Việt Nam đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế, để từng bước phát triển, hội nhập với nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới. Trải qua nhiều khó khăn, thử thách nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Để đạt được điều đó có sự đóng góp không nhỏ của ngành Ngân hàng với vai trò là " đòn bẩy kinh tế " thông qua hoạt động tín dụng.
Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ vốn cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sự phát triển cân đối của các ngành, các lĩnh vực khác theo định hướng của Nhà nước. Tín dụng ngân hàng đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng ngân hàng lại là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro.
Rủi ro trong hoạt động tín dụng không chỉ tác động tới bản thân ngân hàng thương mại mà còn tác động tiêu cực tới nền kinh tế. Chính vì vậy, công tác hạn chế rủi ro tín dụng luôn được các Ngân hàng thương mại quan tâm.
Xuất phát từ tính cấp thiết của vấn đề, sau thời gian thu thập tài liệu và đi thực tế tại Ngân hàng Công thương Ba Đình, tôi đã quyết định chọn đề tài : " Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng công thương Ba Đình ".
Mục đích nghiên cứu của tiểu luận này là :
- Nghiên cứu vấn đề rủi ro tín dụng trên phương diện lý thuyết: Bản chất của rủi ro tín dụng, các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng cũng như tác động của nó tới bản thân Ngân hàng thương mại và với nền kinh tế.
- Thông qua việc phân tích thực trạng hoạt động tín dụng của Ngân hàng công thương Ba Đình để đánh giá được tình hình rủi ro trong hoạt động tín dụng của Chi nhánh.
- Đưa ra một số ý kiến nhận xét và đề xuất các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình.
Để giải quyết từng vấn đề trên, tiểu luận được thiết kế làm 3 chương:
Chương 1 : Tín dụng và rủi ro trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại.
Chương 2 : Thực trạng rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình.
Chương 3 : Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng đối với Chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình.
29 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1197 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng công thương Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế, để từng bước phát triển, hội nhập với nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới. Trải qua nhiều khó khăn, thử thách nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Để đạt được điều đó có sự đóng góp không nhỏ của ngành Ngân hàng với vai trò là " đòn bẩy kinh tế " thông qua hoạt động tín dụng.
Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ vốn cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sự phát triển cân đối của các ngành, các lĩnh vực khác theo định hướng của Nhà nước. Tín dụng ngân hàng đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng ngân hàng lại là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro.
Rủi ro trong hoạt động tín dụng không chỉ tác động tới bản thân ngân hàng thương mại mà còn tác động tiêu cực tới nền kinh tế. Chính vì vậy, công tác hạn chế rủi ro tín dụng luôn được các Ngân hàng thương mại quan tâm.
Xuất phát từ tính cấp thiết của vấn đề, sau thời gian thu thập tài liệu và đi thực tế tại Ngân hàng Công thương Ba Đình, tôi đã quyết định chọn đề tài : " Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng công thương Ba Đình ".
Mục đích nghiên cứu của tiểu luận này là :
- Nghiên cứu vấn đề rủi ro tín dụng trên phương diện lý thuyết: Bản chất của rủi ro tín dụng, các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng cũng như tác động của nó tới bản thân Ngân hàng thương mại và với nền kinh tế.
- Thông qua việc phân tích thực trạng hoạt động tín dụng của Ngân hàng công thương Ba Đình để đánh giá được tình hình rủi ro trong hoạt động tín dụng của Chi nhánh.
- Đưa ra một số ý kiến nhận xét và đề xuất các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình.
Để giải quyết từng vấn đề trên, tiểu luận được thiết kế làm 3 chương:
Chương 1 : Tín dụng và rủi ro trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại.
Chương 2 : Thực trạng rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình.
Chương 3 : Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng đối với Chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình.
CHƯƠNG 1
TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng
Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền cam kết hoàn trả theo điều kiện đã thoả thuận.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng với các tổ chức kinh tế và cá nhân thể hiện dưới hình thức nhận tiền gửi của khách hàng, cho khách hàng vay, tài trợ thuê mua, bảo hành hay chiết khấu....
2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với nền kinh tế quốc dân
Thứ nhất, tín dụng Ngân hàng thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp, không chỉ đối với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế Nhà nước mà còn tác động đến cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Tín dụng thúc đẩy sự ra đời của các thành phần kinh tế theo mục tiêu phát triển của đất nước.
Thứ hai, tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế để thực hiện tái sản xuất mở rộng, ứng dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế, tạo nhiều sản phẩm hàng hóa tiêu dùng nội địa và xuất khẩu.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các dự án tạo việc làm, tăng thu nhập, thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, và các chương trình, dự án mang tính xã hội khác.
Thứ tư, tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn sản xuất mở rộng quá trình phân công lao động xã hội và hợp tác kinh tế trong nước và quốc tế.
Thứ năm, thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng, Nhà nước có thể kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế để đề ra các biện pháp chính sách quản lý kinh tế và pháp lý phù hợp.
Phát huy vai trò của tín dụng ngân hàng để đạt mục tiêu phát triển là một nhiệm vụ đầy khó khăn thử thách. Song song với việc này là phải đảm bảo an toàn tín dụng và đó là mục tiêu lớn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM nói chung và của Chi nhánh NHCT Ba Đình nói riêng.
II. RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm rủi ro
Rất có nhiều cách quan niệm khác nhau về rủi ro tuỳ thuộc vào chủ thể và hoạt động của chủ thể đó trong mối quan hệ với các yếu tố khác của môi trường. Tuy nhiên , các quan niệm đó đều thống nhất một nội dung coi rủi ro là sự bất trắc không mong đợi , gây ra thiệt hại và có thể đo lường được .
Như vậy , trong hoạt động kinh tế nói chung và trong hoạt động Ngân hàng nói riêng thì vấn đề rủi ro là không thể tránh khỏi. Vì thế , các nhà quản trị không thể loại bỏ được rủi ro mà chỉ có thể phát hiện kịp thời để có những biện pháp chủ động xử lý. Trong sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường hiện nay, các nhà quản trị phải biết nhận biết và dự đoán trước các rủi ro để sớm đưa ra các giải pháp phòng ngừa chống đỡ tác hại của nó.
2. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại
Rủi ro tồn tại trong hoạt động kinh doanh dưới các hình thức khác nhau. Do đặc điểm đặc thù của hoạt động Ngân hàng làm cho hoạt động này có độ rủi ro rất lớn. Có các loại rủi ro chủ yếu sau trong hoạt động của NHTM.
* Rủi ro tín dụng:
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của NHTM. Nguồn thu từ hoạt động tín dụng luôn chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng thu nghiệp vụ ngân hàng và đem lại phần lớn lợi nhuận cho Ngân hàng.
* Rủi ro lãi suất:
Đây là loại rủi ro mang tính xã hội, nó ảnh hưởng đến hầu hết các tổ chức kinh tế , các cá nhân trong nền kinh tế quốc dân.
* Rủi ro nguồn vốn:
- Rủi ro do thừa vốn:
Như ta biết, nguồn vốn hoạt động chủ yếu của NHTM là nguồn vốn huy động. Để huy động được vốn Ngân hàng phải trả lãi cho người gửi tiền. Nếu số vốn này bị ứ đọng, không thể cho vay hoặc đầu tư vào các loại tài sản có thể sinh lời trong khi ngân hàng vẫn phải trả lãi cho số vốn đã huy động thì có nghĩa là các thiệt hại của ngân hàng đang diễn ra.
- Rủi ro do thiếu vốn:
Loại rủi ro này xảy ra khi Ngân hàng không đáp ứng được các nhu cầu cho vay và đầu tư, thậm chí không đủ vốn để thanh toán cho người gửi tiền khi đến hạn.
* Rủi ro hối đoái:
Rủi ro hối đoái là loại rủi ro do sự biến động của tỷ giá hối đoái. Nếu tỷ giá hối đoái bán ra lớn hơn tỷ giá mua vào thì nhà kinh doanh có lãi, ngược lại thì bị lỗ. Sự thay đổi tỷ giá dẫn đến sự thay đổi về giá trị ngoại hối.
* Rủi ro trong thanh toán:
Một ngân hàng hoạt động bình thường phải đảm bảo được khả năng thanh toán. Khả năng thanh toán tức là đáp ứng được các nhu cầu thanh toán hiện tại, đột xuất khi có vấn đề nảy sinh và đáp ứng được khả năng thanh toán trong tương lai. Khi ngân hàng thiếu khả năng thanh toán, nếu không được giải quyết một cách kịp thời có thể dẫn đến mất khả năng thanh toán. Khi ngân hàng thừa khả năng thanh toán sẽ dẫn đến ứ đọng vốn, làm giảm khả năng sinh lời, thu nhập của ngân hàng giảm.
* Rủi ro thuần tuý:
Đây là loại rủi ro khách quan do thiên tai gây ra như: lụt lội, động đất, hoả hoạn hoặc do bị mất trộm, bị lừa đảo, tham nhũng... làm thiệt hại hay phá huỷ các tài sản của ngân hàng.
* Rủi ro mất khả năng thanh toán;
Đây là loại rủi ro đặc trưng của NHTM liên quan đến sự sống còn của ngân hàng, nó là hậu quả của một hoặc nhiều loại rủi ro kể trên dẫn đến việc NHTM bị thua lỗ, không có khả năng trả nợ cho người gửi tiền khi đến hạn hoặc không có đủ tiền nhất thời để chi trả cho nhu cầu rút tiền ồ ạt của khách hàng tại một thời điểm.
3. Rủi ro tín dụng
* Các hình thức của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng xảy ra khi người vay không trả được nợ lãi và nợ gốc đúng hạn, đầy đủ.
- Không thu được lãi đúng hạn:
Cấp độ thấp nhất là khi người vay không trả được lãi đúng hạn, khi đó Ngân hàng sẽ chuyển số lãi đó vào khoản mục lãi treo phát sinh.
- Không thu được vốn đúng hạn:
Khi không thu được vốn đúng hạn tình hình dường như nghiêm trọng hơn, một phần do một lượng vốn cho vay lớn bị mất .
- Không thu được đủ lãi:
Khi Ngân hàng không thu được đủ lãi thì tình hình đã trở nên nghiêm trọng hơn. Tình hình kinh doanh của khách hàng có thể đã kém hiệu quả đến mức không thể trả đủ lãi cho Ngân hàng.
- Không thu đủ vốn cho vay:
Tình huống xấu nhất xảy ra khi ngân hàng không thu đủ vốn cho vay và lúc này Ngân hàng đã bị mất vốn. Tại thời điểm này , Ngân hàng sẽ chuyển khoản nợ vào mục nợ không có khả năng thu hồi hoặc phải xoá nợ, coi như khép lại một hợo đồng tín dụng không có hiệu quả.
* Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng :
- Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh:
Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường pháp lý trong nước: Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng cũng như các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
- Nguyên nhân từ phía khách hàng :
Trong trường hợp này, rủi ro tín dụng xảy ra do các doanh nghiệp thực sự làm ăn thua lỗ không có khả năng trả được nợ cho ngân hàng.
- Khách hàng gian lận:
Trong hoạt động tín dụng, Ngân hàng không thể tránh khỏi trường hợp khách hàng cố tình lừa gạt ngân hàng.
+ Khách hàng không gian lận:
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải chịu sự cạnh tranh gay gắt và để tồn tại thì các doanh nghiệp phải nỗ lực hết mình trong những quan hệ phức tạp của xã hội. Tuy nhiên, rủi ro vẫn là điều không thể tránh khỏi.
- Nguyên nhân từ phía Ngân hàng:
Ngoài những nguyên nhân trên, rủi ro tín dụng còn xuất phát từ chính bản thân Ngân hàng.
* Dấu hiệu của rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng ẩn chứa trong những khoản vay có vấn đề và biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
* Tác động của rủi ro tín dụng:
- Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận Ngân hàng:
- Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của Ngân hàng:
- Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của Ngân hàng:
- Rủi ro tín dụng đã làm giảm uy tín của Ngân hàng và ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. NHTM gặp nhiều rủi ro là Ngân hàng hoạt động kém hiệu quả.
- Rủi ro tín dụng là nguy cơ dẫn đến phá sản Ngân hàng:
Ngân hàng gặp rủi ro tín dụng đã làm giảm sút lòng tin đặc biệt là đối với dân chúng. Họ lo sợ bị mất những khoản tiền đã gửi và sẽ đến rút tiền để tìm cơ hội đầu tư có lợi hơn ở một Ngân hàng khác. Trường hợp nghiêm trọng xảy ra khi có quá nhiếu người đến rút tiền tại cùng một thời điểm và Ngân hàng sẽ không đủ tiền mặt để thanh toán, làm cho khách hàng tin rằng Ngân hàng có nguy cơ phá sản và sẽ đổ xô đến rút tiền về dẫn đến sự phá sản thực sự của Ngân hàng.
Hậu quả của sự phá sản Ngân hàng không chỉ bản thân Ngân hàng phải gánh chịu mà nó còn liên quan đến các Ngân hàng bạn có quan hệ với Ngân hàng. Điều này sẽ tạo ra một phản ứng dây chuyền gây ra sự phả sản hàng loạt của các ngân hàng khác ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực vừa qua bắt nguồn từ sự đổ vỡ của hệ thống các NHTM đã làm cho nền kinh tế của các nước trong khu vực bị điêu đứng. Chính điều này đã gây ra những rối loạn về an ninh, chính trị, xã hội... kéo theo hàng loạt những hậu quả khác như: Thất nghiệp, lạm phát, tệ nạn xã hội nảy sinh. Đây là những bài học thấm thía có nguồn gốc từ những rủi ro tín dụng của NHTM.
4. Thực trạng rủi ro tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay
Thực hiện đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần để huy động và sử dụng có hiệu qủa các nguồn vốn của mọi thành phần kinh tế, bảo vệ lợi ích hợp pháp của dân cư, tổ chức kinh tế tham gia vào các hoạt động tín dụng, tăng cường hiệu quả quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh tiền tệ, ngày 25/5/1990, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (nay là Chủ tịch nước ) đã ký lệnh số 37 về Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và lệnh số 38 về Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính.
Hiện nay, hầu hết các NHTM Việt Nam đều có nợ quá hạn, tỷ lệ nợ quá hạn bình quân ở mức trên 5% (cá biệt có một số Ngân hàng ở mức trên 10%), trong khi đó thông lệ quốc tế chỉ cho phép ở mức 1-2%. Như vậy, vấn đề nợ quá hạn ở các NHTM Việt Nam là rất đáng lo ngại.
Bên cạnh nợ quá hạn còn có rủi ro tiềm ẩn trong số dư nợ không có vấn đề. Nếu tách hết số dư nợ quá hạn ra khỏi tổng dư nợ còn lại dư nợ bình thường hay dư nợ không có vấn đề, nhưng ở một số ngân hàng số dư nợ này vẫn buộc phải được quan tâm chặt chẽ. Trong số dư nợ bình thường đó vẫn ẩn chứa nhiều vấn đề không bình thường dễ gây rủi ro tín dụng ví dụ như số dư nợ đã được gia hạn nhiều lần hay đảo nợ.
Mức dư nợ tín dụng thấp, chất lượng tín dụng kém của các NHTM có nhiều nguyên nhân khác nhau, song nguyên nhân cơ bản là các vấn đề bất cập trong các vấn đề về tài sản cầm cố, thế chấp. Sự phối hợp giữa các nghành về các thủ tục công chứng, đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng, xác nhận của các cơ quan quản lý tài sản còn thiếu. Điều này đã gây nhiều khó khăn cho các NHTM trong hoạt động tín dụng. Giấy tờ nhà đất có thể không đầy đủ hợp lệ, nếu không cho vay thì ứ đọng vốn còn nếu cho vay thì rủi ro cao, tài sản bảo đảm khó thu hồi. Hơn nữa, vấn đề xử lý tài sản thế chấp còn nhiều phức tạp, bất cập trải qua các thủ tục hành chính rườm rà dưới sự quản lý của nhiều cơ quan khác nhau gây khó khăn cho việc thu hồi nợ của ngân hàng.
Ngoài những vấn đề bất cập về tài sản thế chấp còn một số nguyên nhân gây ra tình trạng nợ quá hạn như:
Về phía Ngân hàng: Việc xác định kỳ hạn cho vay, kỳ hạn trả nợ chưa phù hợp với phương án vay vốn của khách hàng. Việc kiểm tra kiểm soát các khoản vay chưa chặt chẽ hoặc chỉ coi trọng tài sản thế chấp mà không quan tâm đúng mức đến phương án vay vốn của khách hàng.
Về phía khách hàng: Nguồn trả nợ ngân hàng từ phương án vay vốn không theo đúng tiến độ đã đề ra do : Sử dụng vốn vay sai mục đích để đầu cơ hay dự đoán sai về thị trường dẫn đến sản xuất ra nhưng không tiêu thụ được, hàng hoá tồn đọng do đó không thu hồi được vốn trả nợ ngân hàng...
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH
I. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH
Ngân hàng công thương Ba đình được thành lập năm 1961 với tư cách là một chi nhánh của Ngân hàng Nhà nước quận Ba Đình, thực hiện cả hai chức năng quản lý Nhà nước và kinh doanh tiền tệ.
Nghị định 53/HĐBT ban hành ngày 26/3/1988 với nội dung đổi mới hoạt động ngân hàng đã chính thức chuyển hoạt động của NHCT Ba Đình sang thời kỳ kinh doanh tiền tệ chuyên nghiệp.
Ngày 14/11/1990 Chủ tịch HĐBT ra quyết định 402/CT về việc thành lập Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương Ba Đình trở thành một Chi nhánh của NHCT Thành phố Hà Nội.
Tháng 4/1993 NHCT đổi mới cơ chế tổ chức và quản lý từ mô hình ba cấp sang mô hình hai cấp , NHCT Ba Đình hoạt động với tư cách là Chi nhánh trực thuộc thẳng NHCT Việt Nam.
Trải qua nhiều thử thách khắc nghiệt của cơ chế thị trường, NHCT Ba Đình đã đứng vững vàng và luôn chứng tỏ là một Chi nhánh hoạt động có hiệu quả của hệ thống NHCT Việt Nam. Cùng với thời gian, NHCT Ba Đình đã từng bước hoàn thiện cả về cơ cấu tổ chức lẫn hoạt động nghiệp vụ.
Trong quá trình hoạt động, NHCT Ba Đình đã luôn bám sát các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các văn bản chỉ đạo của ngành ngân hàng nắm bắt kịp thời những thông tin của thị trường kết hợp với hoàn cảnh thực tế để có chiến lược kinh doanh phù hợp. Ngân hàng đã thực hiện mục tiêu tăng trưởng vốn huy động cả bằng VND và ngoại tệ tạo điều kiện thay đổi cơ cấu vốn huy động nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn đa dạng của khách hàng. Chính sách khách hàng cũng là một trong những biện pháp quan trọng làm tăng hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng luôn phục vụ khách hàng một cách thuận tiện, nhanh chóng, có chính sách ưu tiên, ưu đãi hợp lý, tích cực tìm kiếm khách hàng đến vay vốn cả trong địa bàn và những vùng lân cận. Đồng thời Ngân hàng cũng luôn có những biện pháp đầu tư mua sắm thiết bị, cải tiến kỹ thuật nghiệp vụ, phát triển các dịch vụ ngày càng hiện đại , thuận tiện và chính xác. Chính vì vậy NHCT Ba Đình đã mở rộng được thị trường cho vay và thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến giao dịch với Ngân hàng .
Đến cuối năm 1999, số khách hàng đến giao dịch với Chi nhánh đạt gần 1.400 người tăng so với năm 1998 trên 100 khách hàng và tổng số tài khoản hoạt động là 3.386 tài khoản. Số khách hàng có quan hệ tín dụng với Chi nhánh là 705 bao gồm 128 DNNN, 18 doanh nghiệp ngoài quốc doanh và 559 hộ tư nhân cá thể, trong đó có 60 khách hàng có dư nợ từ 1-5 tỷ VND, 18 khách hàng có dư nợ từ 5-10 tỷ VND và 19 khách hàng có số dư nợ trên 10 tỷ VND.
Trong những năm qua, NHCT Ba Đình luôn chứng tỏ là một Chi nhánh trong hệ thống NHCT Việt Nam đã tìm ra hướng đi đúng đắn, phát triển vững chắc, đạt hiệu quả kinh doanh cao. Những thành công mà Ngân hàng đã đạt được đặc biệt trong hoạt động tín dụng đã góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế thủ đô, nâng cao hiệu quả hoạt động chung của toàn hệ thống NHCT Việt Nam .
II. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH
Có thể nói trong những năm qua nền kinh tế nước ta liên tục phải đối mặt với nhiều khó khăn thử thách. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực giữa năm 1997 đã để lại hậu quả nặng nề làm tốc độ tăng trưởng của một số ngành chậm lại, thị trường trầm lắng, sức mua giảm sút, xu hướng cung vượt cầu xuất hiện ở nhiều loại hàng hoá. Đất nước lại phải chịu nhiều thiên tai liên tiếp đặc biệt là trong năm 1999, hạn hán lớn ở đầu năm và lũ lụt cuối năm ở các tỉnh miền trung gây ra nhiều thiệt hại nặng nề trên lĩnh vực kinh tế xã hội.
Tình hình trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động kinh doanh của NHCT Ba Đình nói riêng. Song dưới sự chỉ đạo sát sao của các cấp , các nghành, kết hợp với sự linh hoạt trong xử lý nghiệp vụ và có chiến lược kinh doanh thích hợp, NHCT Ba Đình đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, nguồn vốn tăng trưởng ổn định, dư nợ tín dụng lành mạnh ngày một tăng, các dịch vụ ngân hàng đều phát triển.
Với những thế mạnh của mình như uy tín, mạng lưới rộng, thái độ phục vụ nhiệt tình nhanh gọn, chính xác, thủ tục thuận lợi, hình thức huy động phong phú... NHCT Ba Đình ngày càng thu hút được nhiều khách hàng đến giao dịch, kết quả nguồn vốn của Chi nhánh luôn tăng trưởng ổn định chẳng những đáp ứng đủ nhu cầu đầu tư tín dụng mà còn thường xuyên nộp vốn thừa về NHCT Việt Nam để điều hoà toàn hệ thống.
Hoạt động tín dụng là hoạt động nghiệp vụ quan trọng quyết định hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, vì thế, NHCT Ba Đình luôn đặt ra mục tiêu mở rộng tín dụng, đồng thời hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất.
Mức dư nợ tín dụng cao đối với khu vực kinh tế quốc doanh là tình trạng chung của các NHTM Việt Nam và NHCT Ba Đình không phải là một ngoại lệ. Đó là do hoạt động tín dụng của Ngân hàng thực hiện theo định hướng của Nhà nước, tác động tích cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, khuyến khích sự phát triển lành mạnh của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
Tuy kém lợi thế so với khu vực kinh tế quốc doanh nhưng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vẫn là thị trường tiềm năng của Ngân hàng.
Mức tăng trưởng tín dụng ngắn hạn năm 1999 đạt được do NHCT Ba Đình đã áp dụng nhiều biện pháp chủ động, sáng tạo, triển khai kịp thời các chủ trương chỉ đạo của ngành; thái độ, phong cách giao dịch với tinh thần trách nhiệm cao; hoạt động tín dụng đảm bảo thông suốt, thuận tiện.
Về tín dụng trung dài hạn năm 1999, số dự án không nhiều, vốn đầu tư không lớn nhưng Chi nhánh đã kịp thời đầu tư vốn cho một số dự án khả thi Góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng trong những năm qua, NHCT Ba Đình đã thực hiện tốt công tác bảo lãnh gồm các món bảo lãnh trong nước hay bảo lãnh mở L/C trả chậm trung hạn. Ngoài hoạt động tín dụng, NHCT Ba Đình còn thực hiện các hoạt động kinh doanh ngoại tệ, các hoạt động dịch vụ khác như dịch vụ chi trả kiều hối, séc du lịch, dịch vụ thanh toán qua ngân hàng dưới các hình thức sử dụng séc, L/C nhập, L/C xuất, nhờ thu đi, thanh toán nhờ thu hay thanh toán chuyển tiền điện ( T/T ) ... Các hoạt động này đã góp phần nâng cao uy tín, thu hút khách hàng đến g