Theo các chuyên gia tài chính, do năng lực tài chính yếu kém (chưa kể sự hạn chế về chuyên môn và kinh nghiệm của một bộ phận nhân sự ở các DNBH) nên phần lớn DNBH Việt Nam còn lệ thuộc quá nhiều vào hoạt động tái BH. Điều đó thể hiện rất rõ trong nhiều khâu như đánh giá và quản lý rủi ro, tính phí BH, thiết kế sản phẩm, tổ chức kênh phân phối, giám định và bồi thường tổn thất.
Không những vậy, giữa các DNBH, hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh đã và đang diễn ra khá phổ biến, dưới nhiều hình thức khác nhau như: giảm phí BH tới mức không được phép, mở rộng điều khoản BH không đúng quy tắc và trả hoa hồng trực tiếp cho khách hàng, dùng áp lực để lôi kéo và ép khách hàng tham gia BH.
Về phía khách hàng, hiện tượng trục lợi BH đang ngày càng tăng, phổ biến là các trường hợp khai báo sai sự thật, giả mạo hồ sơ, giấy tờ, thậm chí tự gây thương tích để đòi tiền BH
28 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1400 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI TIỂU LUẬN MÔN HỌC BẢO HIỂM
“ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM VIỆT NAM ”
---o0o---
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM VIỆT NAM
1.1. THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM.
1.1.1. Những khó khăn của thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Theo các chuyên gia tài chính, do năng lực tài chính yếu kém (chưa kể sự hạn chế về chuyên môn và kinh nghiệm của một bộ phận nhân sự ở các DNBH) nên phần lớn DNBH Việt Nam còn lệ thuộc quá nhiều vào hoạt động tái BH. Điều đó thể hiện rất rõ trong nhiều khâu như đánh giá và quản lý rủi ro, tính phí BH, thiết kế sản phẩm, tổ chức kênh phân phối, giám định và bồi thường tổn thất...
Không những vậy, giữa các DNBH, hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh đã và đang diễn ra khá phổ biến, dưới nhiều hình thức khác nhau như: giảm phí BH tới mức không được phép, mở rộng điều khoản BH không đúng quy tắc và trả hoa hồng trực tiếp cho khách hàng, dùng áp lực để lôi kéo và ép khách hàng tham gia BH.
Về phía khách hàng, hiện tượng trục lợi BH đang ngày càng tăng, phổ biến là các trường hợp khai báo sai sự thật, giả mạo hồ sơ, giấy tờ, thậm chí tự gây thương tích để đòi tiền BH.
Khi những nhược điểm trên chưa được khắc phục thì ngành BH lại tiếp tục lao đao do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay. Thực trạng giảm sút đáng kể các hoạt động xuất khẩu của nước ta (nhất là vào các thị trường Mỹ, Nhật Bản và EU) đã khiến doanh thu phí BH của nghiệp vụ BH hàng hóa vận chuyển, BH thân tàu và BH trách nhiệm dân sự của chủ tàu sụt giảm mạnh.
Trong khi đó, hiệu quả huy động vốn đầu tư xã hội, vốn FDI và vốn ODA có dấu hiệu chững lại, nhiều dự án đã bị hoãn lại… đã ảnh hưởng khá nhiều đến khả năng khai thác tăng doanh thu phí của các DNBH phi nhân thọ.
Không những vậy, kinh tế suy giảm đã làm cho thu nhập của người dân giảm đi và hệ lụy tất yếu là “khan” khách hàng ở những nghiệp vụ BH du lịch, tai nạn, trợ cấp nằm viện phẫu thuật...; bên cạnh số khách hàng hủy hợp đồng cũng tăng lên. Thị trường tài chính-tiền tệ phập phù cũng ảnh hưởng không nhỏ đến lợi nhuận đầu tư của các DNBH…
1.1.2. Đối mới để phát triển.
Để tồn tại và tiếp tục phát triển, Tổng Giám đốc BH Bảo Việt Trần Trọng Phúc cho rằng, đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ, thay đổi tư duy quản trị, nâng cấp trình độ công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, là những ưu tiên hàng đầu của DNBH. Các DNBH trong nước cần tăng cường sự hợp tác, liên kết để phát huy hơn nữa những điểm mạnh về thương hiệu, mạng lưới kinh doanh và sự am hiểu khách hàng…
Còn theo Tổng Thư ký Hiệp hội BH Việt Nam Phùng Đắc Lộc, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, cụ thể là Luật Kinh doanh BH, cho phù hợp với cam kết WTO, tạo lập các cơ sở pháp lý mới để hỗ trợ DNBH triển khai các loại hình sản phẩm mới. Đồng thời phải có những chính sách linh hoạt, mềm dẻo trước diễn biến của cuộc khủng hoảng và sự tác động của nó đến thị trường BH.
Các chuyên gia tài chính cũng khuyến cáo các cơ quan chức năng cần theo dõi chặt chẽ diễn biến của thị trường tài chính và BH thế giới để giúp các DNBH Việt Nam có thể đưa ra những quyết sách đúng và kịp thời liên quan đến hoạt động tái BH và hoạt động đầu tư tài chính. Đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh BH và các hoạt động tài chính liên quan để phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hiện tượng bất thường cũng như kiên quyết xử lý các trường hợp chiếm dụng vốn và trục lợi BH.
Hiệp hội BH Việt Nam cũng phải chủ động nắm bắt thông tin liên quan, đưa ra những khuyến cáo kịp thời đối với các DNBH và cơ quan quản lý Nhà nước để hoạt động BH phát triển lành mạnh hơn.
Công ty Korea Life Việt Nam vừa triển khai dịch vụ “Nhắn tin liền. Bảo hiểm ngay!” và trở thành công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên tại Việt Nam ứng dụng tiện ích nhắn tin qua điện thoại di động.
Với dịch vụ này, ngay sau khi nhận được hồ sơ yêu cầu bảo hiểm và khoản phí bảo hiểm đầu tiên từ khách hàng, đại lý bảo hiểm sẽ gửi tin nhắn về tổng đài dịch vụ của công ty. Toàn bộ chi tiết tin nhắn, thời gian gửi tin và người gửi sẽ được dùng làm căn cứ để xác định thời điểm hiệu lực của bảo hiểm tạm thời nên sẽ đảm bảo tính khách quan trong việc bồi thường.(Ng.Quang).
1.2. BẢO HIỂM VIỆT NAM CÓ NHIỀU TIỀM NĂNG CẦN KHAI THÁC.
Năm 2006, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có bước phát triển khá hơn so với năm 2005. Số lượng công ty bảo hiểm tăng lên 37 doanh nghiệp bao gồm cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Doanh thu phí bảo hiểm của toàn thị trường đạt 1,82% GDP, tăng trưởng 14% so với năm 2005. Đây là dấu hiệu tốt, cho thấy thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển trong thời gian tới.
Về giải pháp phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam: đối với cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm là Bộ Tài chính, Vụ Bảo hiểm, cần phải tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật. Chính sách về bảo hiểm phải rõ ràng, minh bạch, đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Ngoài ra, giữa cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp phải thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ để cùng nhau nắm bắt thông tin. Đồng thời, tăng cường công tác giám sát, cưỡng chế của cơ quan quản lý đối với hoạt động bảo hiểm. Cần phối hợp với Hiệp hội Bảo hiểm thực thi những quy tắc đạo đức nghề nghiệp, đào tạo nguồn nhân lực.
Hiệp hội cần nhạy bén, nhanh nhạy hơn và đề ra những quy tắc cho hoạt động bảo hiểm. Đối với khối doanh nghiệp bảo hiểm, vấn đề đặt ra là phải làm sao nâng cao năng lực tài chính và cạnh tranh. Trên thị trường bảo hiểm đã có một số doanh nghiệp vốn lớn, song cũng có những doanh nghiệp nhỏ, tiềm lực tài chính thấp. Yêu cầu đặt ra lúc này là phải có kế hoạch tăng năng lực tài chính dưới mọi hình thức, kể cả liên doanh, liên kết. Có khá nhiều điều cần phải tăng cường hơn nữa trong thời gian tới như: kiểm tra, kiểm soát nội bộ, kiểm soát rủi ro, giám sát tính độc lập của hội đồng quản trị, cổ đông thiểu số, công bố thông tin, công khai, minh bạch tài chính kế toán.
Để mở rộng và phát triển thị trường bảo hiểm, bản thân các doanh nghiệp cũng cần đa dạng hóa các sản phẩm, xem xét phát triển thêm các kênh bán hàng khác bên cạnh kênh truyền thống là đại lý, nghiên cứu đưa ra các sản phẩm mới như bancassurance, bảo hiểm liên kết đầu tư. Vừa qua, nhiều doanh nghiệp đã thành lập công ty quản lý quỹ nhằm quản lý phần vốn nhàn rỗi từ hoạt động bảo hiểm nhân thọ để đầu tư vào thị trường chứng khoán, coi đây là cơ hội tốt để sử dụng vốn hiệu quả.
Tuy nhiên, vẫn còn tiềm ẩn những rủi ro, nên cũng cũng cần xem xét kỹ hơn. Về vấn đề con người, các doanh nghiệp cần nâng cao trình độ của cán bộ. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, vấn đề quan trọng nhất là quản lý dòng tiền, nên cần phải có các chuyên gia về tính phí và phát triển đội ngũ chuyên gia này. Còn doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, điều quan tâm nhất là vấn đề trong sạch; trong quản lý kế toán tài chính thì vấn đề chi trả bồi thường, hoa hồng cần phải được kiểm soát chặt chẽ. Vấn đề phát triển công nghệ thông tin trong hoạt động bảo hiểm là cực kỳ quan trọng. Hiện nay, việc đầu tư cho công nghệ thông tin của các doanh nghiệp bảo hiểm vẫn chưa được đồng đều.
Mục tiêu doanh thu phí bảo hiểm đạt 4% GDP vào năm 2010 tuy khó nhưng vẫn có khả năng đạt được. Điều này cho thấy thị trường bảo hiểm có nhiều cơ hội cho doanh nghiệp khai thác, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập. Về cung trên thị trường bảo hiểm, doanh nghiệp cần có thêm những sản phẩm mới. Cơ quan quản lý sẽ không can thiệp sâu vào việc quản lý các sản phẩm của doanh nghiệp, mà sẽ có cơ chế cho doanh nghiệp đăng ký sản phẩm. Còn chất lượng sản phẩm thế nào thì phụ thuộc vào chính doanh nghiệp. Về cầu thì phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế, thu nhập của người dân, nhận thức của người dân.
Để phát triển thị trường bảo hiểm, vấn đề cốt lõi là thể chế phải rõ ràng, không chỉ ở văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến kinh doanh bảo hiểm mà còn ở các văn bản liên quan, sự ứng xử của cơ quan quản lý nhà nước. Chính phủ đã ban hành Nghị định 45 và 46 liên quan đến vấn đề này, sắp tới Bộ Tài chính sẽ tiếp tục ban hành các thông tư hướng dẫn.
1.3. NGÀNH BẢO HIỂM VIỆT NAM.
1.3.1. Trên con đường phát triển.
Kể từ năm 1993, thời điểm Việt Nam bắt đầu mở cửa thị trường bảo hiểm cho đến hết năm 2006, ngành bảo hiểm Việt Nam đã có một bước tiến rất dài.
Từ chỗ chỉ có duy nhất Bảo Việt, đến nay, trên thị trường Việt Nam đã có hơn 30 doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động ở tất cả các lĩnh vực bao gồm bảo hiểm phi nhân thọ, bảo hiểm nhân thọ, tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm. Đây là một sự phát triển vượt bậc.
Tuy nhiên, với chính sách mở cửa khác nhau nên thị trường bảo hiểm Việt Nam được phân chia khá chênh lệch. Ở lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, do Việt Nam chưa mở cửa nên các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước chiếm đến 95% thị phần, trong khi các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài chiếm đến 62,5% thị phần bảo hiểm nhân thọ.
Với hơn 800 sản phẩm các loại, nguồn thu chủ yếu của ngành là từ phí bảo hiểm. Mức tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm của ngành từ 1993 đến 2004 là 38%/năm. Đóng góp của doanh thu phí bảo hiểm vào GDP cũng có tăng trưởng đáng kể. Từ 0,37% năm 1993 tăng lên 2,13% vào cuối năm 2006. Tổng số tiền bồi thường bảo hiểm cho các tổ chức kinh tế và dân cư từ năm 2000 - 2005 đạt trên 12.300 tỉ đồng.
Dù có tăng trưởng cao, nhưng tỉ lệ đóng góp phí bảo hiểm vào GDP của Việt Nam như vậy là khá nhỏ nếu so sánh với các nước trong khu vực.
Một vấn đề khác cần quan tâm là cho dù thị trường phát triển nhanh nhưng không cân xứng giữa các công ty, giữa các thành phần kinh tế. Mức độ tập trung thị trường cao nhất là trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, có hiện tượng độc quyền nhóm trong một số doanh nghiệp bảo hiểm chuyên sâu các ngành dầu khí, xăng dầu, bưu chính viễn thông. Qui mô vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước hạn chế. Phương thức cạnh tranh vẫn chủ yếu là giảm phí và khai thác thị trường thông qua các mối quan hệ.
Bảo hiểm là một dịch vụ tài chính, vừa bảo vệ nền kinh tế trước những rủi ro thiên tai, tai nạn, sự cố bất ngờ, vừa là kênh thu hút nguồn vốn trung và dài hạn đầu tư trở lại để phát triển kinh tế.
Các doanh nghiệp bảo hiểm ngoài việc kinh doanh bảo hiểm còn được phép đầu tư từ vốn chủ sở hữu và quỹ dự phòng nghiệp vụ vào các lĩnh vực: trái phiếu, cổ phiếu, liên doanh, bất động sản và cho vay. Chính vì vậy, hoạt động kinh doanh bảo hiểm mang tính đặc thù, có nhạy cảm cao và thuộc loại kinh doanh có điều kiện. Việc cấp phép hoạt động cho một doanh nghiệp bảo hiểm trong nước hoặc nước ngoài hoạt động tại thị trường bảo hiểm Việt Nam phải luôn coi trọng kiểm soát năng lực tài chính, mức độ an toàn về tài chính và năng lực chuyên môn. Tuy vậy, quá trình mở cửa của thị trường bảo hiểm không vì thế mà phải kiểm soát chặt chẽ khắt khe. Ngược lại, thời gian qua, thị trường bảo hiểm Việt Nam được đánh giá là có tốc độ hội nhập nhanh, tăng trưởng cao.
Thị trường bảo hiểm có lộ trình mở cửa nhanh: 16/30 doanh nghiệp có vốn nước ngoài trong đó 9/22 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ và 7/8 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Doanh nghiệp bảo hiểm có vốn nước ngoài tại Việt Nam góp phần gián tiếp phát triển FDI, cung cấp thêm nhiều sản phẩm bảo hiểm mới tăng sự lựa chọn cho khách hàng và tăng doanh thu bảo hiểm toàn thị trường. Thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện có 30 doanh nghiệp bảo hiểm và tám doanh nghiệp môi giới bảo hiểm hoạt động tạo ra ba phân đoạn thị trường:
Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm phi nhân thọ và môi giới bảo hiểm, vừa hợp tác vừa cạnh tranh gay gắt với nhau để phát triển.
Số lượng sản phẩm bảo hiểm ngày càng tăng, có hơn 700 sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ, hơn 100 sản phẩm bảo hiểm nhân thọ để khách hàng lựa chọn, phát triển nhanh kênh phân phối sản phẩm (tám công ty môi giới, 100 nghìn đại lý bảo hiểm nhân thọ, 50 nghìn đại lý bảo hiểm phi nhân thọ) tuyên truyền giới thiệu doanh nghiệp bảo hiểm và sản phẩm bảo hiểm, đưa sản phẩm bảo hiểm đến tận tay người tiêu dùng.
Năng lực tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm được nâng lên rõ rệt: 90% số doanh nghiệp bảo hiểm có vốn chủ sở hữu cao gấp nhiều lần vốn pháp định. Các quỹ dự phòng nghiệp vụ, tổng tài sản và đầu tư vào nền kinh tế tăng nhanh, luôn bảo đảm khả năng thanh toán của các doanh nghiệp bảo hiểm.
Tạo ra được một số sản phẩm bảo hiểm bắt buộc như bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm bắt buộc người kinh doanh vận tải thủy nội địa, bảo hiểm bắt buộc cháy nổ, bảo hiểm bắt buộc người Việt Nam du lịch lữ hành quốc tế, bảo hiểm bắt buộc xây dựng lắp đặt, bảo hiểm bắt buộc người sử dụng lao động trong hợp đồng xây dựng, bảo hiểm bắt buộc một số ngành nghề đặc thù... của ngành bảo hiểm.
Theo cam kết mở cửa thị trường bảo hiểm Việt Nam, doanh nghiệp bảo hiểm của nước ngoài được phép cung cấp vào Việt Nam các dịch vụ bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm có vốn nước ngoài và người nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài ra, họ còn được cung cấp dịch vụ tái bảo hiểm, vận tải quốc tế, môi giới bảo hiểm, tư vấn, tính toán, đánh giá rủi ro và giải quyết bồi thường cho thị trường bảo hiểm Việt Nam. Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài không được kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc cho đến ngày 1-1-2008, thì bãi bỏ hạn chế này.
Theo cam kết nêu trên có thể hiểu các doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh và bảo hiểm nhân thọ không bị hạn chế được đối xử quốc gia (doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam được làm gì thì họ được làm cái đó. Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài chỉ bị hạn chế sản phẩm bảo hiểm bắt buộc đến 1-1-2008, nhưng thực tế doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam hưởng lợi không nhiều vì mới có sản phẩm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, sản phẩm bảo hiểm bắt buộc người kinh doanh vận tải hành khách và hàng dễ cháy dễ nổ trên đường thủy nội địa. Các sản phẩm bảo hiểm bắt buộc khác như cháy nổ, người Việt Nam du lịch lữ hành quốc tế, xây dựng - lắp đặt, người sử dụng lao động trong hợp đồng xây dựng, công trình dầu khí, công trình dễ gây nguy hiểm đến an ninh cộng đồng và môi trường đang chuẩn bị dự thảo và ban hành, nếu có thực hiện sẽ vào nửa cuối năm 2007.
Ðiều đáng lo ngại nhất là, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài không cần thành lập doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam cũng có thể vươn cánh tay của mình vào khai thác thị trường bảo hiểm Việt Nam theo cam kết WTO.
Ðể nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập và hợp tác của doanh nghiệp bảo hiểm, các doanh nghiệp trong nước cần tăng cường trang bị và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hợp đồng bảo hiểm, khách hàng tham gia bảo hiểm, rủi ro và đối tượng được bảo hiểm, giám định giải quyết bồi thường và nhất là tiến tới thương mại điện tử bán hàng qua mạng. Phát triển nhiều sản phẩm mới ngoài những sản phẩm bảo hiểm truyền thống cần tập trung phát triển sản phẩm bảo hiểm chăm sóc sức khỏe, y tế chất lượng cao, bảo hiểm trách nhiệm (trách nhiệm nghề nghiệp, trách nhiệm đối với sản phẩm, trách nhiệm pháp lý...) và các sản phẩm phục vụ phát triển nông thôn. Các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ cần tăng thêm sản phẩm liên kết đầu tư, bảo hiểm hưu trí và chăm sóc y tế.
Phát triển kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm qua đại lý và môi giới bảo hiểm cùng với tinh giảm biên chế cán bộ bảo hiểm khai thác trực tiếp. Ðào tạo phát triển nguồn nhân lực, có chế độ chính sách hợp lý để giữ được đội ngũ cán bộ bảo hiểm chuyên nghiệp. Tạo ra nhiều dịch vụ gia tăng ngoài việc được bảo hiểm như được khám, chữa bệnh tại cơ sở y tế và bác sĩ nổi tiếng theo giá ưu đãi, được sửa chữa xe (không thuộc trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm) tại cơ sở uy tín và được giảm giá...
Làm được như vậy, doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam sẽ chứng minh rằng, việc mua bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam sẽ được phục vụ tốt hơn, bảo đảm quyền lợi tốt hơn so với mua bảo hiểm của hãng bảo hiểm không có mặt tại Việt Nam. Ðiều này sẽ hướng sự lựa chọn của khách hàng tới các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam.
1.3.2. Hoạt động đầu tư còn nhiều hạn chế.
Đến cuối năm 2006, tổng đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm trở lại nền kinh tế là 34.400 tỉ đồng, chiếm 4,07% GDP và cũng có tốc độ tăng đáng kể nếu so với năm 2001, con số này chỉ là 1,06% GDP.
Đầu tư chủ yếu của các doanh nghiệp bảo hiểm là trái phiếu chính phủ, tiền gửi ngân hàng. Phần còn lại là góp vốn liên doanh, đầu tư chứng khoán và đầu tư trực tiếp vào các cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống.
Tổ chức hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm chưa thể hiện tính chuyên nghiệp. Hiện nay, mới chỉ có 3 doanh nghiệp bảo hiểm thành lập công ty quản lý quỹ và 2 doanh nghiệp bảo hiểm được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Điều này làm giảm khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm.
Các doanh nghiệp bảo hiểm hiện vẫn chưa thể cho vay vốn trực tiếp hoặc mạnh dạn đầu tư vào các lĩnh vực bất động sản, cổ phiếu vì thiếu vắng các quy định cụ thể từ các cơ quan chức năng. Do vậy, hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm vẫn chưa cao.
1.3.3. Mục tiêu phấn đấu – con đường còn dài.
Mục tiêu đến năm 2010, con đường còn dài, Có lẽ do chiến lược được lập khi thị trường bảo hiểm đang ở thời điểm hoàng kim, với mức tăng trưởng gần 50% một năm, mọi người đang rất lạc quan nên đã đưa ra mục tiêu “Tổng doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân khoảng 24%/năm; trong đó, bảo hiểm phi nhân thọ tăng khoảng 16,5%/năm và bảo hiểm nhân thọ tăng khoảng 28%/năm. Tỷ trọng doanh thu phí của toàn ngành bảo hiểm so với GDP là 2,5% năm 2005 và 4,2% năm 2010, tổng dự phòng nghiệp vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm tăng khoảng 12 lần; tổng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế tăng khoảng 14 lần so với năm 2002”.
Tuy nhiên, ngay sau đó, ngành bảo hiểm (nhất là bảo hiểm nhân thọ) bắt đầu rơi vào trạng thái bão hòa, khi mà ba năm gần đây, tốc độ tăng số thu phí bảo hiểm đã chậm lại, với mức bình quân hàng năm chỉ là 16%. Điều này dẫn đến kết quả là cuối năm 2006, doanh thu bảo hiểm chỉ bằng 2,13% GDP, tổng đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm trở lại nền kinh tế là 34.400 tỉ đồng, bằng 4,07% GDP.
Như vậy, kế hoạch đến năm 2005 đã không đạt. Để đạt được mục tiêu đến năm 2010, hàng năm, tốc độ tăng trưởng số thu phí của ngành bảo hiểm Việt Nam phải đạt bình quân 41% và tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế phải đạt bình quân 42%. Nếu duy trì được tốc độ tăng trưởng 24% năm thì đến năm 2010, doanh thu bảo hiểm sẽ bằng 3,3% GDP.
1.4. BẢO HIỂM VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP.
1.4.1. Những bất cập mà doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đang gặp.
Ngành bảo hiểm là ngành kinh doanh đặc thù có chu trình tính chi phí ngược, tức thu trước chi phí sau. Bộ Tài chính cũng đã ban hành chế độ hạch toán kế toán riêng cho DN này và đã có nhiều sự thay đổi, nhưng với bối cảnh hội nhập hiện nay thì những thay đổi đó chưa đáp ứng được nhu cầu. Đặc biệt, là những vấn đề liên quan tới doanh nghiệp nước ngoài như: báo cáo kế toán, thưởng thu phí, thưởng không khiếu nại hay giảm phí cho những đối tượng nhiều năm tham gia bảo hiểm…
Ở nước ngoài khi bảo hiểm vài năm mà không có tổn thất thì người ta thường nghĩ tới thưởng cho những doanh nghiệp này, vì họ tạo ra lợi ích, nên họ được phép thưởng. Còn ở Việt Nam hiện nay, theo Thông tư số 155
Thách thức lớn nhất hiện nay chính là công nghệ thông tin. Bởi để phát triển mạnh lĩnh vực bảo hiểm, chúng ta cần phải có một hệ thống công nghệ thông tin hoàn chỉnh phục vụ cho quá trình khai thác và quản lý nội địa.
Nếu có hệ thống công nghệ thông tin hiện đại và hoàn chỉnh, nó sẽ hỗ trợ được rất nhiều cho các DN về mặt thời gian, độ chính xác trong việc tra cứu khách hàng, đối tượng bảo hiểm hay công tác hạch toán kế toán, đặc biệt là khâu bồi thường: các DN không phải đối chiếu, tìm giấy chứng nhận bảo hiểm, giấy thông báo tai nạn, giấy đăng kiểm... gì cả, mà chỉ cần bật máy ra là có hết. Còn nếu làm thủ công thì mất hàng giờ để soi từng chữ, trong khi máy tính chỉ mất 2-3 phút. Do đó, công nghệ thông tin vẫn là thách thức lớn nhất đối với hoạt động dịch vụ bảo hiểm hiện nay.
1.4.2. Môi trường kinh doanh Bảo hiểm Vi