Tiểu luận Nguyên nhân và thực trạng của vấn đề bùng nổ dân số trên toàn thế giới

Ngày nay, khái niệm “con quái vật dân số” hay “quả bom dân số” đã trở nên không còn xa lạ gì với mỗi chúng ta. Gọi như vậy phần nào đã cho chúng ta một cái nhìn khái quát nhất về tính nguy hại và cấp thiết, cũng như những áp lực mà vấn đề dân số gây ra cho chúng ta. Trong vòng bốn thập niên trở lại đây, nhân loại đã có cái nhìn khác về vấn đề dân số, con người đã có cái nhìn nghiêm túc hơn trước thực trạng diễn biễn ngày càng phức tạp của vấn đề dân số. Trong bài tiểu luận này, tôi chỉ muốn đề cập tới nguyên nhân và thực trạng của vấn đề bùng nổ dân số - vấn đề đang làm đau đầu lãnh đạo nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam - để từ đó làm sáng tỏ vấn đề bùng nổ dân số hiện đã vượt ra ngoài biên giới của một quốc gia, một khu vực và đã trở thành một vấn đề lớn trên toàn thế giới.

doc13 trang | Chia sẻ: hongden | Lượt xem: 16237 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nguyên nhân và thực trạng của vấn đề bùng nổ dân số trên toàn thế giới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ NGOẠI GIAO HỌC VIỆN NGOẠI GIAO KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO BỘ MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TIỂU LUẬN NGUYÊN NHÂN VÀ THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ BÙNG NỔ DÂN SỐ TRÊN TOÀN THẾ GIỚI Giảng viên hướng dẫn : TS.Đỗ Sơn Hải - Trưởng khoa QHQT Sinh viên thực hiện : Nguyễn Sinh Hoàng Lớp : CT38H Hà Nội, tháng 5 năm 2013 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay, khái niệm “con quái vật dân số” hay “quả bom dân số” đã trở nên không còn xa lạ gì với mỗi chúng ta. Gọi như vậy phần nào đã cho chúng ta một cái nhìn khái quát nhất về tính nguy hại và cấp thiết, cũng như những áp lực mà vấn đề dân số gây ra cho chúng ta. Trong vòng bốn thập niên trở lại đây, nhân loại đã có cái nhìn khác về vấn đề dân số, con người đã có cái nhìn nghiêm túc hơn trước thực trạng diễn biễn ngày càng phức tạp của vấn đề dân số. Trong bài tiểu luận này, tôi chỉ muốn đề cập tới nguyên nhân và thực trạng của vấn đề bùng nổ dân số - vấn đề đang làm đau đầu lãnh đạo nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam - để từ đó làm sáng tỏ vấn đề bùng nổ dân số hiện đã vượt ra ngoài biên giới của một quốc gia, một khu vực và đã trở thành một vấn đề lớn trên toàn thế giới. Bài tiểu luận của tôi được tìm hiểu theo 3nội dung lớn như sau: I. Khái niệm và thực trạng của vấn đề bùng nổ dân số trên thế giới II. Nguyên nhân bùng nổ dân số III. Tại sao vấn đề dân số lại được coi là vấn đề trên toàn cầu NỘI DUNG TÌM HIỂU I. KHÁI NIỆM VÀ THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ BÙNG NỔ DÂN SỐ TRÊN THẾ GIỚI 1. Khái niệm Dân số là tập hợp những người sinh sống trong cùng một quốc gia, khu vực, vùng địa lí kinh tế hoặc một đơn vị hành chính. Bùng nổ dân số là sự gia tăng dân số quá nhanh trong một thời gian ngắn,gây ảnh hưởng tiêu cực đến mọi mặt của đời sống xã hội Từ điển bách khoa toàn thư . Như vậy bản chất của bùng nổ dân số chính là sự tăng lên nhanh chóng một cách đột biến của số lượng người sinh sống trong phạm vi của một quốc gia, khu vực, vùng địa lí, hay nói rộng ra đó là sự gia tăng trên phạm vi toàn cầu. 2. Thực trạng vấn đề bùng nổ dân số a. Cấp độ quốc tế Dân số phát triển với tốc độ chóng mặt. Xét trong toàn bộ tiến trình lịch sử xã hội cho đến nay, tỉ lệ phát triển dân số trên phạm vi toàn thế giới ngày càng cao. Vào những năm công nguyên, dân số thế giới chỉ vào khoảng 250 triệu người. Cách đó 1.600 năm, dân số thế giới tăng trưởng rất chậm, đến năm 1650 dân số thế giới chỉ tăng gấp đôi con số trên. Năm 1825, dân số thế giới lên đến 1 tỉ người. Năm 1925 dân số thế giới là 2 tỉ người. 50 năm tiếp theo dân số thế giới tăng gấp đôi, tức là vào năm 1975 đạt tới 4 tỉ người. Năm 1987, vào ngày 11 tháng 7,dân số thế giới tròn 5 tỉ người, tức là chỉ cần 12 năm đã tăng thêm 1 tỉ người. Dân số thế giới đã vượt qua ngưỡng 6 tỉ người vào cuối thập kỷ XX, đạt 6,616 tỉ người vào năm 2007, với tỷ lệ tăng dân số hằng năm 1,2% (so với 2% của những năm thập kỷ 60 của thế kỷ XX). Chỉ trong vòng 12 năm, thế giới đã tăng thêm 1 tỉ dân (từ 1987 - 1999), là giai đoạn ngắn nhất trong lịch sử loài người đểcó thêm 1 tỉ dân và 1 tỉ tiếp theo sẽ đạt được sau 13 năm. Theo dự báo, dân số thế giới sẽ tăng thêm 2,6 tỉ trong vòng 45 năm tới, tức đến năm 2050 dân số thế giới sẽ đạt 9,1 tỉ người . Như vậy có thể thấy thời gian để dân số thế giới tăng thêm gấp đôi, cũng như thời gian để Trái Đất đón thêm 1 tỉ công dân mới ngày càng được rút ngắn một cách nhanh chóng. Người ta tính rằng cứ 6 tháng dân số thế giới lại tăng thêm bằng số dân của nước Pháp (50 triệu) và cứ sau 10 năm lại có một nước Trung Quốc ra đời ở những vùng nghèo nàn nhất trên Trái Đất. Đó quả thật là những con số khủng khiếp. Tuy nhiên tốc độ tăng dân số ở các khu vực khác nhau trên thế giới là không giống nhau. Có một nghịch lí là khu vực các nước nghèo và kém phát triển nhất lại là những khu vực có tốc độ tăng dân số nhanh nhất. Theo điều tra của Cục Điều tra dân số Mỹ, tốc độ tăng dân số nhanh nhất lại là ở các khu vực nghèo khổ nhất tại châu Phi, Trung Đông và tiểu lục địa Ấn Độ, nơi trung bình một phụ nữ đẻ 7 con. Trong tương lai gần, tốc độ phát triển dân số nhanh nhất vẫn là khu vực châu Phi và Nam Á. Trong vòng nửa đầu thế kỉ XXI, dân số châu Phi sẽ tăng khoảng 2,4 - 3 lần, cao hơn tốc độ tăng dân số toàn cầu khoảng 1,7 - 1,8 lần. Cũng như vậy tốc độ tăng dân số ở khu vực Nam Á cũng cao hơn tốc độ tăng dân số toàn cầu 10 -15%. Chỉ tính riêng trong giai đoạn 2000 - 2005, theo thống kê của Liên hợp quốc, hằng năm dân số thế giới tăng thêm khoảng 76 triệu người, trong đó 6 nước có số dân tăng thêm chiếm 45% là Ấn Độ (số dân tăng thêm chiếm 22%), Trung Quốc (11%), Pa-ki-xtan, Ni-giê-ri-a, Mỹ, Băng-la-đét (mỗi nước 4%). Ngoài ra, 16 nước khác có số dân tăng thêm chiếm 25%, trong đó In-đô-nê-xi-a (số dân tăng hằng năm 2,7 triệu), Băng-la-đét (2,6 triệu), Bra-xin (2,5 triệu), Ê-ti-ô-pi-a (1,8 triệu), Cộng hòa Công-gô (1,5 triệu), Phi-líp-pin (1,5 triệu), Mê-hi-cô (1,4 triệu), Ai-cập (1,3 triệu), Áp-ga-ni-xtan (1,2 triệu), Việt Nam (1,1 triệu), Thổ Nhĩ Kỳ (1 triệu), U-gan-đa (0,9 triệu), I-rắc (0,7 triệu), Kê-ni-a (0,7 triệu), Cộng hòa Tan-dani-a (0,7 triệu), Cô-lôm-bi-a (0,7 triệu) và Xu-đăng (0,7 triệu). Trong khi dân sốcủa nhiều nước, đặc biệt là ở châu Phi và châu Á tiếp tục gia tăng trong vài thập niên tới, thì ở một số nước phát triển đạt dưới mức sinh thay thế lại có xu thế suy thoái dân số trong vòng 50 năm (2000 - 2050) như CHLB Nga (số dân giảm 35 triệu), U-crai-na (23 triệu), Nhật (15 triệu), Ba-lan (7 triệu), Ru-ma-ni (5 triệu), CHLB Đức (4 triệu), Bê-la-rút và Bun-ga-ri (3 triệu) Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam . Như vậy, sức ép dân số đối với đa số các nước đang phát triển, trong đó có nước ta do số dân tăng thêm hằng năm còn rất lớn trước đời sống kinh tế, chính trị và xã hội, hạn chế đến khả năng cải thiện, phát triển và tiềm ẩn nguy cơ tụt hậu. Dân số tăng nhanh nằm ở khu vực những nước đang phát triển, với hơn 95% sự gia tăng dân số nằm ở khu vực này. Hiện nay, dân số thế giới đang gia tăng với tỷ lệ trung bình là 1,2%/năm. Cục điều tra dân số Mỹ dự báo, tốc độ này sẽ giảm xuống còn 0,5% năm 2050. Khi đó, Ấn Độ sẽ vượt Trung Quốc trở thành nước đông dân nhất thế giới. b. Cấp độ quốc gia Trong tiến trình toàn cầu hóa hiện nay, có một vấn đề nan giải đó là sự tăng nhanh dân số ở khu vực các thành phố lớn. Tỷ lệ dân cư tại các thành phố, đặc biệt là các thành phố lớn ngày càng cao. Năm 1955, dân số đô thị là 872 triệu người (chiếm 32% dân số toàn cầu), năm 1975 là 1,5 tỉ người (chiếm 38%), năm 1995 là 2,6 tỉ người (chiếm 45%). Theo dự báo của Liên Hợp Quốc, tới năm 2025 số dân sống ở các đô thị sẽ chiếm 60% dân số toàn cầu. Số thành phố có trên 10 triệu dân cũng tăng lên nhanh chóng. Nếu như năm 1975 mới chỉ có 5 thành phố như vậy thì tới năm 1995 đã có 14 thành phố, theo dự đoán thì tới năm 2025 chỉ riêng châu Á sẽ có tới 20 thành phố trên 10 triệu dân Nguyễn Trọng Chuẩn, Những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu của thế kỉ XXI, tr.195 . Khi dân số đô thị toàn cầu bùng nổ (cứ 38 năm lại tăng gấp đôi) các thành phố lớn nhất thế giới ngoại trừ Tokyo sẽ bị tụt xuống cuối danh sách vào năm 2015 và thay thế chúng là các đô thị nhỏ hơn mà ở đó đang có sự bùng nổ dân cư, cũng theo dự đoán này, Bombay và New Delhi sẽ trở thành các thành phố lớn thứ hai và thứ ba trên thế giới thay thế cho Mexico city và New York hiện nay. II. NGUYÊN NHÂN BÙNG NỔ DÂN SỐ 1. Sự chênh lệch lớn về tỷ lệ sinh tử Trong giai đoạnđầu phát triển lịch sử phát triển của nhân loại, tỷ lệ sinh tương đối cao do nhu cầu duy trì nòi giống và nhu cầu lực lượng sản xuất phục vụ phát triển xã hội, trong khi đó tỉ lệ tử cũng tương đối cao do điều kiện sống hạn chế, thiên tai, dịch bệnh nhiều Do đó, trong giai đoạn này tỷ lệ sinh và tử tương đối cân bằng. Ngược lại, trong giai đoạn “bùng nổ dân số” tỷ lệ sinh vẫn tiếp tục được duy trì trong khi đó tỷ lệ tử có xu hướng giảm do điều kiện sống được nâng cao, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, các nhu cầu cơ bản của con người được chú trọng đặc biệt là trong công tác vệ sinh và y tế dẫn tới tỉ lệ tử giảm xuống. Thêm vào đó, tuổi thọ của con người được nâng cao dần, năm 1975 tuổi trung bình của dân cư thế giới là 21,9 tuổi, tới năm 2000 là 26,6 tuổi. quá trình toàn cầu hóa đã mang lại cho các quốc gia kém phát triển khả năng tiếp cận với những tiến bộ khoa học kĩ thuật. Những căn bệnh trước kia được coi là nan y đã tìm ra phương pháp chữa trị, người dân đã biết sử dụng rộng rãi các loại thuốc vắc-xin, thuốc kháng sinh... Mặt khác khoa học kĩ thuật cũng góp phần làm giảm tỉ lệ tử ở trẻ sơ sinh, mang lại nhiều cơ hội cho các cặp vợ chồng hiếm muộn Chính những yếu tố trên đã làm nảy sinh tình trạng mất cân bằng giữa sinh và tử, dẫn đến tình trạng tăng dân số một cách chóng mặt. 2. Nhu cầu về lực lượng sản xuất Ở các quốc gia kém phát triển, những nơi mà khoa học kỹ thuật chưa mấy phát triển và việc áp dụng khoa học và sản xuất còn rất hạn chế, lực lượng sản xuất vẫn chỉ mới ở trình độ cơ khí thủ công, sử dụng lao động cơ bắp, lao động chân tay là chủ yếu, cộng với những nguồn năng lượng có sẵn trong tự nhiên để sản xuât, trong xã hội như vậy thì dân số càng tăng, sức lao động càng nhiều, càng đẩy mạnh sức sản xuất xã hội. Do đó mà dân số thế giới của chúng ta không ngừng tăng lên một cách nhanh chóng, để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của từng quốc gia. 3. Quan niệm lạc hậu Ở một số nước đặc biệt là các nước phương đông vẫn còn một số quan niệm lạc hậu: sinh nhiều con, tư tưởng trọng nam khinh nữ, muốn sinh con trai Điều này có thể thấy rất rõ ở Việt Nam, tại các vùng dân tộc thiểu số hoặc các vùng nông thôn thường có tư tưởng sinh càng nhiều càng tốt và nhất thiết phải có con trai, do đó mà ở các vùng này gia đình nào cũng có 3 con trở lên. Ở các nước này vai trò và địa vị của người phụ nữ vẫn còn rất thấp, phụ nữ nhiều nơi vẫn chưa được giải phóng hoàn toàn. Ngược lại có thể thấy ở các quốc gia phát triển phương Tây, nơi mà người phụ nữ khá bình đẳng với nam giới và tham gia ngày càng nhiều vào lực lượng lao động của xã hội thì tỉ lệ sinh rất thấp, chính quyền nhiều nước còn phải đề ra các chính sách khuyến khích tăng tỉ lệ sinh. Ở một số nước nghèo và các nước đang phát triển thì vấn đề tiếp cận, và nhận thức về dân số còn rất hạn chế, đặc biệt là châu phi và một số nước ở châu Á, kinh tế nghèo đói, lương thực không đủ ăn chưa nói đến vấn đề tiếp cận đến vấn đề giáo dục dân số và kế hoạch hóa gia đình. Họ thiếu những kiến thức và phương tiện cơ bản về phòng tránh thai. Thậm chí nhiều khi chính các nhà lãnh đạo cũng có nhận thức chưa đầy đử về vấn đề này, ví dụ cách đây 8 năm thị trưởng thành phố Mannila đã ra lệnh cấm các trung tâm y tế cung cấp các biện pháp ngừa thai hiện đại như bao cao su, thuốc tránh thai và triệt sản nhằm mục đích bảo vệ các giá trị cuộc sống. III. TẠI SAO VẤN ĐỀ DÂN SỐ LẠI ĐƯỢC COI LÀ VẤN ĐỀ TRÊN TOÀN CẦU 1. Phạm vi tác động của bùng nổ dân số Vấn đề bùng nổ dân số có thể được nhìn nhận từ hai góc độ. Trên phạm trù quốc tế, có một thực tế là hiện nay vấn đề bùng nổ dân số chỉ diễn ra chủ yếu ở các nước đang phát triển và chậm phát triển, có thể thấy 60% dân số tập trung tại các nước châu Á và châu Phi, các khu vực còn lại như châu Âu và châu Mỹ dân số chỉ chiếm 40% dân số thế giới. Điều đáng lo ngại hơn là các khu vực kém phát triển này tốc độ tăng dân số luôn ở mức cao hơn rất nhiều so với các nước phát triển. Trong giai đoạn 2000 - 2005, theo thống kê của Liên hợp quốc, hằng năm dân số thế giới tăng thêm khoảng 76 triệu người, trong đó 6 nước có số dân tăng thêm chiếm 45% và 16 nước khác có số dân tăng thêm chiếm 25% thì ngoài 4 nước là Mỹ, Côlômbia, Mêhicô và Braxin ra thì còn lại đều là các quốc gia châu Á và châu Phi, và ngoài trừ Mỹ, Ấn Độ, Braxin, Trung Quốc ra thì các nước còn lại đều là các nước đang và kém phát triển. Trong khi đó thì ở một số nước phát triển như Nga, Nhật hay CHLB Đức đạt dưới mức sinh thay thế lại có xu thế suy thoái dân số trong vòng 50 năm (2000 - 2050). Như vậy nhìn vào bề mặt của vấn đề có thể nhiều người sẽ nghĩ vấn đề bùng nổ dân số chỉ là vấn đề của các nước đang phát triển, và quả thật những hậu quả mà vấn đề bùng nổ dân số mang lại cho các nước này là không phải bàn cãi. Nhưng trong thời đại ngày nay không một vấn đề nào có thể tách ra riêng lẻ mà nó luôn có liên hệ chặt chẽ với các vấn đề khác. Vân đề bùng nổ dân số cũng vậy. Có thể có người sẽ suy nghĩ rằng Việt Nam sinh nhiều thì ảnh hưởng gì tới Mỹ? Đúng là không ảnh hưởng nhiều thật nếu chỉ có Việt Nam nhưng trên thực tế, ngoài Việt Nam ra còn có rất nhiều các nước trên thế giới cũng đang trong tình trạng như vậy,điều đó sẽ mang lại những ảnh hưởng không nhỏ tới các quốc gia khác, đặc biệt là các nước phát triển. Một điều tất yếu là khi dân số trong nước quá đông thì người ta sẽ phải tìm đường sang các nước khác, chủ yếu là các nước phát triển. Điều mà tôi muốn nói tới là vấn đề người nhập cư và di dân. Mặc dù trong chiến tranh thế giới II đã từng xuất hiện một làn sóng di cư ồ ạt từ các nước, các khu vực có chiến sự sang nước Mỹ, nguồn nhập cư này đã góp phần không nhỏ vào thành công của nước Mỹ sau này, tuy nhiên vấn đề hiện nay là mặc dù nhiều nước đã thắt chặt chính sách người nhập cư nhưng số lượng người nhập cư vẫn không giảm, chủ yếu là qua con đường nhập cư bất hợp pháp. Nhập cư bất hợp pháp sẽ dẫn tới những hậu quả không nhỏ cho các nước phát triển cả về an ninh và xã hội. Đó là tình trạng tội phạm gia tăng, xã hội bất ổn, xung đột giữa các nhóm sắc tộc. 2. Hậu quả tác động của Bùng nổ dân số a. Dân số và vấn đề nghèo đói, lạc hậu Ở phương Tây, có tác giả cho rằng: nếu dân số tăng lên 1% thì thu nhập quốc dân tăng khoảng 4%. Ở nhiều nước kém phát triển thuộc châu Phi, tỉ lệ tăng dân số hàng năm rất cao lên đến 3%, nếu muốn đảm bảo nhu cầu cho số dân mới tăng đó thì thu nhập quốc dân bình quân mỗi năm phải tăng khoảng 13%, điều đó là vô cùng khó khăn ngay cả với một quốc gia phát triển chứ đừng nói là một quốc gia kém phát triển. Trong phạm vi một quốc gia, việc bùng nổ dân số sẽ khiến cho mức sống của người dân trong nước bị hạ xuống,mức sống của người dân giảm dẫn tới các dịch vụ chăm sóc tối thiểu không được đáp ứng, dịch bệnh gia tăng. Trên phạm vi quốc tế, bùng nổ dân số sẽ dẫn tới sự chênh lệch trong phân phối của cải giữa các khu vực, khiến cho những nước giàu vẫn cứ giàu, những nước nghèo vẫn cứ nghèo, mặt bằng chất lượng dân số của thế giới bị kéo tuột xuống. b. Dân số và vấn đề bệnh tật Mặc dù chưa có nhà khoa học nào khẳng định được mối liên hệ giữa vấn đề bùng nổ dân số và bệnh tật, tuy nhiên trên thực tế, tại các quốc gia đang và kém phát triển, những nước có tốc độ bùng nổ dân số cao nhất thế giới cũng là những nước mà ở đó vấn đề dịch bệnh đang trở nên rất nghiêm trọng. Có thể lấy ví dụ sau để thấy được điều đó: theo thống kê năm 2000, thế giới có khoảng 40 triệu người bị nhiễm AIDS, trong đó 90% là ở các nước đang phát triển, chủ yếu là ở các quốc gia châu Phi (chiếm tới 2/3 số người mắc bệnh). Bùng nổ dân số dẫn tới điều liện sống nghèo khổ, chiến tranh xung đột triền miên khiến cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người dân không được đảm bảo chính là nguyên nhân chính dẫn tới bệnh tật tràn lan ở châu lục này. c. Dân số và vấn đề tài nguyên thiếu hụt Trong xã hội công nghiệp hiện đại, để đảm bảo cho cuộc sống của mỗi nguời, mỗi năm phải đào lên được 25 loại khoáng sản trong lòng đất. Tài nguyên dầu lửa, nếu tiếp tục được khai thác với tốc độ như trong thập niên 90 của thế kỉ trước thì sẽ cạn kiệt đến năm 2016. Tài nguyên than trên thế giới cũng chỉ còn dùng được 1500 năm nữa, và ước tính 12 loại tài nguyên khác chỉ duy trì đựoc 50 năm nữa là cùng. Trong đó nghiêm trọng nhất là phải kể tới vấn đề thiếu nước ngọt. Vào đầu thế kỉ XXI, một số vùng Nam Á, Trung Mỹ, nhất là Bắc Phi, Đông Phi, Tây Phi đã xuất hiện tình trạng thiếu nước ngọt hoàn toàn. d. Dân số và vấn đề thiếu đất canh tác, lương thực căng thẳng Với sự tăng trưởng cùa dân số trên toàn thế giới, bình quân ruộng đất canh tác theo đầu người ngày một giảm đi. Năm 1950 bình quân ruộng đất theo đầu người trên thế giới là 8,5 mẫu, năm 1960 giảm xuống chỉ còn 7,1 mẫu, năm 1968 là 6,1 mẫu, năm 1974 còn 5,6 mẫu và tới năm 1980 chỉ là 3,9 mẫu. Ruộng đất canh tác giảm đi tất nhiên không chỉ vì lí do dân số bùng nổ mà còn do nhiều nguyên nhân khác như quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, tuy nhiên nguyên nhân dân số tăng lên vẫn là nguyên nhân chủ yếu. Ruộng đất giảm, dân số tăng nhanh làm cho vấn đề lương thực trên phạm vi toàn cầu ngày càng trở lên căng thẳng. Đầu năm 2008 vừa qua đã xảy ra cuộc khủng hoảng lương thực lớn và chưa bao giờ vấn đề an ninh lương thực lại được đặt ra cấp thiết như lúc này. Hiện nay đại đa số các đang phát triển tại châu Á, châu Phi và Mỹ La-tinh đã phải nhập lương thực, đó là một minh chứng rõ ràng cho hậu quả của việc bùng nổ dân số tại các nước này. e. Dân số và vấn đề ô nhiễm môi trường Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa đang diễn ra trên khắp thế giới, sự bùng nổ dân số đã khiến cho tình hình ô nhiễm môi trường ngày càng trở lên nghiêm trọng. Tại các nước đang phát triển, do sức ép của việc phát triển kinh tế, cho đến nay vẫn tiếp tục sử dụng sử dụng một cách rộng rãi các loại thuốc trừ sâu, khai thác đất quá mức khiến cho sự phá hoại môi trường sinh thái ngày càng tăng lên. g. Dân số và vấn đề an ninh, xã hội Dân số tăng nhanh gây ra nhiều bất ổn trong xã hội, đó là nạn cướp bóc, khủng bố Dễ thấy khi dân số tăng cao, việc kiếm được miếng ăn sẽ ngày càng trở lên khó khăn hơn, và để đảm bảo sinh tồn cho mình người ta có thể sẵn sàng làm mọi việc, kể cả phạm tội. Nghiêm trọng hơn, xuất phát từ vấn đề dân số quá nhiều dẫn tới việc thiếu đất sống, thiếu “không gian sinh tồn” có thể dẫn tới các cuộc xung đột, chiến tranh giữa các nhóm người, gây nên những hậu quả to lớn. Có thể thấy vấn đề bùng nổ dân số đối với vấn đề nghèo đói, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, khan hiếm tài nguyên đều có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp. Bản thân các vấn đề đó đã là các vấn đề mang tính toàn cầu, có ảnh hưởng tới sự tồn vong của nhân loại, chính vì vậy, không còn gí nghi ngờ nữa, vấn đề bùng nổ dân số cũng là một vấn đề có tầm ảnh hưởng sâu sắc, rộng lớn tới tương lai của nhân loại. 3. Bùng nổ dân số là vấn đề mà một quốc gia không thể một mình giải quyết được Thực vậy, các nước nghèo là những nước có tốc độ bùng nổ dân số nhiều nhất nhưng bản thân các nước này vì thiếu các yếu tố về vốn, công nghệ nên không đủ khả năng thực hiện các chương trình dân số một cách hiệu quả, do đó nhất thiết phải có sự giúp đỡ, tài trợ của các quốc gia phát triển hơn. Trên thực tế, từ cuối thế kỉ XX, khi hiện tượng bùng nổ dân số xuất hiện thì cũng là lúc các nước bắt đầu ngồi lại với nhau để bàn bạc về vấn đề này. Có thể kể đến 3 hội nghị toàn cầu lớn bàn về vấn đề dân số là hội nghị năm 1974 tại Bucharest, hội nghị năm 1984 tai Mexico city và hội nghị năm 1994 tại Cairo. Đặc biệt là trong hội nghị Cairo năm 1994, các nước đã đề ra được một chương trình kế hoạch hành động 20 năm cho vấn đề dân số, các nước giàu còn còn cam kết sẽ dành 0,7% GNP để giúp đỡ các nước kém phát triển, lạc hậu trong vấn đề dân số (tuy nhiên trên thực tế chỉ có vài nước Bắc Âu là thực hiện cam kết này). Ngoài các hội nghị trên còn phải kể tới hàng loạt các hội nghị cấp khu vực và vai trò của các tổ chức quốc tế khác mà nổi lên là vai trò của UNFPA-Quỹ dân số Liên Hợp Quốc. Thành viên của UNFPA là tất cả các nước thành viên Liên Hợp Quốc. Vai trò của UNFPA là trợ giúp các nước đang phát triển thông qua việc cung cấp các dịch vụ có chất lượng trong sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình; thúc đẩy việc thực hiện chiến lược dân số do hội nghị Cairo thông qua năm 1994; thúc đẩy sự hợp tác và điều phối giữa các tổ chức Liên Hợp Quốc, các tổ chức song phương, các chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và khu vực tư nhân trong việc giải quyết các vấn đề về dân số và phát triển. Từ khi bắt đầu hoạt động năm 1969 đến nay, tổ chức này đã cung cấp 5 tỉ USD cho việc viện trợ các nước đang phát triển. Giữa Việt Nam và UNFPA
Tài liệu liên quan