Việt Nam có khảnăng gia nhập Tổchức thương mại thếgiới (WTO) vào năm 2006. Đây là cơ
hội tốt đểViệt Nam hội nhập vào thịtrường nông sản thếgiới. Theo thống kê của Tổchức
Lương nông Liên hiệp quốc (FAO), vào năm 2003 thếgiới nhập khẩu 548 tỉ đô la Mỹnông sản.
Các loại nông sản mà Việt Nam có thếmạnh nhưgạo có mức nhập khoảng 7,5 tỉ đô la Mỹ; chè,
cà phê và ca cao 35,6 tỉ đô la Mỹvà hồtiêu khoảng 525 triệu đô la Mỹ. Tuy nhiên rau quảmới là
mặt hàng nhập khẩu lớn nhất thếgiới, trịgiá khoảng 97 tỉ đô la Mỹ.
13 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1524 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Những thách thức mới của nông nghiệp Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Những thách thức mới của nông nghiệp Việt Nam
TS. Nguyễn Quốc Vọng
Viện Nghiên cứu rau hoa quả Gosford, Úc
Việt Nam có khả năng gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào năm 2006. Đây là cơ
hội tốt để Việt Nam hội nhập vào thị trường nông sản thế giới. Theo thống kê của Tổ chức
Lương nông Liên hiệp quốc (FAO), vào năm 2003 thế giới nhập khẩu 548 tỉ đô la Mỹ nông sản.
Các loại nông sản mà Việt Nam có thế mạnh như gạo có mức nhập khoảng 7,5 tỉ đô la Mỹ; chè,
cà phê và ca cao 35,6 tỉ đô la Mỹ và hồ tiêu khoảng 525 triệu đô la Mỹ. Tuy nhiên rau quả mới là
mặt hàng nhập khẩu lớn nhất thế giới, trị giá khoảng 97 tỉ đô la Mỹ.
Những vấn đề nông nghiệp phải đối đầu khi gia nhập WTO
Bên cạnh những lợi ích do việc gia nhập WTO mang lại, nông nghiệp Việt Nam sẽ phải đối đầu
với nhiều thách thức mới rất phức tạp và khó khăn. Đây là vấn đề đặc biệt nhạy cảm, không phải
chỉ thuần là vấn đề kinh tế, mà quan trọng hơn là sự thay đổi của xã hội nông thôn. Đây là vấn đề
lớn cần quan tâm vì nông nghiệp vẫn là nguồn sống của 70% dân Việt Nam ở nông thôn. Những
thách thức mới Việt Nam phải đối đầu là:
1. Cạnh tranh khốc liệt trong và ngoài nước.
Một khi gia nhập WTO, trước hết Việt Nam phải mở cửa cho hàng ngoại tràn vào. Như vậy nông
sản Việt Nam sẽ phải cạnh tranh vừa ở sân nhà vừa ở thị trường quốc tế. Báo cáo của FAO
(năm 2003) cho biết chỉ riêng khu vực châu Á, đã có gần 1 tỉ tấn nông sản đang chờ để cạnh
tranh một khi Việt Nam mở cửa.
2. Tăng khả năng lây lan dịch bệnh
Hàng ngoại khi nhập vào Việt Nam sẽ có khả năng mang theo dịch bệnh. Nếu không có một đội
ngũ kiểm dịch đầy đủ ở mọi cửa khẩu, một chế độ kiểm dịch nghiêm khắc và một danh sách rõ
ràng, công khai về việc được và không được nhập các loại cây, con (để tránh tình trạng lờ mờ
như nhập muỗi làm thức ăn cho cá kiểng) thì dịch bệnh sẽ thâm nhập và lây lan rất nhanh, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế và sức khỏe người dân. Một ví dụ rất đáng tham khảo là
châu Úc trong mấy năm gần đây đang gặt hái một thành quả hết sức to lớn từ chế độ kiểm dịch
vô cùng gắt gao của họ: đó là độc quyền xuất khẩu hàng tỉ đô la Mỹ thịt bò sang Nhật và châu Âu
vì bò Úc an toàn, không hay chưa bị nhiễm bệnh bò điên.
3. Phá hoại tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
Để đối phó với cạnh tranh ngày càng gay gắt, cũng như tăng lượng hàng hóa sản xuất theo yêu
cầu của thị trường, nông dân và các nhà sản xuất sẽ càng lúc càng sử dụng triệt để tài nguyên
thiên nhiên như nước, đất đai, rừng cây… làm cạn kiệt những tài nguyên này. Đồng thời cũng
lạm dụng việc sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật làm môi sinh bị phá hoại.
4. Một bộ phận nông dân không thích hợp với nông nghiệp công nghệ cao, sản xuất manh mún bị
“đào thải”.
Vì sức ép của thị trường, và cũng để khỏi bị đẩy vào cảnh lạc hậu, Việt Nam sẽ phải nhanh
chóng phát triển và ứng dụng kỹ thuật công nghệ cao trong nông nghiệp. Điều này sẽ buộc nông
dân phải học hỏi để có kiến thức, từ đó thay đổi kỹ thuật và thói quen làm việc để hợp với yêu
cầu mới. Cho nên một bộ phận nông dân không có kiến thức hoặc không chịu trau dồi kiến thức
sẽ bị đào thải.
Tương tự, kiểu sản xuất manh mún cũng không thể tồn tại do yêu cầu cần có một lượng hàng
hóa lớn, chất lượng đồng đều và giá rẻ.
5. Đòi hỏi về an toàn và chất lượng ngày càng gay gắt.
Giới tiêu thụ ngày nay, đặc biệt là thị trường nhập khẩu, được tự do lựa chọn nơi mua hàng và
có kiến thức ngày càng cao về chất lượng của nông sản, sẽ đòi hỏi những tiêu chuẩn mới vừa
cao về chất lượng và an toàn vệ sinh, vừa nghiêm khắc về chế độ nuôi trồng và tính bền vững
trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Chu trình nông nghiệp công nghệ cao (best practice)
sẽ trở thành tiêu chuẩn sản xuất mới thay thế chu trình nông nghiệp an toàn (Gap - Good
Agricultural Pratices).
Một hiệp hội nông nghiệp hữu hiệu cho nhà nông chính là lối ra
Rõ ràng nông dân sẽ là người trực tiếp đương đầu với sức ép một khi gia nhập WTO. Sức ép
này sẽ vô cùng nặng nề buộc nông dân phải thay đổi tư duy và thói quen làm việc. Hiện đại hóa
nông thôn sẽ nhờ đó mà phát triển. Nhưng sẽ có một số nông dân không có khả năng thích nghi
với điều kiện sản xuất mới. Họ sẽ bị “đào thải”, tạo nên những vấn đề khó khăn cho xã hội ở
nông thôn. Hiện nay, mặc dù Việt Nam có hàng triệu nhà nông giỏi trên mảnh ruộng dăm ba sào
nhưng lại hiếm có nhà nông sản xuất hàng hóa lớn trên vài ba trăm mẫu. Mặc dù nhà nông Việt
Nam kiểm soát sâu bệnh tốt nhưng hiếm có nhà nông biết đến hoặc nghiêm chỉnh làm theo chu
trình nông nghiệp an toàn GAP và kiểm tra chất lượng (QA) - là tấm “hộ chiếu” để xuất khẩu và
cũng để cạnh tranh với hàng ngoại trong nước. Nhà nước sẽ không có khả năng ngay tức khắc
hiện đại hóa nông thôn, chuyển giao công nghệ cao cho toàn bộ nông dân để chất xám được sử
dụng trên đồng ruộng. Tuy nhiên Nhà nước có khả năng giúp nông dân tổ chức những hiệp hội
để nhà nông-nhà kinh doanh-nhà nước hợp tác làm việc, qua đó việc chuyển giao công nghệ về
kỹ thuật sản xuất, chu trình nông nghiệp an toàn GAP, hoặc các yêu cầu của thị trường trong
nước và xuất khẩu… được thực hiện nhanh chóng. Đó là điểm sinh tử của chính nhà nông và
nhà kinh doanh. Kinh nghiệm của các nước như Úc, Nhật cho thấy không có một tổ chức nào
đóng góp một cách tích cực và hữu hiệu vào nông nghiệp cho bằng một tổ chức do chính nông
dân đứng ra đảm đương, dưới sự trợ giúp của nhà nước. Úc là một ví dụ điển hình nói lên tính
hữu hiệu của tổ chức nông dân đó. Ở đây việc tổ chức, nghiên cứu, đào tạo chuyên viên, giao
dịch mua bán… của những ngành nông nghiệp chính như thịt bò, lúa mì, lúa gạo, bông vải, rau
quả… đều do hiệp hội nông dân tự đảm trách với sự trợ giúp của Bộ Nông nghiệp. Vì vậy, với
tổng sản lượng lương thực chỉ khoảng 25 tỉ đô la Mỹ, vậy mà mỗi năm nông nghiệp Australia đã
đem về cho đất nước 18-20 tỉ đô la Mỹ ngoại tệ.
Việt Nam đã vượt đích 1 tỉ đô la Mỹ xuất khẩu gạo vào tháng 8-2005. Trước mắt sẽ là một chặng
đường gay go hơn vì từ đây Việt Nam phải cạnh tranh trong một thị trường mới, một thị trường
tự do vì đã gia nhập WTO. Nếu nông dân được tham gia vào những hiệp hội có tổ chức hợp lý
để qua đó họ được nhanh chóng trang bị đầy đủ kỹ thuật công nghệ cao, thì việc cạnh tranh tốt
với hàng ngoại tại sân nhà và chỉ tiêu đạt 4 tỉ đô la Mỹ xuất khẩu nông lâm sản vào năm 2010
không phải là điều vượt quá tầm tay.
Trích Thời báo Kinh tế Sài Gòn Tháng 09/2005
Nông nghiệp: chặng đường phía trước
TS. Trần Thượng Tuấn
Thời khắc nước ta trở thành thành viên WTO đang đến gần. Điều đó mở ra cơ hội lớn cho
nước ta trên bước đường hội nhập kèm theo những thách thức không nhỏ và không giống
nhau trong từng lĩnh vực. Nhạy cảm nhất cho đến nay trong tiến trình toàn cầu hóa đối
với các nước đang phát triển và cả các nước phát triển vẫn là lĩnh vực nông nghiệp. Đó là
lĩnh vực còn nhiều bất đồng nhất, dẫn đến vòng đàm phán Doha dù được khởi động từ
năm 1999, đến nay vẫn trong tình trạng bế tắc.
Khoa học - kỹ thuật đi trước
Để vượt qua những khó nhăn và thách thức này, điều cấp thiết nhất là hoàn chỉnh chiến
lược phát triển nông nghiệp, tạo bước chuyển về chất lượng và sức cạnh tranh trong giai
đoạn hậu WTO. Cho đến nay, trong nông nghiệp vẫn còn ít nhiều tư duy tự cấp tự túc,
thiếu chú trọng tập trung khai thác các sản phẩm có lợi thế so sánh, dựa vào nguồn nhân
lực dồi dào và điều kiện tự nhiên đặc thù, đa dạng của đất nước.
Cây bông vải không thích hợp với điều kiện của đồng bằng sông Cửu Long, nên cho năng
suất, chất lượng thấp, giá thành cao hơn so với nhập khẩu, vậy mà đã từng có chủ trương
phát triển bông vải trong khu vực này. Trong khi chưa chọn được giống thích hợp với
điều kiện sinh thái nóng và ẩm của miền Nam, giống bò sữa nhập hoặc lai cho năng suất
sữa trung bình chỉ bằng một nửa so với vùng ôn đới, vậy mà vẫn có chủ trương phát triển
ồ ạt. Trách sao hàng loạt nhà chăn nuôi chẳng điêu đứng vì thua lỗ. Hơn nữa, mỗi con bò
sữa ở châu Âu và Bắc Mỹ còn được trợ giá hơn 2 đô la/ngày, thì sữa bò trong nước làm
sao cạnh tranh nổi. Vì sao cứ phải lao vào cuộc chiến mà phần bại khó tránh khỏi đã có
thể đoán trước được?
Khi chủ trương phát triển cây bông vải, đậu nành và bắp ở đồng bằng sông Cửu Long
được phát động, trong một cuộc họp tại TPHCM, có nhà lãnh đạo trong Chính phủ hỏi tôi
về trường hợp cây đậu nành. Tôi xin phép được nói thẳng: Với kinh nghiệm của mình, tôi
đảm bảo đậu nành sản xuất ở ĐBSCL có thể đạt năng suất cao nhất nước, nhưng vẫn thấp
hơn rất nhiều so với Mỹ, Brazil và một số nước khác, chưa nói là chi phí phòng trừ sâu
bệnh rất cao; hơn nữa Mỹ còn trợ giá cho đậu nành rất nhiều. Vì vậy trước khi quyết định
mở rộng sản xuất, cần cân nhắc lợi ích giữa tự sản xuất với giá thành cao và nhập khẩu
với giá rẻ.
Theo thỏa thuận với Mỹ, cũng có nghĩa là cả với các nước khác, khi gia nhập WTO, Việt
Nam phải giảm thuế nhập khẩu nông sản, đối với đậu nành thuế suất sẽ giảm từ 15%
xuống còn 5% trong ba năm, còn bông vải sẽ được hưởng mức thuế 0% ngay lập tức.
Trong thời đại toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại, tư duy tự cấp tự túc sẽ đẩy nền nông
nghiệp nước ta vào ngõ cụt, mà hậu quả trước tiên nông dân sẽ gánh chịu. Cần sớm xác
định và tập trung phát triển những loại nông sản có lợi thế so sánh, và xóa bỏ hẳn cách
nghĩ không nên nhập những thứ mà chúng ta có thể sản xuất được, bất kể với mức chi phí
nào, của thời kỳ trước “mở cửa”.
Nói điều đó không có nghĩa là phải xóa sổ các loại cây trồng, vật nuôi nói trên ở nước ta,
mà khi hình thành ý định mở rộng sản xuất ra ngoài các địa bàn truyền thống, bước đi cần
thiết phải làm trước là đầu tư nghiên cứu tạo ra giống mới và quy trình canh tác đảm bảo
sản phẩm thu được có tính cạnh tranh trên thị trường. Đáng tiếc là trình tự ngược lại đã
được áp dụng trong không ít trường hợp, như đã nói ở trên. Chỉ khi nào khoa học - kỹ
thuật đi trước một bước, thì nền nông nghiệp nước ta mới có đủ năng lực cạnh tranh để
phát triển bền vững trong tiến trình hội nhập.
Cần một chính sách hợp lý
Chính sách ruộng đất có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của nền nông nghiệp, nhưng cho
đến nay vẫn có sự giằng co giữa hai quan điểm trái ngược nhau về vấn đề này. Nên chăng
cứ tiếp tục hô hào khẩu hiệu “người cày có ruộng”, được nêu ra trong giai đoạn chống
thực dân phong kiến, mà không nhìn thấy thực tế là ruộng đồng ngày càng bị chia nhỏ,
làm cho sản xuất kém hiệu quả, do khó áp dụng cơ giới hóa đồng bộ hay hạn chế trong
việc áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật? Cùng trên một cánh đồng, nhưng sản xuất
manh mún, mỗi người làm theo một kiểu, gây trở ngại cho nhau, thì không thể nào đáp
ứng được yêu cầu của thị trường về hàng hóa chất lượng cao, khối lượng lớn, giá cạnh
tranh.
Thử tính thu nhập của một nông hộ với bốn nhân khẩu, có 1 héc ta ruộng. Giả sử ruộng
có thể sản xuất lúa ba vụ, với năng suất cao, bình quân 5 tấn/héc ta/vụ. Từ 15 tấn lúa, bán
với giá 2.300 đồng/ký như hiện nay, nông hộ thu được 34,5 triệu đồng. Với mức lời cao -
30%, thu nhập thực tế của cả gia đình là 10,35 triệu đồng, chia ra mỗi nhân khẩu được
2,5875 triệu đồng/năm hay 215.600 đồng/người/tháng, thấp hơn ngưỡng nghèo. Cho dù
đạt được mức phấn đấu 50 triệu đồng/héc ta đi nữa, thì thu nhập bình quân đầu người
cũng mới chỉ có 312.500 đồng/người/tháng. Với mức thu nhập ít ỏi như vậy, những nông
hộ đó khó có cơ may phát triển và lo cho con cái ăn học chu đáo, chưa nói đến trường
hợp ốm đau hay gặp thiên tai. Vậy mà số nông hộ có diện tích ruộng khoảng 1 héc ta trở
lại ở nước ta đang chiếm một tỷ lệ lớn. Một số nước Tây Âu cũng có chính sách hạn điền,
nhưng thay vì với mức giới hạn trên như ở nước ta, họ chỉ quy định mức giới hạn dưới,
để tránh tình trạng chia ruộng đất quá nhỏ, làm giảm hiệu quả canh tác. Thiết nghĩ đó
cũng là điều đáng cân nhắc đối với đề xuất nới rộng hạn điền, đi đôi với phát triển việc
làm phi nông nghiệp và đào tạo cho nông dân.
Trái ngược với tình trạng thiếu đất sản xuất của nông dân, các nông trường quốc doanh
đang kiểm soát đến 25% diện tích đất nông nghiệp của quốc gia, nhưng sản xuất kém
hiệu quả, chỉ tạo ra 1% GDP (theo TS. Lê Đăng Doanh). Sự bất hợp lý nói trên cần sớm
có giải pháp khắc phục.
Tuy nhiên, trong hoàn cảnh đất hẹp người đông và kinh tế nông nghiệp chiếm tỷ lệ khá
lớn của nước ta, dù có chấp nhận mở rộng hạn điền, những nông hộ có diện tích ruộng
vài héc ta trở lại vẫn còn chiếm số đông, ít nhất trong vài thập kỷ tới, do công nghiệp và
dịch vụ chưa phát triển đủ sức thu hút phần lớn lao động nông thôn. Gần đây một số tỉnh,
thành còn chủ trương phát triển nông nghiệp công nghệ cao, sản xuất nông sản sạch. Điều
đó càng đòi hỏi đẩy nhanh việc tổ chức lại sản xuất nông nghiệp, để có đủ sức đầu tư cho
việc ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ mới trên diện rộng.
Tình trạng nghèo khó và thu nhập bấp bênh của số đông nông dân không cho phép cứ
tiếp tục duy trì cách nghĩ, cách làm cũ. Chủ trương phát triển sản xuất nông nghiệp dựa
trên cơ sở nông hộ, một thời đã mang lại hiệu quả trong việc chuyển nước ta từ tình trạng
nhập khẩu lương thực thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới, cùng nhiều loại
nông sản khác. Tuy nhiên, đến giai đoạn này, sản xuất nhỏ lẻ lại trở thành cản ngại lớn
cho bước phát triển tiếp theo của nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại
hóa. Thử nghĩ về tình huống sau: Một địa phương có hàng chục ngàn héc ta vườn, cử một
đoàn ra nước ngoài tiếp thị về các loại trái cây. Đối tác nhận thấy chất lượng và giá cả trái
cây có thể chấp nhận được, nên đã cử đoàn sang đàm phán. Khi tìm hiểu kỹ lại, thì chất
lượng trái cây không đồng nhất, khó tập trung số lượng lớn. Hy vọng xuất khẩu tan biến
nhanh chóng. Tiếc thay, đó không phải là tình huống giả định, mà là chuyện đã xảy ra
trong thực tế. Nguyên nhân không khó xác định - sản xuất nhỏ lẻ, phân tán. Do đó, tăng
cường hợp tác hóa thông qua các chính sách và giải pháp thích hợp là vấn đề thiết yếu
cho bước phát triển tiếp theo của nông nghiệp. Phải chăng đó là vấn đề quan trọng nhất,
khi bước vào thời kỳ hậu WTO, gắn liền với việc tổ chức lại sản xuất nông nghiệp?
Trích Thời báo Kinh tế Sài Gòn tháng 06/2006
Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt nam trước yêu cầu hội nhập
Vũ Xuân Mừng
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ việt Nam trước yêu cầu hội nhập hiện đang đóng một
vai trò quan trọng, biểu hiện ở khả năng thu hút lao động và đóng góp GDP hằng năm
trong nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, các doanh nghiệp đó vẫn đang gặp nhiều trở
ngại trong quá trình phát triển do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan. Để khắc
phục tình trạng này, đòi hỏi phải có sự nỗ lực rất lớn về phía Nhà nước cũng như các
doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời gian tới.
Nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp là biện pháp cơ bản nhất
trong quá tình hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với kinh tế toàn cầu. Môi trường đầu tư
kinh doanh hiện nay của Việt Nam đang được cải thiện dần, tạo ra nhiều thuận lợi hơn
cho các đơn vị sản xuất, kinh doanh trong và ngoài nước.
Trước xu thế hội nhập kinh tế trong khu vực và toàn cầu, nhìn một cách khách quan, có
thể nói hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn khá yếu,
thể hiện trên nhiều mặt như: chất lượng hoàng hóa chưa cao, chưa đủ đáp ứng cho nhu
cầu và đòi hỏi của thị trường trong nước, khả năng thâm nhập thị trường khu vực và thế
giới còn hạn chế... Mặt khác, do thất thoát và lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản,
trong sản xuất và lưu thông hàng hóa còn lớn nên kéo theo giá thành sản phẩm và dịch vụ
của doanh nghiệp Việt Nam đang luôn cao hơn mức bình quân của khu vực, hiệu quả
kinh doanh thường xuyên thấp, rất khó cạnh tranh với hàng hóa của các nước xung
quanh, đặc biệt càng khó khăn khi cạnh tranh với hàng hóa có xuất xứ từ Trung Quốc.
Nguyên nhân gây ra tình trạng trên có nhiều, trong đó có thể nêu lên một vài nguyên
nhân chính như: chúng ta chưa có một hệ thống chính sách đồng bộ, thống nhất trong
việc đưa các chủ trương, chính sách vào các doanh nghiệp. Về phía doanh nghiệp, các
đơn vị sản xuất - kinh doanh còn chậm trong việc đầu tư đổi mới công nghệ, bồi dưỡng
và nâng cao tay nghề cho cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công nhân; rồi chi phí sản xuất
và dịch vụ còn thất thoát, lãng phí; tính công khai, minh bạch trong các hoạt động kinh
doanh chưa cao.v.v. cũng là những nguyên nhân không kém phần quan trọng. Trong hệ
thống các doanh nghiệp Việt nam, ngay cả các doanh nghiệp lớn của nhà nước và doanh
nghiệp tư nhân có vốn đầu tư lớn, có nhiều kinh nghiệm mà vẫn gặp phải những khó
khăn trên thương trường, thì đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khó khăn, thách thức
sẽ lớn hơn nhiều lần.
Việc làm sao để giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước tăng cương tính cạnh tranh
đang là một thách thức đối với công tác quản lý vĩ mô của nước ta hiện nay. Bài viết này
đề cập thực trạng, cũng như một số giải pháp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt
Nam trong quá trình phát triển, nhất là để chủ động gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO) khi thời gian đang đến gần.
Năm 2005, các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt nam đã đóng góp 26% GDP của nền
kinh tế. Cũng trong năm này, đã có thêm 18.400 doanh nghiệp vừa và nhỏ ra đời. Theo
đó, ước tính đến năm 2010, cả nước sẽ có khoảng 500.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ.
(Nguồn: Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật doanh nghiệp vừa và nhỏ).
Các doanh ngiệp vừa và nhỏ tại Việt nam cũng đang sử dụng một lực lượng lao động khá
lớn trên cả nước, hằng năm đã tạo thêm cho khoảng từ 26 đến 30 vạn lao động mới.
Kết quả điều tra tại khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam (bao gồm 22 tỉnh, thành phố
thuốc vùng Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, cũng là nơi tập trung số lượng lớn nhất các
doanh nghiệp vừa và nhỏ của cả nước) cho thấy, tại đây có tới 84.570 doanh nghiệp vừa
và nhỏ; trong đó, chỉ có 597 doanh nghiệp nhà nước, còn gọi là doanh nghiệp ngoài quốc
doanh với các loại hình, cụ thể được phân chia như sau:
- Doanh nghiệp tư nhân: 36.527 doanh nghiệp;
- Công ty trách nhiệm hữu hạn: 39.950 doanh nghiệp;
- Công ty cổ phần: 4.186 doanh nghiệp;
- Công ty hợp doanh và hợp tác xã: 3.320 đơn vị.
Nếu phân chia theo cơ cấu ngành nghề sẽ có:
- Nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 21,8%;
- Công nghiệp và xây dựng chiếm 36,7%;
- Thương mại và dịch vụ chiếm 41,5%.
(Nguồn: Báo cáo tại hội nghị tổng kết khu vực miền Đông, miền Tây Nam Bộ, Trung tâm
hỗ trợ kỹ thuật doanh nghiệp vừa và nhỏ).
Các số liệu trên đây cho thấy vai trò và sự đóng góp quan trọng của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ trong nền kinh tế nước ta. muốn đạt được tốc độ tăng trưởng công nghiệp từ
16,5% - 17%/năm trong 5 năm tới, phải có sự vươn lên và tăng trưởng đột biến trong
khối doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động của khối doanh nghiệp này
đang đứng trước những khó khăn cơ bản sau đây.
Thứ nhất, nguồn vốn của các doanh nghiệp này (mà chủ yếu là khối doanh nghiệp tư
nhân) cơ bản là dựa vào vốn tự huy động, vốn vay từ nguồn nhàn rỗi trong dân, vay từ
các ngân hàng thương mại... Các doanh nghiệp này nhận được rất ít sự trợ giúp về vốn từ
nguồn ngân sách, mặc dù nghĩa vụ thuế của các doanh nghiệp tư nhân hoàn toàn không
có sự khác biệt so với các doanh nghiệp nhà nước. Nói cách khác, nguồn cho vay vốn từ
ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ muốn vay vốn ngân hàng nhằm thực hiện
đổi mới thường phải chịu sự thẩm định rất ngặt nghèo, mặc dù phải xuất trình đầy đủ hồ
sơ, giấy tờ, thủ tục... nhưng có khi vẫn không được vay. Hoặc có trường hợp một doanh
nghiệp cần vay ngân hàng khoản tiền bằng 30% vốn pháp định, nhưng ngân hàng đó yêu
cầu phải có một khoản thế chấp gấp 3 lần mức vay!
Thứ hai, các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó khăn khi tiếp cận với các chính sách hỗ trợ
của nhà nước đối với các đơn vị kinh tế. Do uy tín trên thương trường cũng như thương
hiệu của các do