Người nghèo luôn luôn phải chịu tác động nhiều hơn bởi tình trạng xuống cấp về môi trường. 70% dân số Việt Nam kiếm sống từ đất đai, điều đó làm cho họ bị phụ thuộc trực tiếp vào chất lượng và sự sẵn có của tài nguyên thiên nhiên. Đồng thời, sự phát triển nhanh chóng về dân số, đô thị hóa và kinh tế cũng tạo nên sức ép ngày càng tăng đối với môi trường và người dân, những người vốn phải dựa vào môi trường để kiếm sống.
Chất lượng rừng tiếp tục xuống cấp và 700 loài động vật được xem là có nguy cơ tiệt chủng. Tình trạng ô nhiễm môi trường công nghiệp và đô thị thường xuyên vượt quá mức độ cho phép, trong khi bụi ở các vùng đô thị đã vượt quá mức độ tối đa ít nhất hai lần.
Bảo đảm sự bền vững về môi trường là một chỉ tiêu quan trọng của Việt Nam và là một trong tám Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ mà Việt Nam đã cam kết thực hiện đến năm 2015. Xét mức độ rộng lớn của chỉ tiêu này, thật khó có thể đo lường. Các chỉ số thông thường cơ bản cho thấy Việt Nam có thể đang trên đường tiến tới việc chấm dứt tình trạng hủy hoại môi trường, nhưng còn lâu mới có thể đảo ngược được tình trạng xuống cấp về môi trường của thập kỷ vừa qua.
Chính phủ Việt Nam đã xây dựng được một khuôn khổ pháp lý tốt cho công tác quản lý môi trường, bắt đầu bằng những sửa đổi đối với Hiến pháp năm 1992 và ban hành Luật Bảo vệ môi trường năm 1994. Gần đây Bộ Tài nguyên & môi trường được thiết lập, trong đó có Cục Môi trường quốc gia, Tổng cục quản lý đất đai và Tổng cục Khí tượng thủy văn.
Chiến lược Quốc gia về bảo vệ môi trường 2001-2010 của Việt Nam đã xác định ba mục tiêu chung cho chính sách quốc gia về môi trường, đó là:
- Ngăn chặn và kiểm soát tình trạng ô nhiễm.
- Bảo vệ, bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Cải thiện chất lượng môi trường ở các khu vực đô thị, công nghiệp và nông thôn.
Kế hoạch Hành động quốc gia về môi trường (2001-2005) đã đi thêm một bước bằng cách đặt ra các ưu tiên về: phát triển bền vững; quản lý nước thải và chất thải rắn; quản lý rừng; tăng cường các định chế về môi trường; giáo dục môi trường; và sự tham gia của cộng đồng trong công tác quản lý môi trường.
Hiện nay, thế giới mà chúng ta sống đang phải đương đầu với rất nhiều thử thách. Xét trên các yếu tố của thế giới tự nhiên như nước, rừng, không khí, đất trồng, đại dương và động vật thì hơn 6 tỷ người tiêu dùng đang làm cạn kiệt “máu của hành tinh”, làm mờ “những lá phổi của trái đất”, làm cho “bầu trời đen, khí hậu xấu đi”, làm đất trồng “xơ xác”, làm “ô nhiễm trái tim của trái đất” và hủy diệt các loài động vật của hành tinh.
Những thách thức trên đang gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh đối với con người. Đòi hỏi con người phải trả lời được câu hỏi: Vì sao phải quản lý môi trường? Phải quản lý môi trường như thế nào?. Xét theo tiềm năng và vốn tri thức khổng lồ hiện có của loài người thì chúng ta hoàn toàn có thể tìm ra được những phương sách thích hợp để giải quyết những vấn đề trên.
Từ những vấn đề đặt ra như trên, nhóm tác giả chúng tôi xin đề cập đến vấn đề: “Những hình thức cơ bản trong quản lý tài nguyên môi trường ở Việt Nam”. Trong quá trình thực hiện đề tài, mặc dù đã có nhiều cố gắng song không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô giáo và các bạn
29 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1978 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những hình thức cơ bản trong quản lý tài nguyên môi trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1. MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Người nghèo luôn luôn phải chịu tác động nhiều hơn bởi tình trạng xuống cấp về môi trường. 70% dân số Việt Nam kiếm sống từ đất đai, điều đó làm cho họ bị phụ thuộc trực tiếp vào chất lượng và sự sẵn có của tài nguyên thiên nhiên. Đồng thời, sự phát triển nhanh chóng về dân số, đô thị hóa và kinh tế cũng tạo nên sức ép ngày càng tăng đối với môi trường và người dân, những người vốn phải dựa vào môi trường để kiếm sống.
Chất lượng rừng tiếp tục xuống cấp và 700 loài động vật được xem là có nguy cơ tiệt chủng. Tình trạng ô nhiễm môi trường công nghiệp và đô thị thường xuyên vượt quá mức độ cho phép, trong khi bụi ở các vùng đô thị đã vượt quá mức độ tối đa ít nhất hai lần.
Bảo đảm sự bền vững về môi trường là một chỉ tiêu quan trọng của Việt Nam và là một trong tám Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ mà Việt Nam đã cam kết thực hiện đến năm 2015. Xét mức độ rộng lớn của chỉ tiêu này, thật khó có thể đo lường. Các chỉ số thông thường cơ bản cho thấy Việt Nam có thể đang trên đường tiến tới việc chấm dứt tình trạng hủy hoại môi trường, nhưng còn lâu mới có thể đảo ngược được tình trạng xuống cấp về môi trường của thập kỷ vừa qua.
Chính phủ Việt Nam đã xây dựng được một khuôn khổ pháp lý tốt cho công tác quản lý môi trường, bắt đầu bằng những sửa đổi đối với Hiến pháp năm 1992 và ban hành Luật Bảo vệ môi trường năm 1994. Gần đây Bộ Tài nguyên & môi trường được thiết lập, trong đó có Cục Môi trường quốc gia, Tổng cục quản lý đất đai và Tổng cục Khí tượng thủy văn.
Chiến lược Quốc gia về bảo vệ môi trường 2001-2010 của Việt Nam đã xác định ba mục tiêu chung cho chính sách quốc gia về môi trường, đó là:
Ngăn chặn và kiểm soát tình trạng ô nhiễm.
Bảo vệ, bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Cải thiện chất lượng môi trường ở các khu vực đô thị, công nghiệp và nông thôn.
Kế hoạch Hành động quốc gia về môi trường (2001-2005) đã đi thêm một bước bằng cách đặt ra các ưu tiên về: phát triển bền vững; quản lý nước thải và chất thải rắn; quản lý rừng; tăng cường các định chế về môi trường; giáo dục môi trường; và sự tham gia của cộng đồng trong công tác quản lý môi trường.
Hiện nay, thế giới mà chúng ta sống đang phải đương đầu với rất nhiều thử thách. Xét trên các yếu tố của thế giới tự nhiên như nước, rừng, không khí, đất trồng, đại dương và động vật thì hơn 6 tỷ người tiêu dùng đang làm cạn kiệt “máu của hành tinh”, làm mờ “những lá phổi của trái đất”, làm cho “bầu trời đen, khí hậu xấu đi”, làm đất trồng “xơ xác”, làm “ô nhiễm trái tim của trái đất” và hủy diệt các loài động vật của hành tinh.
Những thách thức trên đang gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh đối với con người. Đòi hỏi con người phải trả lời được câu hỏi: Vì sao phải quản lý môi trường? Phải quản lý môi trường như thế nào?... Xét theo tiềm năng và vốn tri thức khổng lồ hiện có của loài người thì chúng ta hoàn toàn có thể tìm ra được những phương sách thích hợp để giải quyết những vấn đề trên.
Từ những vấn đề đặt ra như trên, nhóm tác giả chúng tôi xin đề cập đến vấn đề: “Những hình thức cơ bản trong quản lý tài nguyên môi trường ở Việt Nam”. Trong quá trình thực hiện đề tài, mặc dù đã có nhiều cố gắng song không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô giáo và các bạn.
1.2. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN VÀ PHẠM VI ĐỀ TÀI
1.2.1. Phương pháp tiếp cận:
Sưu tầm tài liệu từ các nguồn khác nhau. Trên cơ sở phân tích, so sánh giữa các nguồn tài liệu, chúng tôi đã tổng hợp được những hình thức quản lý môi trường phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta trong tình hình hiện nay và một số thành tựu của nó.
1.2.2. Phạm vi đề tài:
Trong giới hạn cho phép chúng tôi chỉ xin đề cập đến những hình thức quản lý tài nguyên môi trường và những thành tựu của nó trên cơ sở những nghiên cứu về vấn đề tài nguyên môi trường ở Việt Nam
PHẦN 2: NỘI DUNG
2.1. Những khái niệm chung
2.1.1. Khái niệm quản lý môi trường
"Quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp, luật pháp, chính sách kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát triển bền vững kinh tế xã hội quốc gia".
Các mục tiêu chủ yếu của công tác quản lý về môi trường bao gồm:
- Khắc phục và phòng chống suy thoái, ô nhiễm môi trường phát sinh trong hoạt động sống của con người.
- Phát triển bền vững kinh tế và xã hội quốc gia theo 9 nguyên tắc của một xã hội bền vững do hội nghị Rio-92 đề xuất. Các khía cạnh của phát triển bền vững bao gồm: Phát triển bền vững kinh tế, bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, không tạo ra ô nhiễm và suy thoái chất luợng môi trường sống, nâng cao sự văn minh và công bằng xã hội.
- Xây dựng các công cụ có hiệu lực quản lý môi trường quốc gia và các vùng lãnh thổ. Các công cụ trên phải thích hợp cho từng ngành, từng địa phương và cộng đồng dân cư.
Nguyên lý về tính thống nhất vật chất thế giới gắn tự nhiên, con người và xã hội thành một hệ thống rộng lớn "Tự nhiên - Con người - Xã hội", trong đó yếu tố con người giữ vai trò rất quan trọng. Tính thống nhất của hệ thống "Tự nhiên - Con người - Xã hội" đòi hỏi việc giải quyết vấn đề môi trường và thực hiện công tác quản lý môi trường phải toàn diện và hệ thống. Con người nắm bắt cội nguồn sự thống nhất đó, phải đưa ra các phương sách thích hợp để giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh trong hệ thống đó. Vì chính con người đã góp phần quan trọng vào việc phá và tất yếu khách quan là sự thống nhất giữa tự nhiên - con người - xã hội. Sự hình thành những chuyên ngành khoa học như quản lý môi trường, sinh thái nhân văn là sự tìm kiếm của con người nhằm nắm bắt và giải quyết các mâu thuẫn, tính thống nhất của hệ thống "Tự nhiên - Con người - Xã hội".
2.1.2. Khái niệm hình thức quản lý tài nguyên môi trường
Là các phương sách trong quản lý tài nguyên môi trường nhằm đem lại những lợi ích to lớn cho con người, tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia.
Theo Arnstein (1969), các hình thức quản lý khác nhau nằm trong hai hình thức cơ bản là quản lý hành chính nhà nước và quản lý cộng đồng. Ngoài ra đồng quản lý hay quản lý nguồn lợi dựa vào cộng đồng (QLNLDVCĐ) là hình thức quản lý trung gian giữa hai hình thức trên. QLNLDVCĐ là một hình thức hợp tác giữa cộng đồng và nhà chức trách trong việc chia sẻ quyền và trách nhiệm trong quản lý và lợi ích (Pomerroy, 1995). Cả hai hình thức quản lý và quản lý cộng đồng thuần tuý đều có lợi ích và hạn chế riêng, đôi khi không thể dung hoà hay đánh đổi được. Vì thế, cần một hình thức quản lý kết hợp hài hòa các lợi ích, sự phối hợp và khả năng của cộng đồng cũng như các kỹ năng về khoa học kỹ thuật, công nghệ và quản lý của các tổ chức nhà nước. Đó là hình thức quản lý dựa vào cộng đồng. Hiệu quả quản lý sẽ được nâng cao khi có sự tham gia của người sử dụng nguồn lợi và các bên liên quan trong việc quản lý (Pomeroy, 2000 và VEEM, 2002).
Qua quá trình tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy có 4 hình thức quản lý tài nguyên môi trường cơ bản sau:
- Quản lý nhà nước
- Quản lý tư nhân
- Quản lý cộng đồng
- Quản lý dựa vào cộng đồng
2.2. Các hình thức quản lý tài nguyên môi trường
2.2.1. Quản lý nhà nước
Hình thức quản lý nhà nước là quản lý tài nguyên môi trường thông qua các công cụ luật pháp, chính sách về môi trường trên phương diện quốc tế và quốc gia.
Luật quốc tế về môi trường là tổng thể các nguyên tắc, quy phạm quốc tế điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia, giữa quốc gia và các tổ chức quốc tế trong việc ngăn chặn, loại trừ thiệt hại gây ra cho môi trường của từng quốc gia và môi trường ngoài phạm vi tàn phá quốc gia. Các văn bản luật quốc tế về môi trường được hình thành một cách chính thức từ thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, giữa các quốc gia châu Âu, châu Mỹ, châu Phi. Từ hội nghị quốc tế về "Môi trường con người" tổ chức năm 1972 tại Thuỵ Điển và sau Hội nghị thượng đỉnh Rio - 92 có rất nhiều văn bản về luật quốc tế được soạn thảo và ký kết. Cho đến nay đã có hàng nghìn các văn bản luật quốc tế về môi trường, trong đó nhiều văn bản đã được chính phủ Việt Nam tham gia ký kết.
Trong phạm vi quốc gia, vấn đề môi trường được đề cập trong nhiều bộ luật, trong đó Luật Bảo vệ Môi trường được quốc hội nước Việt Nam thông qua ngày 27/12/1993 là văn bản quan trọng nhất. Chính phủ đã ban hành Nghị định 175/CP ngày 18/10/1994 về hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ Môi trường và Nghị định 26/CP ngày 26/4/1996 về Xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường. Bộ Luật hình sự, hàng loạt các thông tư, quy định, quyết định của các ngành chức năng về thực hiện luật môi trường đã được ban hành. Một số tiêu chuẩn môi trường chủ yếu được soạn thảo và thông qua. Nhiều khía cạnh bảo vệ môi trường được đề cập trong các văn bản khác như Luật Khoáng sản, Luật Dầu khí, Luật Hàng hải, Luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Phát triển và Bảo vệ rừng, Luật Bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, Pháp lệnh về đê điều, Pháp lệnh về việc bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, Pháp luật bảo vệ các công trình giao thông. Các văn bản trên cùng với các văn bản về luật quốc tế được nhà nước Việt Nam phê duyệt là cơ sở quan trọng để thực hiện công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường.
Ngày 15 tháng 11 năm 2004, Bộ Chính trị (khóa IX) đã ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW “Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Sau hơn 4 năm triển khai thực hiện Nghị quyết, công tác bảo vệ môi trường đã đạt được một số kết quả nhất định.
Luật Bảo vệ môi trường (năm 2005) và Luật Đa dạng sinh học (năm 2008) đã được Quốc hội thông qua, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về môi trường tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện và bước đầu đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Nhận thức, ý thức về công tác bảo vệ môi trường trong các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể, của các tầng lớp nhân dân được nâng lên một bước. Lần đầu tiên nhóm chỉ tiêu về môi trường đã được xây dựng dựa vào các chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 và hình thành mục chi ngân sách cho sự nghiệp môi trường với mức chi hàng năm không dưới 1% tổng chi ngân sách nhà nước. Hệ thống các cơ quan quản lý môi trường từ Trung ương đến cơ sở được tăng cường, lực lượng cảnh sát môi trường đã được thành lập và đi vào hoạt động. Những vấn đề bức xúc và các điểm nóng về môi trường đang từng bước được giải quyết.
Tuy nhiên, việc thực hiện các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp Nghị quyết số 41-NQ/TW đã đề ra còn nhiều thiếu sót, công tác bảo vệ môi trường còn nhiều hạn chế, yếu kém.
Phân tích mô hình quản lý tài nguyên môi trường theo hình thức quản lý nhà nước:
Chương trình 327 tiến hành tại 3 huyện thuộc lưu vực Sông Cả là Kỳ Sơn, Tương Dương ở Nghệ An và Con Cuông - một ví dụ về quản lý tài nguyên theo hình thức nhà nước.
Các quyết định quan trọng về hưởng dụng tài nguyên và luật lệ trong quản lý tài nguyên đều do chính quyền trung ương quyết định.
Các chính quyền địa phương chủ yếu chỉ được trao quyền tổ chức triển khai thực hiện các chương trình, chính sách của nhà nước trên địa bàn của địa phương mình mà không được quyền ra quyết định trong việc sử dụng tài nguyên. Chính quyền địa phương phụ thuộc về tài chính đối với chính quyền cấp trên vì nguồn kinh phí cho việc quản lý bảo vệ rừng, xây dựng vốn rừng và việc thực hiện các chương trình dự án của chính phủ ở các địa phương đều trông chờ vào sự phân bổ kế hoạch và kinh phí hàng năm của nhà nước cho các địa phương. Nguồn kinh phí này thường rất khiêm tốn, không thể đáp ứng nhu cầu cần thiết của các địa phương. Do chính quyền địa phương cấp cơ sở khi được trao quyền mà không có khả năng về tài chính nên khó có thể có khả năng ra quyết định.
Người dân được giao đất lâm nghiệp nhưng vì chính sách hưởng lợi không rõ ràng và thù lao ít ỏi đã không thu hút được sự đầu tư trồng và bảo vệ rừng một cách có hiệu quả. Việc cấp phát cây giống không dựa vào nhu cầu của người dân, cây giống kém chất lượng, không đúng thời vụ gieo trồng, không hướng dẫn kỹ thuật cần thiết trước khi trồng là nguyên nhân tất yếu dẫn đến tình trạng tỉ lệ cây sống thấp, bị chặt bỏ vì chất lượng kém, không được trồng vì không có nhu cầu.
Có thể thấy rõ cách tiếp cận áp đặt từ trên xuống của các dự án thuộc CT 327. Đánh giá về sự tham gia vào các dự án 327, phần lớn cán bộ và dân địa phương đều cho rằng họ không có cơ hội được tham gia góp ý kiến mà mọi quyết định đều áp đặt từ trên xuống. Hơn nữa việc hỗ trợ cây giống và vật tư của các dự án này mang tính chất “ban phát” cho người dân hơn là giúp họ phát triển các hoạt động sản xuất một cách có hiệu quả và lâu bền. Sự ban phát này cùng với việc cung cấp thông tin không đầy đủ cho người dân về dự án đã làm cho người hưởng lợi từ dự án coi nhẹ sự hỗ trợ của nhà nước dẫn đến tình trạng lãng phí cây giống và chăn thả gia súc bừa bãi gây thiệt hại lớn cho việc trồng và bảo vệ rừng.
" Chương trình 327, dân chúng tôi chẳng được gì. Họ đưa cây xuống và trừ vào tiền khoanh nuôi bảo vệ. Chúng tôi lại không biết chuyện này từ trước, chúng tôi không được tập huấn. Dân được nhận trồng cây để lấy tiền, nhưng không đuợc tập huấn, cây nhận về kém lại không đúng thời vụ nên tỷ lệ sống thấp nên Lâm trường không thanh toán cho đồng nào!" (Phụ nữ bản Quang Yên xã Tam Đình huyện Tương Dương).
Sự hưởng lợi đối với các cán bộ các cấp các ngành tham gia triển khai thực hiện các chính sách, chương trình, dự án không có, nếu có thì không đáng kể, vì vậy chưa tạo ra động lực thúc đẩy họ làm tốt công việc được giao. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiếu trách nhiệm trong khi thực hiện các chương trình dự án như các dự án thuộc Chương trình 327, Giao đất giao rừng, Xoá đói giảm nghèo... ở một số địa phương.
Kết quả thực hiện các chính sách và chương trình dự án tại các địa phương phụ thuộc một phần vào tinh thần trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ được trao quyền. Sự buông lỏng quản lý, thiếu sự kiểm tra giám sát cần thiết của các cấp có thẩm quyền là tình trạng chung giải thích cho kết quả nghèo nàn của một số chương trình, dự án thực hiện trên địa bàn nghiên cứu.
Phân tích đặc điểm của chương trình 327 ở 3 huyện thuộc lưu vực Sông Cả là Kỳ Sơn, Tương Dương ở Nghệ An và Con Cuông có thể thấy những được nguyên nhân thất bại của dự án.
Qua tìm hiểu về hình thức quản lý Nhà nước, chúng tôi rút ra một số ưu và nhược điểm sau:
Mặt tích cực
Quản lý môi trường trên phạm vi vĩ mô.
Đánh giá được hiệu quả một cách tổng hợp.
Định hướng được mục tiêu, chương trình hành động.
Đảm bảo tính thống nhất giữa các tổ chức, cá nhân, giữa các ban ngành chức năng và giữa các địa phương.
Mặt hạn chế
Việc quản lý nhà nước chủ yếu dựa trên công cụ luật pháp, các chế tài vì thế việc thực hiện tỏ ra cứng nhắc, chưa đồng bộ và phù hợp với nhu cầu của cộng đồng và quốc gia.
Việc hoàn thiện cơ chế, chính sách và hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về bảo vệ tài nguyên môi trường còn chậm, chưa đồng bộ.
Đội ngũ cán bộ quản lý môi trường còn thiếu về số lượng, hạn chế về năng lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Trình độ khoa học - công nghệ bảo vệ môi trường, xử lý, giải quyết ô nhiễm môi trường còn thấp.
Nhận thức về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững của nhiều cấp ủy, lãnh đạo các cấp, các ngành, doanh nghiệp và nhân dân chưa đầy đủ; ý thức bảo vệ môi trường nhìn chung còn thấp.
Nguồn vốn đầu tư và chi thường xuyên cho bảo vệ tài nguyên môi trường chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhiều địa phương còn sử dụng kinh phí sự nghiệp môi trường cho các mục đích khác hoặc sử dụng không hiệu quả.
Trang thiết bị phục vụ công tác bảo vệ tài nguyên môi trường còn thiếu và lạc hậu. Nhiều nơi trong chỉ đạo, điều hành chỉ quan tâm tới các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, coi nhẹ các yêu cầu bảo vệ môi trường; có biểu hiện buông lỏng công tác quản lý nhà nước, thiếu kiên quyết trong việc xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; chưa giải quyết dứt điểm các điểm nóng, bức xúc về ô nhiễm môi trường.
Tình trạng vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường diễn ra khá phổ biến. Nhiều vi phạm có tổ chức, tinh vi, một số hành vi có dấu hiệu tội phạm. Nhiều tổ chức, cá nhân khi vi phạm nhưng không nhận trách nhiệm. Tuy vậy, nhà nước vẫn chưa có biện pháp xử lý hiệu quả, để lại những hậu quả nặng nề cho môi trường.
Các hình thức xử lý vi phạm còn mang tính chiếu lệ, chưa đủ sức răn đe, ngăn ngừa.
Việc quản lý môi trường chưa thực sự mang lại hiệu quả đối với chất lượng cuộc sống của người dân do đó trong quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn, trở ngại như người dân tiếp tay, bảo vệ cho lâm tặc, …
2.2.2. Quản lý tư nhân
Quản lý tư nhân (cá nhân, hộ gia đình) là hình thức quản lý thấp nhất về quy mô. Trong đó, mỗi cá thể là một chủ thể được giao trách nhiệm quản lý chất lượng tài nguyên môi trường ở một khu vực trong một lĩnh vực nào đó. Ví dụ như: Quản lý đất, quản lý rừng, quản lý nguồn lợi thủy sản,…
Nhà nước khẳng định quyền quản lý tài nguyên tập trung vào nhà nước, nhưng lại không đủ lực để thực hiện quyền này. Nhà nước giao cho chính quyền địa phương chi phối, nhưng quyền lực của địa phương thì có hạn (Bruce, 1989).
Như phân tích quản lý tài nguyên rừng theo hình thức nhà nước đã thấy rõ việc tối đa hoá hệ quản lý rừng nhà nước đã dẫn đến tình trạng tài nguyên rừng bị suy thoái. Thất bại đó là một trong những bài học quan trọng nhất về phát triển trong nửa thế kỷ qua ở các nước đang phát triển (Bromlay và Cernea, 1989). Từ sự không thành công của quản lý rừng nhà nước đã dẫn đến người ta hy vọng rằng việc trao quyền quản lý rừng cho tư nhân là một giải pháp tốt để có thể bảo vệ và phát triển rừng.
Quản lý tư nhân là một loại hình quản lý có hiệu quả, vì chủ thể được xác định rõ ràng, họ biết chắc chắn sẽ được hưởng lợi những gì. Thực tiễn phát triển của các trang trại trên thế giới trong những năm qua đã minh chứng rõ ràng nhất cho loại hình quản lý này. Trang trại phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, theo hướng mở rộng diện tích, sản xuất hàng hoá, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người dân.
Nhưng nếu quá nhấn mạnh đến hình thức quản lý tư nhân lại dẫn đến những hậu quả xã hội khác. Như ở Philippin người ta chỉ coi trọng quản lý tư nhân và đã gây nên hậu quả xã hội: phân hoá giàu nghèo mãnh liệt, Nhà nước mất quyền lợi, không kiểm soát được hoạt động sản xuất kinh doanh của tư nhân.
Sơ đồ sau đây ví dụ cho hình thức quản lý nguồn tài nguyên rừng ở nông hộ:
Trên cơ sở phân tích sơ đồ trên chúng tôi nhận thấy hình thức quản lý tài nguyên rưng theo hình thức tư nhân có những ưu điểm cũng như hạn chế sau:
Mặt tích cực
- Phù hợp với chính sách giao đất giao rừng hiện hành nên dễ thực hiện.
- Người dân có chủ quyền trên nguồn tài nguyên được giao nên có điều kiện vay vốn ngân hàng để đầu tư, phát triển, chủ động kế thừa, chuyển nhượng.
- Gắn được trách nhiệm với quyền lợi của người dân địa phương.
- Phát huy được sự năng động của nông hộ trong việc quản lý phát triển tài nguyên.
Mặt hạn chế:
- Phân chia đất rừng cụ thể về mặt pháp lý đến từng hộ có nguy cơ làm mất truyền thống quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng, dòng họ. Đây là tập quán truyền thống quý báu của người dân bản địa, họ thường coi tài sản từ thiên nhiên là của cả cộng đồng, mọi người đều có quyền hưởng.
- Thời gian nhận đất nhận rừng khá dài (thường từ 20 - 50 năm) nên khi gia đình tách hộ sẽ có nguy cơ phát sinh mâu thuẫn, xé lẻ rừng vốn diện tích đã nhỏ bé.
- Có khả năng phát sinh mâu thuẫn giữa các hộ trong phân chia lợi ích, phân chia các loại rừng giàu nghèo, vị trí xa gần khác nhau. Trong một buôn vẫn có hộ không được nhận đất nhận rừng.
- Khó thúc đẩy các phương thức hợp tác trong quản lý, phát triển rừng.
- Trình độ các hộ khác nhau nên việc nhận thức và thực hiện việc quản lý phát triển rừng sẽ không đồng đều.
- Dễ mất rừng do một số hộ quá khó khăn hoặc vì tham lợi trước mắt mà sang nhượng rừng trái phép cho những người sản xuất nông nghiệp.
2.2.3. Quản lý cộng đồng
Quản lý cộng đồng (thôn, bản, nhóm hộ, nhóm người cùng hưởng lợi). Mặc dù cộng đồng không phải là một chủ thể kinh tế, nhưng đây là một loại hình tập thể rất phù hợp với phong tục tập quán của người dân. công đồng cũng là một chủ thể sở hữu tư liệu