 
khí quyển chủ yếu qua việc đốt nhiên liệu và nó gây ra sự phát tán mạnh trên quy 
mô toàn cầu. 
1. Công nghiệp 
Sự gia tăng tích lũy kim loại trong môi trường không chỉ từ các nguồn tự 
nhiên, mà còn từ hoạt động công nghiệp của con người. Việc đốt cháy các nhiên 
liệu hóa thạch làm giải phóng khoảng 20 loại kim loại độc hại quan trọng vào môi 
trường bao gồm asen, beryllium, cacmidi, chì, và niken (Goyer, 1986). Các sản 
phẩm công nghiệp và việc sử dụng các vật liệu công nghiệp có thể chứa hàm lượng 
cao các nguyên tố kim loại độc hại. Ví dụ, Thủy ngân được sử dụng để sản xuất clo 
và soda trong công nghiệp sản xuất giấy và bột giấy, công nghiệp sản xuất pin, 
bóng đèn huỳnh quang, công tắc điện, sơn và các sản phẩm nông nghiệp, thuốc 
chữa răng, và dược phẩm. (Mailman, 1980) 
Cả người lớn và trẻ em đều có thể bị tiếp xúc với bụi chì từ các ngành công 
nghiệp như công nghiệp sản xuất ắc quy qua việc tiếp xúc với quần áo người lao 
động, trẻ em thì có thể đưa chì vào cơ thể qua việc đưa vào mồm những miếng vật 
liệu có sơn bị bong tróc. Sự tiếp xúc này sau đó có thể là mối nguy hại chính đối với 
sức khỏe của trẻ em; Tuy nhiên, nguồn phát thải chì nhiều nhất vào môi trường là từ 
sự giải phóng chì ra môi trường từ sự đốt cháy tetraethyl, hoặc từ các ngành các 
ngành công nghiệp sử dụng nhiên liệu hóa thạch. 
Cacmidi, một sản phẩm phụ của việc khai khoáng kẽm và chì, là một chất gây 
ô nhiễm môi trường quan trọng. Nó được sử dụng rất nhiều trong sơn, thuốc nhuộm, 
ắc quy, và plastics. Ngoài ra nó còn được sử dụng trong chất chống ăn mòn thép, 
sắt, đồng, đồng thau và các hợp kim khác. 
2. Các sản phẩm nông nghiệp 
Các kim loại nặng có trong các sản phẩm phân bón bao gồm Cacmidi, crom, 
đồng, mangan, molipden, niken và kẽm. Các nguồn chính của asen trong môi 
trường là từ thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và các sản phẩm bảo vệ thực vật khác. chì 
và asen bên cạnh việc sử dụng trong công nghiệp nó còn được sử dụng trong thuốc 
trừ sâu. Thuốc diệt nấm có chứa thủy ngân cũng góp phần làm ô nhiễm môi trường. 
Cuối cùng, rất nhiều các kim loại này tích lũy trong đất nông nghiệp dẫn đến tạo ra 
sự nguy hiểm đối với thực vật và động vật. 
3. Thực phẩm và các phụ gia thực phẩm 
Đối với con người, lượng lớn kim loại có trong thực phẩm và các phụ gia thực 
phẩm có thể được đưa vào cơ thể con người thông qua quá trình ăn uống. Sự đưa 
kim loại vào trong cơ thể qua con đường ăn uống thông thường theo hai con đường 
chính (Mailman and Sidden, 1980). 
- Con đường thứ nhất liên quan đến việc vô tình ăn, uống hoặc tiếp xúc trực 
tiếp với thức ăn hoặc các vật liệu chứa kim loại. Ví dụ điển hình là việc trẻ con ăn, 
gặm những vật liệu sơn chứa chì. Bởi vì 1 cm2 bề mặt được sơn có thể chứa từ 50 
mg – 100 mg chì. Ngay cả việc đưa vào cơ thể 1 một chút sơn cũng có thể vượt quá 
mức độ cho phép. 
Một ví dụ khác của việc sử dụng Pb trực tiếp đó là thời kỳ của đế chế La mã 
(từ năm 509-476 trước công nguyên). Người Lamã sử dụng ống nước làm bằng chì 
để cung cấp đến các hộ gia đình, do đó một lượng lớn chì đã được đưa vào cơ thể 
thông qua quá trình ăn uống. Sử dụng các sản phẩm đồ gốm được tráng loại men 
chứa chì cũng làm cho chì liên tục đưa vào cơ thể. Việc liên tục đưa chì vào cơ thể 
qua con đường ăn uống này đã dẫn đến những triệu chứng về thần kinh và có lẽ nó 
cũng nguyên nhân quan trọng trong việc suy tan và đổ vỡ của đế chế Lamã. Gần 
đây hơn, những trường hợp bị ngộ độc chì đã xảy ở Mỹ do việc sử dụng các loại đồ 
gốm rẻ tiền làm đồ đựng thức ăn tính axit (Mailman, 1980) 
- Con đường thứ 2 đưa kim loại vào cơ thể là gián tiếp thông qua chuỗi thức 
ăn. Bệnh Minamata rất nổi tiếng được biết đến là kết quả của việc ăn quá nhiều cá 
có chứa methyl thủy ngân. Các vi sinh vật có trong trầm tích đã làm ion thủy ngân 
liên kết với metal để tạo thành methyl thủy ngân. Methyl thủy ngân có thể được tích 
lũy trong các mô cá khi chúng ăn các thức ăn bị nhiễm bẩn (Stirling, 1980). Sự hấp 
thụ methyl thủy ngân bởi cá ở vịnh Minamata xảy ra khi các chất thải chất thải công 
nghiệp chứa các hợp chất thủy ngân thải vào vịnh. Các kim loại độc khác như Cd 
được phát hiện trong thịt, cá và hoa quả. Các loài động vật có vỏ như trai, điệp, và 
hàu là nguồn chính chứa Cd. 
Khi con người sử dụng bùn thải chứa nitơ, photpho và sulfua cũng như các 
kim loại nặng như Cd, Cr, Cu, Pb, Hg, Ni, và Zn cho việc cải tạo đất nông nghiệp 
(Dowdy and Volk, 1983) cũng là nguyên nhân dẫn đến kim loại đi vào chuỗi thức 
ăn. Mặc dù các kim loại này ít được giữ lại trong đất do qua trình lọc, nhưng thực 
vật vẫn hấp thụ được các kim loại này và chúng vẫn được đưa vào chuỗi thức ăn, 
cuối cùng là vào cơ thể con người thông qua con đường ăn uống. 
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÍNH ĐỘC CỦA KIM LOẠI. 
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự trao đổi chất và các ảnh hưởng của kim 
loại. Những nhân tố này được coi là những nhân tố chủ đạo bao gồm tuổi tác, chế 
độ ăn, sức đề kháng, giới, loài, hệ và nhịp sinh hoc.... Tính độc của kim loại có thể 
bị thay đổi bởi các nhân tố vô sinh như ánh sáng, độ ẩm, tốc độ gió, lượng mưa, tia 
bức xạ, và sự thay đổi nhiệt độ. 
3.1. Nhiệt độ 
Sự thay đổi nhiệt độ môi trường xung quanh đều ảnh hưởng đến sự trao đổi 
chất ở cả động vật đẳng nhiệt và biến nhiệt. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến tính độc 
của kim loại có hai loại cơ bản, đó là: 
- Độ độc của kim loại tăng khi nhiệt độ môi trường tăng hoặc 
- Độ độc của kim loại tăng khi nhiệt độ môi trường giảm(Hodgson, 1987). 
Đối với động vật không xương sống nước mặn thì phần lớn thì tính độc của 
các kim loại đều tăng khi nhiệt độ môi trường tăng (Mance, 1987). Tuy nhiên, đối 
với các loài cá cả ở nước ngọt và nước mặn thì không thể có bất kỳ mối liên hệ đặc 
biệt nào giữa độ độc của kim loại với nhiệt độ. 
Tuy nhiên, tính độc của kim loại đến các loài thì thay đổi theo từng loại kim 
loại và từng loài cá. Ví dụ, đối với cá hồi thì độ độc của AgNO3 tăng khi nhiệt độ 
tăng. Tuy nhiên, đối với đồng thì ngược lại. Tương tự như vậy, đối với các loài cá 
không phải họ cá hồi thì độ độc của cacmidi cũng giảm xuống khi nhiệt độ tăng, 
trong khi với các loài khác như Oryzias latipes thì lại không như vậy. Đối với động 
vật đẳng nhiệt có xương sống, trên cạn thì các ảnh hưởng của sự thay đổi nhiệt độ bị 
chi phối bởi sự tác động của các hormone, trong khi các loài động vật không xương 
sống trên cạn và các loài thực vật thì được cho là sẽ tích lũy nhiều kim loại khi môi 
trường có nhiệt độ cao. 
3.2. pH 
pH là nhân tố vô sinh quan trọng nhất quyết định đến tính linh động của kim 
loại trong đất. Sự phân hủy rác, lá cây làm pH của đất giảm xuống do sự giải phóng 
các axits hữu cơ (Hopkin, 1989). pH giảm sẽ làm tăng tính linh động của các muối 
kim loại nặng trong đất. (Nordberg et al., 1985). Mưa axit cũng làm tăng tính linh 
động của cả các kim loại độc và không độc trong nước, đất và nó cũng có thể làm 
tăng quá trình chuyển đổi một số kim loại thành các dạng mới độc hơn. 
3.3. Sự thích nghi của sinh vật, và sự phối kết hợp giữa các loại kim loại 
Các dữ liệu thử nghiệm về độ độc cấp tính đã chứng tỏ rằng có những sự thích 
nghi của cơ thể sinh vật trước các tính độc của kim loại. Thử nghiệm về độc cấp 
tính với cá hồi con gairdneri cho thấy rằng khi cho tiếp xúc với đồng trong một 
khoảng thời gian 21 ngày thì có mối liên quan rõ ràng giữa nồng độ đồng với LC50. 
Tuy nhiên, các sinh vật như cá hồi con gairdneri khi tiếp xúc với kim loại có độ độc 
cao thì chúng có những phản ứng của cơ thể trong một khoảng thời gian ngắn và 
những phản ứng này sẽ không còn khi chúng được đưa vào môi trường sạch. Khi có 
sự tiếp xúc không liên tục với các kim loại thì sự tử vong có thể đến 30%, những 
sinh vật sống sót bị giảm quá trình sinh trưởng. Trong hầu hết các trường hợp, khi 
có sự kết hợp giữa các kim loại chúng sẽ làm tăng thêm tính độc. Chỉ một số ít các 
trường hợp khi một kim loại được thêm vào sẽ làm giảm độc tính của kim loại khác 
(Mance, 1987). Ví dụ bạc sẽ làm cản trở những tác động độc hại của Cd lên trứng 
của cá bơn. 
IV. CẤC KIM LOẠI ĐỘC TRONG KHÍ QUYỂN 
Khí quyển là một hệ thống bao gồm 4 vùng đặc biệt là tầng đối lưu, bình lưu, 
tầng trung gian và tầng nhiêt. 4 tầng này được chi thành 3 vùng nghịch nhiệt, được 
gọi là lớp tạm dừng ở đỉnh tầng đối lưu (tropopause), tầng bình lưu và tầng trung 
gian. (Fergusson, 1990). Tầng ngay sát trái đất là tầng đối lưu và nó liên quan chặt 
chẽ với với sự vận chuyển của kim loại. 
Nhiệt độ và gió là ảnh hưởng chính đến tốc độ, thể tích của sự di chuyển các 
kim loại nặng, vật chất đặc biệt, sol khí hoặc thậm chí là hơi nước trong khí quyển. 
Sự thay đổi nhiệt độ là nguyên nhân chính của sự đối lưu khí theo phương thẳng 
đứng. Dù là nhiệt độ không khí của tầng đối lưu thông thường giảm khi chiều cao 
tăng, sự đảo nhiệt cũng có thể xảy ra, là kết quả của việc di chuyển, hòa trộn khí 
theo phương ngang. (Sheet, 1980; Fergusson, 1990). Sự dịch chuyển của không khí 
theo phương ngang hoặc gió, phát sinh chủ yếu là do kết hợp của 3 nhân tố: 
gradient áp suất- chênh lệch áp suất, độ nghiên Coriolis, và sự ma sát với bề mặt trái 
đất . Sự chênh lệch áp suất là do sự dịch chuyển không khí từ vùng có áp suất cao 
đến vùng áp suất thấp. Độ chênh Coriolis là do quá trình quay của trái đất xung 
quanh khối không khí. Kết quả là các khối khi di chuyển trực tiếp về phía đông ở 
bán cầu bắc. Sự chênh Coriolis làm cho không khí di chuyển dọc theo đường đẳng 
áp hoặc đường khí áp cân bằng, hơn là trực tiếp từ vùng có áp suất cao đến vùng có 
áp suất thấp. Kết quả là , không khí di chuyển theo chiều ngược chiều kim đồng hồ 
xung quanh vùng có áp suất thấp và theo chiều kim đồng hộ xung quan vùng có khí 
áp cao ở bắc bán cầu (Fergusson, 1990) . Không khí di chuyển theo chiều ngược lại 
ở nam bán cầu. 
Một ví dụ rất hay về ảnh hưởng đến khí tượng đó là vụ nổ lò phản ứng hạt 
nhân Chernobyl năm 1986, các kim loại đã lắng đọng và di chuyển với khoảng cách 
rất xa. Các đám mây phóng xạ đã đi theo 2 hướng khác nhau và che phủ hầu hết 
Châu âu trong khoảng 2 tuần. 
Mặc dù các nguyên tố phóng xạ từ các vụ tai nạn hay các vụ nổ hạt nhân thì 
được lan trên diện rộng, nhưng đối với các hiện tượng tự nhiên có sự phát thải kim 
loại vào khí quyển thì hoạt động phun trào núi lửa là có nồng độ kim loại cao 
nhất.(Fergusson, 1990). Antimony, asen, cacmidi, chì và selen được đưa vào khí 
quyển từ các nguồn núi lửa trong khi một vài nguyên tố kim loại nặng khác thì được 
đưa vào khí quyển từ các nguồn địa nhiệt khác (Sabadell và Axtmann, 1975). Mặc 
dù nồng độ kim loại trong bụi núi lửa rất cao tuy nhiên sự đóng góp lớn nhất kim 
tổng kim loại nặng trong khí quyển lại từ các hoạt động như cháy rừng, bụi nước 
biển, nó đóng góp lượng chì và cacmidi lớn hơn rất nhiều từ hoạt động phun trào 
núi lửa (Fergusson, 1990) 
Nguồn nhân tạo trong việc xả thải kim loại vào trong khí quyển thì thường tập 
trung ở các vùng đô thị, công nghiệp. Những nguồn này bao gồm (1) đó là các hoạt 
động công nghiệp, các động cơ đốt cháy nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu, và 
khí tự nhiên, (2) các nhà máy luyện kim và các xưởng đúc, (3) khai thác mỏ và lò 
nấu kim loại (4) từ lò đốt rác, và (5) nhà máy sản xuất ximăng (Amasa, 1975; 
Comar và Nelson, 1975; Johnson và cộng sự, 1975; Lindberg và cộng sự, 1975; 
Hopkin, 1989; Fergusson, 1990). Kim loại nặng trong khí quyển ở vùng nông thôn 
và các vùng xa xôi hẻo lánh thì thấp hơn và các nguồn kim loại có trong khí quyển 
ở đây chủ yếu là từ các nguồn tự nhiên. 
Sự đốt than đá hoặc dầu làm giải phóng asen, bismuth, cacmidi, crom, đồng, 
chì, mangan, thủy ngân, niken, selen và kẽm vào khí quyển dưới dạng sol 
(Fergusson, 1990). 
Các chất gây ô nhiễm có nguồn gốc từ các nguồn trên sẽ được đưa từ khí 
quyển xuống bề mặt trái đất ở cả trạng thái khô hoặc ướt (qua quá trình giáng thủy). 
Khi lắng đọng xuống bề mặt trái đất nó sẽ làm ảnh hưởng đến cả môi trường dưới 
nước và trên cạn. 
V. KIM LOẠI TRONG NƯỚC VÀ TRẦM TÍCH. 
Thủy quyển chiếm phần diện tích lớn hơn rất nhiều so với thạch quyển trên bề 
mặt trái đất và chúng được chia ra thành hồ, sông, vùng cửa sông ven biển, đại 
đương (Fergusson, 1990). Các kim loại tồn tại trong thủy quyển dưới dạng hòa tan 
và các hạt lơ lửng hoặc ở dạng trầm tích. Trầm tích ở sông, hồ, cửa sông là nguồn 
chính của kim loại nặng trong thủy quyển. Ở cửa sông, các kim loại nặng từ khí 
quyển và sông được tích tụ dẫn đến các phản ứng lý hóa học xảy ra trước khi nó 
được cuốn ra ngoài đại dương. 
Sự lắng đọng từ khí quyển, lọc qua đất, dòng chảy, xói mòn, và sự vỡ vụn của 
các khoáng trầm tích tất cả đã góp phần làm tăng nồng độ kim loại trong nguồn 
nước cấp thiên nhiên. Các nguồn nhân tạo gồm có từ việc khai thác mỏ, luyện kim, 
đốt nhiên liệu hóa thạch, rác, từ dòng chảy từ đô thị, nông nghiệp, nước thải... 
Mức kim loại được phát hiện ở sông thường lớn hơn ở đại dương bởi vì các 
nguồn xả thải chứa kim loại thường được đưa trực tiếp vào sông. Sự thay đổi nồng 
độ kim loại ở sông thì được dễ phát hiện bởi vì nó có tốc độ dòng chảy lớn. Các kim 
loại như cacminid, thủy ngân và chì thì liên quan chặt chẽ đến sự thay đổi về mật độ 
dân cư dọc theo sông và sự thay đổi dòng chảy theo mùa. (Rand và Barthalmus, 
1980; Fergusson, 1990). Nồng độ kim loại thay đổi ngược lại với tốc độ dòng chảy 
của sông. Tương tự, trầm tích sẽ càng ít kim loại khi nó ở càng xa các nguồn thải. 
Các nghiên cứu ở sông Rhine ở phía tây Châu âu đã cho thấy rằng nồng độ cacmidi 
giảm thấp khi có sự gia tăng tốc độ dòng chảy của sông vào mùa đông và nồng độ 
cacmidi tăng cao khi tốc độ dòng chảy giảm thấp vào mùa hè và mùa thu. Nồng độ 
cacmidi tăng nhanh khi về phía ngã 3 của sông Rhine và sông Ruhr và nó sẽ giảm 
dần dần ở 50 km kế tiếp. 
- Trong số các chức năng khác của sông, thì sông Rhine ở phía tây Châu âu 
đóng chức năng như là nơi chứa chất thải đô thị và công nghiệp cho các nước mà nó 
chảy qua. (Rand và Barthalmus, 1980). Từ hồ Constance đến Biển bắc, sông ranh 
chảy trên 1230 km qua một số khu công nghiệp hóa ở phía tây châu âu. Các kim 
loại nặng là các dạng rất nguy hiểm đối với sinh vật thủy sinh bởi nó tồn tại ở các 
dạng hợp chất bền vững. Nó rất khó mất đi bởi bất kỳ quá trình tự nhiên nào. Các 
cation kim loại khác như Ca, Na, K, Mg, và Fe tạo thành các muối hòa tan với Cl- , 
SO42- , NO3- , HCO3- và PO43-. Sông Rhine có một lượng lớn muối này là kết quả 
của việc bào mòn, mưa, và các nguồn thải từ khai thác mỏ và công nghiệp. 
Các mức kim loại nặng trong nước ở các vùng cửa sông, bờ biển, và trầm tích 
thay đổi lớn, phụ thuộc vào nguồn vào. Rất nhiều nguồn nước vào vùng cửa sông là 
có nguồn gốc từ nước khí quyển, và đến 93% kim loại nặng đi vào cửa sông sẽ bị 
giữ lại (Fergusson, 1990). 
Khí quyển là nhân tố phân bố chính của kim loại nặng vào đại dương. Đặc biệt 
là chì, với 90% lượng chì trong đại dương là có nguồn gốc từ khí quyển (Fergusson, 
1990). Chì có trong nước của vùng North Pacific có mối liên hệ với nguồn gốc từ 
quá trình giải phóng chì do sử dụng xe hơi và luyện kim Nồng độ thủy ngân trong 
nước bề mặt của biển Atlantic thay đổi theo mùa là do nguyên nhân sự xả thải vào 
khí quyển của nước Mỹ (Lelan và Kuwabara, 1985) 
Nồng độ của các kim loại nặng trong trầm tích đại dương thì thay đổi theo 
vùng địa lý (Fergusson, 1990). Nồng độ cao thường thấy trong nước ở ven biển vì 
bó gần các nguồn xả thải. 
Sự ô nhiễm môi trường sinh vật thủy sinh bởi kim loại trên toàn cầu.