Trong vòng năm năm qua, kể từ ngày đề án thí điểm tập đoàn kinh tế nhà nước đầu tiên được Thủ tướng phê duyệt, Việt Nam đã nhanh chóng cho ra đời được 12 tập đoàn. Các doanh nghiệp này đang nắm lượng tài sản khổng lồ của quốc gia và đóng vai trò nòng cốt trong việc thực hiện một số chính sách lớn về phát triển. Do vậy, hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của cả nền kinh tế nói chung. Thế mà mô hình tổ chức, cơ cấu quản lý và quản trị các tập đoàn lại đang là vấn đề lớn cần nghiên cứu hoàn thiện.
Việc tập đoàn Vinashin mất khả năng trả nợ và đứng bên bờ vực phá sản, buộc Chính phủ phải cơ cấu lại, là tiếng chuông cảnh báo về những bất cập trong tổ chức, quản lý hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước. Sự thiếu hoàn thiện có thể được nhận diện trên nhiều khía cạnh, từ mục tiêu thành lập, ngành nghề kinh doanh, cho đến cơ cấu tổ chức, quản lý điều hành trong tập đoàn, vấn đề quản lý cũng như các quy định về quản lý đầu tư trong tập đoàn kinh tế nhà nước.
23 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1937 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Giải pháp phát triển các Tập đoàn kinh tế Nhà nước và tái cấu trúc Khu vực kinh tế Nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong vòng năm năm qua, kể từ ngày đề án thí điểm tập đoàn kinh tế nhà nước đầu tiên được Thủ tướng phê duyệt, Việt Nam đã nhanh chóng cho ra đời được 12 tập đoàn. Các doanh nghiệp này đang nắm lượng tài sản khổng lồ của quốc gia và đóng vai trò nòng cốt trong việc thực hiện một số chính sách lớn về phát triển. Do vậy, hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của cả nền kinh tế nói chung. Thế mà mô hình tổ chức, cơ cấu quản lý và quản trị các tập đoàn lại đang là vấn đề lớn cần nghiên cứu hoàn thiện.
Việc tập đoàn Vinashin mất khả năng trả nợ và đứng bên bờ vực phá sản, buộc Chính phủ phải cơ cấu lại, là tiếng chuông cảnh báo về những bất cập trong tổ chức, quản lý hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước. Sự thiếu hoàn thiện có thể được nhận diện trên nhiều khía cạnh, từ mục tiêu thành lập, ngành nghề kinh doanh, cho đến cơ cấu tổ chức, quản lý điều hành trong tập đoàn, vấn đề quản lý cũng như các quy định về quản lý đầu tư trong tập đoàn kinh tế nhà nước.
Trong bối cảnh lạm phát và khủng hoảng toàn cầu như hiện nay, chúng ta nhận thấy rằng tái cấu trúc kinh tế là một biện pháp, một quá trình và hiện đang là vấn đề nóng của nhiều nền kinh tế trên thế giới và của cả VN. Bài tiểu luận này sẽ đi sâu vào phân tích tình hình hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước, tái cấu trúc khu vực kinh tế như thế nào. Từ đó, đưa ra những kiến nghị, giải pháp phát triển các Tập đoàn kinh tế Nhà nước và tái cấu trúc Khu vực kinh tế Nhà nước ở Việt Nam.
Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề cơ bản liên quan đến TĐKTNN và tái cấu trúc khu vực kinh tế nhà nước.
Phân tích thực trạng hoạt động của các TĐKTNN và tình hình tái cấu trúc khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam.
Đề xuất các giải pháp và kiến nghị phát triển các TĐKTNN và tái cấu trúc khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn liên quan đến TĐKTNN và tình hình tái cấu trúc khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu tình hình hoạt động chung của tất cả các TĐKTNN và các TCT thuộc khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam. Nghiên cứu sâu vào một số TĐKTNN tiêu biểu.
Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng phương pháp luận cơ bản, chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu là phép biện chứng duy vật. Vận dụng phương pháp luận chung; phương pháp cụ thể là logic lịch sử, phân tích và tổng hợp so sánh, theo dõi, thống kê, mô hình hóa.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC
Lược sử hình thành các TĐKTNN ở Việt Nam
Ý tưởng thành lập các TCT lớn để từ đó phát triển thành các TĐKT được đánh dấu bởi Quyết định 91/TTg ngày 7/3/1994 của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Trên cơ sở Quyết định này, 18 TCT - thường được gọi là TCT 91 - được thành lập.
Gần 10 năm sau, Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX) của Đảng về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN nêu rõ chủ trương “hình thành một số TĐKT mạnh dựa trên cơ sở các TCT nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế.”
Cho đến nay, Chính phủ đã thành lập 12 TĐKTNN, đó là: Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, Tập đoàn Dệt may Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Bảo Việt, Tập đoàn Viễn thông Quân đội, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Xây dựng Việt Nam, Tập đoàn Phát triển nhà và đô thị Việt Nam.
Khái niệm TĐKTNN
Tập đoàn kinh tế Nhà nước – Theo Nghị định 101/2009/NĐ-CP v/v Thí điểm thành lập, tổ chức, hoạt động và quản lý TĐKTNN quy định: TĐKTNN là nhóm công ty có quy mô lớn liên kết dưới hình thức công ty mẹ - công ty con và các hình thức khác, tạo thành tổ hợp các doanh nghiệp gắn bó chặt chẽ và lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác.
Theo đó, TĐKTNN bao gồm: Công ty mẹ ( gọi tắt là DN cấp I), Công ty con của DN cấp I (gọi tắt là DN cấp II); Công ty con của DN cấp II và các cấp tiếp theo; và các DN liên kết của tập đoàn. Trong đó, công ty mẹ là DN do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc giữ nguyên chi phối theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Công ty con của DN cấp I do DN cấp I giữa quyền chi phối; được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn 1 hoặc hơn 2 thành viên trở lên, công ty con ở nước ngoài…
Đặc trưng cơ bản của TĐKTNN ở Việt Nam
Được hình thành chủ yếu từ việc chuyển đổi và tổ chức lại các TCT nhà nước theo quyết định của Chính phủ.
Hoạt động trong những ngành kinh tế mũi nhọn, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế theo mục tiêu chiến lược phát triển của từng tập đoàn mà tư nhân và các thành phần kinh tế khác khó có thể thực hiện được do hạn chế về năng lực tài chính hoặc kinh nghiệm quản lý; là một trong những công cụ điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ.
Hoạt động theo mô hình công ty mẹ – công ty con.
Hợp tác và liên kết kinh doanh giữa các đơn vị trong TĐKT được nâng cao; quan hệ chặt chẽ giữa các đơn vị thành viên về đầu tư vốn và tài chính, thị trường, phân công chuyên môn hóa, nghiên cứu và phát triển, thể hiện rõ nét đặc trưng quan hệ giữa các doanh nghiệp thành viên trong TĐKT.
Về việc thực hiện quyền sở hữu: Việc phân công, phân cấp thực hiện quyền chủ sở hữu được quy định cụ thể nhưng không thành lập một cơ quan riêng để quản lý, giám sát hoạt động của các tập đoàn mà vẫn sử dụng bộ máy quản lý hành chính của các bộ. Quan hệ giữa tập đoàn với bộ, ngành và Chính phủ: Nhà nước là chủ sở hữu của TĐKTNN ở Việt Nam. Chính phủ thống nhất thực hiện quyền của chủ sở hữu nhà nước đối với công ty mẹ và đối với phần vốn nhà nước tại TĐKTNN.
Quản lý, giám sát đối với TĐKTNN được thực hiện theo các phương thức: Thông qua chế độ báo cáo của hội đồng quản trị công ty mẹ; thông qua thực hiện kiểm toán tại công ty mẹ và các đơn vị thành viên; thông qua thực hiện chế độ báo cáo định kỳ và đột xuất của công ty mẹ; thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát, đánh giá của các cơ quan theo quy định của pháp luật.
Vai trò của TĐKTNN
Góp phần quan trọng vào tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế đất nước, tạo nguồn ngoại tệ và nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, hạn chế nhập siêu, đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Thực hiện vai trò chi phối, bảo đảm việc sản xuất, cung ứng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế; là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, bảo đảm cân đối cung – cầu và giữ ổn định giá các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế (xăng dầu, điện, đạm, khí hóa lỏng, than…) để bình ổn thị trường, kiềm chế lạm phát, chống giảm phát.
Là đầu tàu đi trước, mở đầu, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế phát triển.
Nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở huy động, tập trung các nguồn lực, tăng nhanh năng lực sản xuất, đầu tư trong các ngành đòi hỏi công nghệ cao và nhu cầu vốn lớn, lĩnh vực then chốt.
Thực hiện sự gắn kết giữa nghiên cứu, triển khai, ứng dụng khoa học – công nghệ, đào tạo và sản xuất, kinh doanh.
Cùng với việc tập trung mở rộng phát triển ở trong nước, các TĐKT đã vươn ra đầu tư mạnh ở nước ngoài, thương hiệu ngày càng được khẳng định, góp phần tạo dựng được hình ảnh và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Là lực lượng quan trọng của Nhà nước trong việc bảo đảm an ninh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và khẳng định chủ quyền quốc gia, bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực, bảo vệ môi trường.Là lực lượng chủ lực cùng Chính phủ và xã hội thực hiện các chương trình an sinh xã hội vì cộng đồng.
Mô hình của TĐKTNN:
Hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con
Công ty mẹ (Parent company) là một thực thể pháp lý có ít nhất một đơn vị trực thuộc. Công ty mẹ (gọi tắt là doanh nghiệp cấp I) là doanh nghiệp do Nhà nước giữ 100% vốn hoặc giữ quyền chi phối theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ
Công ty con của doanh nghiệp cấp I (gọi tắt là doanh nghiệp cấp II) là các doanh nghiệp do doanh nghiệp cấp I giữ quyền chi phối; được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một hoặc hai thành viên trở lên, tổng công ty theo hình thức công ty mẹ – công ty con, công ty liên doanh (trong trường hợp chưa đăng ký lại theo Luật Doanh nghiệp), công ty con ở nước ngoài
Đặc trưng của quan hệ công ty mẹ - công ty con
Công ty mẹ và công ty con là hai thực thể pháp lý độc lập, có sản nghiệp riêng (pháp nhân kinh tế đầy đủ).
Công ty mẹ có lợi ích kinh tế nhất định liên quan đến hoạt động của công ty con.
Công ty mẹ chi phối đối với các quyết định liên quan đến hoạt động của công ty con thông qua một số hình thức như quyền bỏ phiếu chi phối đối với các quyết định của công ty con, quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm HĐQT, ban lãnh đạo hoặc quyền tham gia quản lý, điều hành.
Vị trí công ty mẹ và công ty con chỉ trong mối quan hệ giữa hai công ty với nhau và mang tính tương đối, tức công ty con này có thể là công ty mẹ của một công ty khác.
Trách nhiệm của công ty mẹ đối với công ty con nói chung là trách nhiệm hữu hạn.
Về mặt lý thuyết, mô hình quan hệ này sẽ tạo cho cơ cấu tổ chức của các công ty trong nhóm có chiều sâu không hạn chế; tức công ty mẹ, công ty con, công ty cháu...
Ưu điểm của mô hình công ty mẹ - công ty con
Thứ nhất, với mối quan hệ theo mô hình công ty mẹ – công ty con, công ty mẹ còn có thể thực hiện được chiến lược chuyển giá (price transferring), nhất là trong những trường hợp các doanh nghiệp lập cơ sở kinh doanh ở nước ngoài.
Thứ hai, với mô hình này, các doanh nghiệp có thể thực hiện được sự liên kết với các doanh nghiệp khác nhằm giảm cạnh tranh, tăng độc quyền của thiểu số, cùng phối hợp hay chia sẻ các nguồn lực, tận dụng các thế mạnh của các cổ đông... bằng cách cùng nhau đầu tư lập các công ty con.
Thứ ba, mô hình công ty mẹ – công ty con cho phép các doanh nghiệp chủ động hơn trong việc bố trí và tái bố trí lại cơ cấu đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau theo chiến lược phát triển của doanh nghiệp bằng việc mua hoặc bán cổ phần của mình trong các công ty con.
Cuối cùng, mô hình công ty mẹ – công ty con cho phép một doanh nghiệp huy động vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh bằng cách thành lập công ty con mới trong điều kiện vừa có thể kiểm soát được doanh nghiệp mới thành lập một cách hữu hiệu thông qua cổ phần khống chế, vừa không bị các nhà đầu tư chi phối đối với doanh nghiệp cũ.
Nhược điểm của mô hình công ty mẹ - công ty con
Công ty mẹ hầu hết vẫn là công ty 100 % vốn nhà nước, chưa dám cổ phần hóa nên nguồn lực tài chính của công ty mẹ còn yếu nên chưa thực sự làm được vai trò của công ty mẹ. Một số công ty mẹ - công ty con vẫn chưa thông thạo cách điều hành theo cơ chế mới, có khi vẫn lặp lại cách chỉ huy hành chính mệnh lệnh.
Chưa tạo được cơ chế thay đổi đội ngũ cán bộ điều hành, nhất là cán bộ chủ chốt, khi chuyển sang hoạt động yếu kém, sử dụng quá nhiều nguồn lực, được quá nhiều ưu ái, ưu đãi kể cả lúc kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn, cạnh tranh không bình đẳng, không làm tròn vai trò nòng cốt của nền kinh tế thậm chí đã trở thành gánh nặng cho nền kinh tế, lũng đoạn thông qua quan hệ, coi trọng lợi ích nhóm, các tập đoàn kinh tế được xem là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát vào năm 2008.
Mô hình công ty mẹ - công ty con
Công ty mẹ có chức năng trực tiếp sản xuất kinh doanh và đầu tư tài chính vào doanh nghiệp khác hoặc chỉ thực hiện việc đầu tư tài chính vào doanh nghiệp khác. Công ty mẹ có các quyền, nghĩa vụ của công ty nhà nước quy định tại Chương III của Luật Doanh nghiệp nhà nước; thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với phần vốn đầu tư vào các công ty con và công ty liên kết.
Công ty mẹ có cơ cấu quản lý gồm Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc, các Phó tổng giám đốc, kế toán trưởng và bộ máy giúp việc. Bộ máy quản lý của công ty mẹ là bộ máy của Tổng công ty.
TÁI CẤU TRÚC KHU VỰC KINH TẾ NHÀ NƯỚC
Khái niệm :
Tái cấu trúc được hiểu là quá trình thực hiện những thay đổi căn bản trong doanh nghiệp nhằm giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn, là quá trình tổ chức, sắp xếp lại doanh nghiệp nhằm tạo ra “trạng thái ” tốt hơn cho doanh nghiệp để thực hiện những mục tiêu đề ra.
Tái cấu trúc hiểu theo nghĩa rộng là một quá trình làm thay đổi căn bản trong doanh nghiệp thông qua việc thay đổi cấu trúc các bộ phận một cách thuần túy, thay đổi căn bản về sở hữu, cơ cấu vốn, HĐQT hay nhân sự quản lý cấp cao của doanh nghiệp hoặc thay đổi cả quy trình kinh doanh trên nền tảng và triết lý kinh doanh cũ. Tóm lại, tái cấu trúc nghĩa là thay đổi cấu trúc và những gì thuộc về cấu trúc bên trong của doanh nghiệp.
Tái cấu trúc hiểu theo nghĩa hẹp là thay đổi cơ cấu doanh nghiệp (thay đổi phòng, ban chức năng), thay đổi hệ thống doanh nghiệp (thay đổi công ty thành viên, chi nhánh, đại lý phân phối).
Các loại hình tái cấu trúc
Cổ phần hóa
Cổ phần hoá (CPH) là việc chuyển đổi hình thức đơn sở hữu sang đa sở hữu nhằm huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
Ở nước ta nói đến CPH tức là nói đến CPH các doanh nghiệp nhà nước. Theo điều 1 ở nghị định 109,CPH là sự chuyển đổi những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; huy động vốn của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài để nâng cao năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Ưu điểm
Chế độ trách nhiệm của công ty cổ phần là trách nhiệm hữu hạn, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi vốn góp nên mức độ rủi do của các cổ đông không cao;
Khả năng hoạt động của công ty cổ phần rất rộng, trong hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề;
Cơ cấu vốn của công ty cổ phần hết sức linh hoạt tạo điều kiện nhiều người cùng góp vốn vào công ty.
Khả năng huy động vốn của công ty cổ phần rất cao thông qua việc phát hành cổ phiếu ra công chúng, đây là đặc điểm riêng có của công ty cổ phần.
Việc chuyển nhượng vốn trong công ty cổ phần là tương đối dễ dàng, do vậy phạm vi đối tượng được tham gia công ty cổ phần là rất rộng, ngay cả các cán bộ công chức cũng có quyền mua cổ phiếu của công ty cổ phần.
Nhược điểm
Việc quản lý và điều hành công ty cổ phần rất phức tạp do số lượng các cổ đông có thể rất lớn, có nhiều người không hề quen biết nhau và thậm chí có thể có sự phân hóa thành các nhóm cổ động đối kháng nhau về lợi ích.
Việc thành lập và quản lý công ty cổ phần cũng phức tạp hơn các loại hình công ty khác do bị ràng buộc chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật, đặc biệt về chế độ tài chính, kế toán.
Việc cổ phần hóa chưa được thực hiện đều khắp trong các lĩnh vực.
Hình thức thực hiện cổ phần hóa ở VN
Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.
Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán bớt một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.
Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán toàn bộ vốnnhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.
Tái cấu trúc tài chính
Cấu trúc tài chính bao gồm nợ ngắn hạn, nợ trung và dài hạn, vốn chủ sở hữu được sử dụng để tài trợ cho quyết định đầu tư của doanh nghiệp. Cấu trúc tài chính trừ đi nợ ngắn hạn sẽ cho ta cấu trúc vốn của doanh nghiệp. Một cấu trúc vốn hợp lý phải đảm bảo sự hài hòa giữa vốn chủ sở hữu và các khoản nợ phải trả, có chi phí sử dụng vốn thấp và rủi ro chấp nhận được, phù hợp với điều kiện kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp. Sự kết hợp giữa hai nguồn vốn này phụ thuộc vào đặc điểm của ngành mà doanh nghiệp hoạt động, tùy thuộc vào quyết định của người quản lý trên cơ sở xem xét tình hình kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp.
Tái cấu trúc vốn là thật sự quan trọng và cần thiết cho mọi doanh nghiệp. Hiểu theo nghĩa hẹp, đây là quá trình tổ chức, sắp xếp lại các nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp thông qua việc lựa chọn và thực hiện các quyết định tài trợ của doanh nghiệp nhằm đạt được một cấu trúc vốn hợp lý, thích ứng với từng giai đoạn phát triển, thực hiện có hiệu quả các mục tiêu kinh doanh mà doanh nghiệp đề ra. Hiểu theo nghĩa rộng, quá trình này còn bao gồm cả việc lựa chọn và đa dạng hóa các kênh huy động vốn, tổ chức hoạt động kinh doanh hiệu quả, làm lành mạnh hóa tình hình tài chính...trong từng thời kỳ nhất định để từ đó gia tăng giá trị doanh nghiệp.
Đánh giá lại quy trình kinh doanh
Quy trình kinh doanh (gồm các chiến lược, các quy trình, công nghệ và con người) là yếu tố quan trọng cần tái cơ cấu. Doanh nghiệp cần xác lập lại mục tiêu để định ra chiến lược phát triển mới, có thể co hẹp lại, cũng có thể mở rộng ra ở một ngành hay lĩnh vực nhất định. Việc đánh giá lại tận gốc rễ quy trình hoạt động sản xuất kinh doanh có thể khiến doanh nghiệp phải thay đổi mạnh mẽ cơ cấu tổ chức và các quy trình thủ tục trong hoạt động, nhưng lại rất cần thiết.
Tái cấu trúc công tác quản trị
Quản trị doanh nghiệp yếu kém thì nhà đầu tư bên ngoài sẽ trả giá thấp cho giá trị doanh nghiệp. Ngân hàng, đối tác, khách hàng sẽ “tăng hệ số” cho doanh nghiệp nếu chất lượng quản trị tốt. Nói cách khác, vì người đi vay đạt điểm cao cho nhiều tiêu chí sẽ được vay dễ dàng hơn, lãi suất thấp hơn; người vay khong đủ tiêu chuẩn thì rủi ro cao hơn, lãi vay sẽ cao hơn. Do đó, để giảm thiểu chi phí vốn vay, việc nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp, kích thích sử dụng tối đa các nguồn lực, tạo môi trường cho sự sáng tạo ra đời cũng cần được chú trọng.
Tìm đối tác chiến lược và xây dựng văn hóa doanh nghiệp
Những đối tác ngắn hạn thường nhằm vào mục tiêu ngắn hạn. Trong giai đoạn khó khăn chỉ có đối tác chiến lược thực sự mới có thể tiếp tục chung vai sát cánh. Một đối tác chiến lược rất quan trọng mà do đặc thù lịch sử phát triển, nhiều doanh nghiệp thường bỏ qua, đó là đội ngũ nhân viên của doanh nghiệp.
Văn hóa công ty là nhân tố quan trọng gắn liền với thương hiệu, là nhân tố gắn kết nhân sự với công ty. Doanh nghiệp cần sự đoàn kết để có sức mạnh của tập thể vượt qua những lúc khó khăn. Việc xây dựng, vun đắp văn hóa doanh nghiệp đòi hỏi một quá trình lâu dài. Khi doanh nghiệp đạt đến một nền tảng văn hóa riêng thì người lãnh đạo phải biết khơi dậy nó đúng lúc để sức mạnh của doanh nghiệp được nhân lên bội phần. Đây chính là lúc văn hóa doanh nghiệp cần được khơi dậy mạnh mẽ nhất.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC VÀ TÌNH HÌNH TÁI CẤU TRÚC KHU VỰC KINH TẾ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
Trong báo cáo phát triển kinh tế xã hội có nói “Khu vực kinh tế nhà nước đang được tổ chức lại, đổi mới và chiếm 38,4% GDP, chi phối nhiều ngành kinh tế then chốt và tập trung hơn vào những lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế”. Còn trong Bản trình bày của Đoàn Chủ tịch về ý kiến thảo luận các đại biểu đối với văn kiện Đại hội X của Đảng CSVN có giải thích về vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước như sau: “…vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước không phải thể hiện ở số lượng doanh nghiệp nhiều hay ít, tỷ trọng đóng góp GDP cao hay thấp mà ở chỗ, đó là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển”. Chúng ta hãy xem xét “vai trò chủ đạo” của khu vực kinh tế nhà nước qua vài số liệu cụ thể như sau :
Vốn đầu tư
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong vòng 16 năm qua (1995 – 2010) tăng gấp hơn 10 lần (từ 72,4 nghìn tỷ đồng tăng lên 830,3 nghìn tỷ đồng), trong đó vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Từ năm 1998 đến năm 2003, tỷ trọng này luôn chiếm trên 50%, cao nhất là năm 2000, vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước chiếm 59,14%; sau đó có giảm trong những năm tiếp theo từ năm 2004 đến nay, cụ thể năm 2007 là 37,2%, năm 2008 là 33,9%, năm 2009 là 40,6%, năm 2010 là 38